- Trang Chủ
- Lịch sử - Văn hoá
- Họ Nguyễn với việc tiếp nhận tri thức khoa học, áp dụng kỹ thuật quân sự phương Tây vào Nam Bộ trong giai đoạn cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX
Xem mẫu
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 79 (01/2022) No. 79 (01/2022)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: http://sj.sgu.edu.vn/
HỌ NGUYỄN VỚI VIỆC TIẾP NHẬN TRI THỨC KHOA HỌC,
ÁP DỤNG KỸ THUẬT QUÂN SỰ PHƯƠNG TÂY VÀO NAM BỘ
TRONG GIAI ĐOẠN CUỐI THẾ KỶ XVIII - ĐẦU THẾ KỶ XIX
The Nguyễn’s family and its acquisition of western knowledge
and adoption of military technology in Southern Vietnam
in the late 18th century and early 19th century
ThS. Nguyễn Trọng Minh
Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh
TÓM TẮT
Cuối thế kỷ XVIII, cuộc nội chiến giữa chúa Nguyễn với nhà Tây Sơn diễn ra trong bối cảnh các nước
tư bản phương Tây đang tìm cách gia tăng sự hiện diện và sức ảnh hưởng ở các quốc gia phương Đông,
trong đó có Việt Nam. Để gia tăng sức mạnh cho quân đội của mình, chúa Nguyễn Ánh đã chủ động
tiếp nhận những ảnh hưởng từ phương Tây, đặc biệt là trên lĩnh vực quân sự. Với vai trò là nơi chúa
Nguyễn chọn làm căn cứ, vùng đất Nam Bộ đã sớm có điều kiện để tiếp nhận tri thức khoa học, áp dụng
kỹ thuật quân sự của phương Tây. Quá trình này đã có tác động không nhỏ đưa đến sự thay đổi tương
quan lực lượng, là một nhân tố quan trọng đóng góp vào thắng lợi của chúa Nguyễn trước nhà Tây Sơn.
Đồng thời nó cũng chứng tỏ khả năng của người Việt trong việc nắm bắt và làm chủ cái mới, đặc biệt là
trên lĩnh vực khoa học kỹ thuật.
Từ khóa: khoa học kỹ thuật, phương Tây, quân đội
ABSTRACT
At the end of the 18th century, the civil war between Nguyễn lord and the Tây Sơn dynasty occurred in
Vietnam, while Western Capitalist countries were attempting increase their influences in Eastern
countries, including Vietnam. Nguyễn lord took the initiative to adopt knowledge, especially that in the
field of military, from the Western countries in order to strengthen his army. As a result, the Southern
Vietnam chosen to be the military base of Nguyễn lord soon got chances to become a place for people to
apply military knowledge and technology from the Western countries. This adoption process
significantly affected the gap of the power between the two armies, which was a crucial factor
contributing to the victory of Nguyễn lord over the Tây Sơn dynasty. Besides, this proved that the
Vietnamese had the abilities to adopt and master new knowledge, especially that in the field of science
and technology.
Keyword: science and technology, Western, army
1. Đặt vấn đề Nguyễn ở Đàng Trong. Chúa Trịnh ở Đàng
Năm 1771, ba anh em Tây Sơn phất cờ Ngoài cũng muốn nhân cơ hội tiêu diệt họ
khởi nghĩa chống lại chính quyền chúa Nguyễn. Do đó, Trịnh Sâm cử Hoàng Ngũ
Email: trongminhhussh@gmail.com
136
- NGUYỄN TRỌNG MINH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
Phúc đem binh đánh vào Đàng Trong. thay mặt mình sang Pháp cầu viện: “Hiện
Chúa Nguyễn thua trận phải chạy vào Nam nay giặc Tây Sơn chưa dẹp được, bốn mặt
Bộ để gây dựng lại cơ đồ. Trong quá trình kinh đô còn nhiều đồn lũy mà đảo Thổ
này, Nguyễn Ánh từng bước trở thành Châu và đảo Phú Quốc không chỗ nào yên
người lãnh đạo của thế lực họ Nguyễn ở được, vận nước ta gặp bước gian truân,
Nam Bộ. Năm 1780, Nguyễn Ánh xưng khanh đã rõ rồi. Khanh có thể vì ta đi sứ
vương, chỉ huy quân Nguyễn ở Nam Bộ sang Đại Tây, nhờ đem quân sang giúp ta
chống lại thế lực nhà Tây Sơn. Ban đầu, được không?” (Quốc sử quán triều
khi phải đối đầu với một lực lượng quân Nguyễn, 2002, tập 1, tr, 137 ).
đội hùng hậu của nhà Tây Sơn, quân Dù việc cầu viện không thành nhưng
Nguyễn liên tục vấp phải những thất bại. giám mục Bá Đa Lộc vẫn không nản lòng
Trước tình hình đó, Nguyễn Ánh đã tìm và với sự vận động cá nhân, ông đã một
kiếm những sự giúp đỡ từ bên ngoài, đặc mình đứng ra lo liệu công việc và tập hợp
biệt là từ các thế lực phương Tây. Nhận các nguồn viện trợ giúp Nguyễn Ánh. Ông
thấy sự vượt trội của phương Tây trên lĩnh đã đứng ra vận động giới tư bản thuộc địa
vực quân sự, Nguyễn Ánh đã chủ động tiếp quyên tiền mua tàu chiến, sắm khí giới và
nhận những tri thức khoa học [1], áp dụng mộ người sang để giúp Nguyễn Ánh. Năm
kỹ thuật [2] quân sự phương Tây nhằm 1788, tàu Dryade và tàu Pandour thả neo
nâng cao khả năng chiến đấu cho quân đội tại Côn Đảo, đưa đến đây 1000 khẩu súng
của mình. Trong bối cảnh đó, vùng đất cho họ Nguyễn (Phạm Văn Sơn, 1961,
Nam Bộ đã trở thành nơi sớm có điều kiện tr.158). Đến cuối tháng 6 năm Kỷ dậu
để tiếp xúc với phương Tây, trở thành (1789), Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh theo
trung tâm tiếp nhận và áp dụng những tri tàu chiến Méduse về đến Gia Định. Các tàu
thức, kỹ thuật quân sự của phương Tây ở buôn chở súng ống, đạn dược cũng nối tiếp
nước ta hồi cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ sang sau (Trần Trọng Kim, 2012, tr.435).
XIX. Ngoài ra, Bá Đa Lộc còn vận động nhiều
2. Vùng đất Nam Bộ với việc tiếp người Pháp tình nguyện sang Việt Nam
nhận tri thức khoa học, áp dụng kỹ giúp Nguyễn Ánh. Về điều này, nhà sử học
thuật quân sự phương Tây hồi cuối thế Tsuboi đã nhận xét: “Pigneau de Béhaine
kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX phải giải quyết bằng phương tiện riêng của
2.1. Sự du nhập những tri thức khoa mình để gom góp tại đảo Pháp (nay là
học, kỹ thuật quân sự phương Tây vào Maurice) một đội quân tình nguyện, trong
Nam Bộ đó có nhiều sĩ quan hải quân” (Yoshiharu
Trong quá trình bôn tẩu, gây dựng lực Tsuboi, 1998, tr.60). Trong số đó, có thể kể
lượng trên đất Nam Bộ, chúa Nguyễn Ánh đến một số nhân vật tiểu biểu như sau:
đã tìm nhiều cách để tiếp xúc với những - J.B. Chaigneau thuyền trưởng tàu
người phương Tây, lôi kéo sự ủng hộ của Long Phi.
họ về phía mình. Trong bối cảnh đó, những - De Forcant thuyền trưởng tàu Bằng
tri thức khoa học, kỹ thuật quân sự phương Phi.
Tây đã có điều kiện thuận lợi để hiện diện - Phillippe Vannier thuyền trưởng tàu
trên vùng đất này. Nguyễn Ánh đã cậy nhờ Bòng Thước, sau đó là tàu Đồng Nai và tàu
giám mục Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) Phụng.
137
- SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 79 (01/2022)
- Jean Marie Dayot chỉ huy một đội một phần quân đội theo cách thức ở châu
thuyền chiến. Âu, lập một đạo pháo binh cùng thủy binh
- Victor Ollivier, sĩ quan cơ khí, trông hiện đại (Cao Huy Thuần, 2003, tr.40). Từ
coi tổ chức bộ binh, pháo binh và đồn lũy. đây, những tri thức khoa học kỹ thuật quân
- Théodore Le Brun, kỹ sư trông coi sự phương Tây đã theo chân những người
việc xây thành. Bản đồ thành Sài Gòn là do Pháp này du nhập vào Nam Bộ.
Théodore Le Brun thiết kế. 2.2. Hoạt động áp dụng những tri
- Laurent Barisy, trung tá. thức khoa học, kỹ thuật quân sự phương
- Julien Girard de l’Isle-Sellé, đại úy Tây trên vùng đất Nam Bộ
Hải quân. Trước khi chúa Nguyễn chạy vào Nam
- J.M. Despiaux là thầy thuốc chăm lo Bộ, những thành tố của nền quân sự
sức khỏe cho Nguyễn Ánh. phương Tây gần như chưa hiện diện trên
- Louis Guillon, trung úy Hải quân. vùng đất này. Với việc chúa Nguyễn chọn
- Jean Guilloux, trung úy Hải quân. Nam Bộ làm căn cứ để gây dựng lực lượng
Trong đó; Philippe Vannier, Jean chống lại nhà Tây Sơn, những thành tố của
Bastiste Chaingneau và Jean Marie Dayot nền quân sự phương Tây cũng từng bước
đều được đổi thành họ Nguyễn; Philippe du nhập vào Nam Bộ.
Vannier có tên là Chấn, còn Jean Bastiste Quá trình tiếp nhận những tri thức
Chaingneau được đặt tên là Thắng. khoa học quân sự phương Tây ở Nam Bộ
Theo nghiên cứu của Alexis, H. nằm dưới sự điều phối của Nguyễn Ánh,
Cosserat, A. Faure, các tác giả của công người đứng đầu lực lượng quân đội họ
trình In Search of Southeast Asia cho rằng Nguyễn ở nơi đây. Khác với nhiều nhà
có trên 300 người Pháp có mặt trong quân lãnh đạo ở phương Đông lúc bấy giờ,
đội của Nguyễn Ánh (Steinberg, D. J., Nguyễn Ánh tỏ ra rất quan tâm và chịu khó
1971, tr.127). Theo số liệu của H. Cosserat học tập kỹ thuật phương Tây. Giám mục
trong công trình khảo cứu Les FranCais au Pigneau de Béhaine đã dịch nhiều đoạn của
service de Gia Long thì có 18 nhân vật có bộ Bách khoa toàn thư Pháp
vai trò quan trọng trong triều đình Gia (Encyclopédie) [3] sang chữ Hán cho
Long và có tất cả 12 chiếc tàu Pháp đã Nguyễn Ánh đọc. Nhờ đó, ông biết được
tham gia vào đội quân của Nguyễn Ánh không ít kiến thức về nền khoa học quân sự
(Nguyễn Mạnh Dũng, 2013, tr. 3). Còn phương Tây. Trong đó, ông đặc biệt chú ý
theo ước đoán của tác giả G. Taboulet đến 3 lĩnh vực: chế tạo vũ khí, tổ chức và
trong công trình nghiên cứu Hành động huấn luyện quân đội, xây dựng thành lũy.
của người Pháp ở Đông Dương thì số Trong suốt cuộc chiến với nhà Tây Sơn,
lượng người Pháp theo giúp Nguyễn Ánh Nguyễn Ánh đã dành rất nhiều tâm huyết
có khoảng 100 người. Cho dù còn nhiều để áp dụng những tri thức phương Tây mà
đánh giá khác nhau về vai trò của người mình tiếp nhận được trên các lĩnh vực này
Pháp ở một số khía cạnh, song có một thực nhằm xây dựng nên một lực lượng quân
tế không thể phủ nhận là họ đã đóng vai trò đội hùng mạnh trên vùng đất Nam Bộ.
quan trọng trong việc giúp hiện đại hóa Trong quá trình đó, Nguyễn Ánh đã nhận
quân đội của Nguyễn Ánh bởi nhóm người được sự hỗ trợ đắc lực từ những người
Pháp này đã giúp Nguyễn Ánh huấn luyện Pháp đi theo giúp mình. Họ đã trực tiếp
138
- NGUYỄN TRỌNG MINH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
tham gia hỗ trợ và chuyển giao những kỹ đạt đến một trình độ mà như nhận xét của
thuật quân sự phương Tây cho quân đội một giáo sĩ người Pháp: “những công binh
của chúa Nguyễn. xưởng của Nguyễn Ánh làm cho người
2.2.1. Chế tạo vũ khí nước ngoài phải ngưỡng mộ và làm cho
Từ thời còn chiến đấu với chúa Trịnh khắp châu Âu phải ngợi khen nếu được
hồi thế kỷ XVII, quân đội chúa Nguyễn đã chứng kiến tận mắt. Súng ống, đạn pháo đủ
được trang bị một số loại vũ khí của cỡ, súng tác chiến, kệ súng, trái đạn… đa
phương Tây. Dưới sự chỉ dẫn của các giáo số đều thuộc mẫu mới nhất” (Taboulet, G.,
sĩ, nền quân giới chúa Nguyễn thời kỳ đó 1955, tr.268).
cũng đã sản xuất được một số loại vũ khí Ngoài ra, một số kỹ thuật được coi là
của Tây phương, đặc biệt là đại bác. Tuy tân tiến nhất thời bấy giờ đã được chúa
nhiên, trải qua một giai đoạn dài không có Nguyễn Ánh cho nhập về, trong đó có việc
chiến tranh, những thành tựu trên đã dần bị sử dụng đạn nổ (đạn đại bác nổ khi chạm
mai một. Đến khi phải chạy nạn vào Gia đích), tàu bọc đồng (phần gỗ chìm dưới
Định, nền quân giới của chúa Nguyễn hầu nước để được bền hơn), và còn định sử
như phải bắt đầu lại từ đầu bởi những dụng khinh khí cầu để công thành (Nguyễn
xưởng sản xuất vũ khí gần như tập trung ở Duy Chính, 2011, tr.31).
Phú Xuân (Huế) mà hầu như không xuất Về trang bị, ngay từ khi còn nội chiến
hiện ở Gia Định. Tuy nhiên, đó cũng chính với Tây sơn, Nguyễn Ánh đã mua hay thuê
là động lực để Nguyễn Ánh đẩy mạnh việc từ hải ngoại vài chiếc thuyền Âu châu,
tiếp nhận tri thức và áp dụng kỹ thuật quân từng bước xây dựng nên một lực lượng hải
sự phương Tây trong hoạt động sản xuất quân tương đối hùng hậu. Năm 1799 một
quân giới nhằm khỏa lấp cho những bất lợi thương nhân người Anh tên Berry đã từng
đang gặp phải. chứng kiến một cuộc khởi hành của hạm
Với sự giúp sức của các kỹ sư quân sự đội thủy quân Nguyễn Ánh chạy xuôi dòng
người Pháp, nền sản xuất quân giới trong sông Sài Gòn với cảnh tượng hết sức huy
quân đội của Nguyễn Ánh đã có được hoàng, khoảng 100 chiếc thuyền buồm sàn
nhiều bước tiến đáng kể. Trong một thấp, 40 thuyền buồm lớn, 200 thuyền nhỏ
khoảng thời gian tương đối ngắn, Nguyễn và 800 xuồng chuyên chở hàng, được kéo
Ánh đã xây dựng những cơ xưởng đúc bởi 3 chiến thuyền một buồm kiểu Âu
súng đạn. Phần bộ đúc kim loại (foundery châu, hạm đội này nhổ neo và xuôi dòng
hay foundry) của Tây phương được theo một trật tự tuyệt đối, chia làm ba đội
Nguyễn Ánh tham khảo khá kỹ càng trong và sẵn sàng ứng chiến. (Dẫn theo
bộ Từ điển bách khoa (khoảng 4 trang 625- Mantienne, F., 2003. tr. 530).
629, vol. II). Vào thập niên 1790, chúa Để tránh sự lệ thuộc vào việc thuê
Nguyễn xây dựng một nhà máy chế tạo hoặc mua các thuyền chiến của phương
diêm tiêu, khai mỏ và lò luyện kim để đúc Tây, chúa Nguyễn đã dành sự quan tâm
súng thần công. Việc sản xuất diêm tiêu đã đặc biệt đến lĩnh vực đóng tàu thuyền theo
góp phần lớn vào việc xây dựng một quân kiểu Tây phương. Kỹ thuật đóng thuyền
đội độc lập, ít phục thuộc vào nguồn cung thời kỳ này ở Nam Bộ đã du nhập thêm
từ bên ngoài. Kỹ nghệ chế tạo vũ khí kiểu những yếu tố kỹ thuật mới của phương Tây
phương Tây của chúa Nguyễn thời kỳ này với sự trợ giúp của các sĩ quan người Pháp.
139
- SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 79 (01/2022)
Việc học tập kỹ thuật đóng tàu của phương súng, 5 chiến thuyền với 50 khẩu súng, 40
Tây được diễn ra bằng một ý tưởng đơn thuyền với 16 súng, 100 thuyền buồm, 119
giản nhưng rất sáng tạo. Đó là mua hẳn thuyền buồm sàn thấp và 365 thuyền nhỏ.
một chiếc tàu của người Bồ Đào Nha rồi (Dẫn theo Mantienne, F., 2003. tr. 530).
tháo gỡ chúng ra thành từng mảnh riêng Những nỗ lực cải tiến hải quân bằng
biệt, và sau đó được ráp trở lại theo cấu cách tiếp nhận khoa học kỹ thuật phương
trúc cũ. Nhờ đó mà những thợ đóng tàu Tây thông qua sự giúp đỡ của người Pháp
Việt Nam đã học hỏi được các kỹ thuật tinh mà Nguyễn Ánh tiến hành ở Nam Bộ đã
xảo của phương Tây trong lĩnh vực đóng giúp cho sức mạnh của lực lượng thủy
tàu rồi áp dụng trở lại cho việc chế tạo các quân Nam Hà gia tăng đáng kể. Những
chiến thuyền khác theo mẫu của chiếc chiếc thuyền chiến theo kiểu phương Tây
thuyền cũ. Cùng lúc, khi chiếc thuyền được được xuất xưởng với việc hoàn toàn sử
ráp trở lại, chúng trở đã nên tinh xảo hơn dụng thợ gốc Đàng Trong đã cho thấy năng
so với trước. Trong quá trình này, Nguyễn lực của ngành đóng thuyền ở Nam Bộ hồi
Ánh đóng vai trò quan trọng đến mức cuối thế kỷ XVIII là rất dồi dào. Nó chứng
“Không có cái đinh nào được đóng mà tỏ khả năng tiếp thu nhanh chóng các tri
không có sự tham vấn ban đầu của ông, thức khoa học kỹ thuật phương Tây của
không có một khẩu đại bác nào được đưa người Việt. Quá trình tiếp nhận kỹ thuật và
lên vị trí mà không có lệnh của ông. Không đóng các tàu thuyền theo kiểu Âu châu vẫn
những ông đi vào từng chi tiết nhỏ nhặt tiếp tục được duy trì ở Nam Bộ cho đến
nhất khi thảo ra những chỉ dẫn mà chính sau khi Nguyễn Ánh thống nhất đất nước.
bản thân ông thực tế còn trông nom khi Năm 1819, khi đi thăm các công xưởng
chúng được thực hiện” (Barrow, J., 1806, đóng tàu của vua Gia Long ở Sài Gòn, J.
tr.277). White đã viết trong hồi ký của mình: “Về
Kết quả là chiếc tàu đầu tiên chế tạo phía đông bắc của thành phố, trên bờ một
theo kiểu phương Tây đã ra đời, những con rạch sâu là xưởng thủy quân và kho
chiếc tàu kiểu Âu tiếp theo lần lượt được đạn, nơi mà trước đây đã đóng một số
xuất xưởng. Từ đó, Nguyễn Ánh cho làm thuyền buồm và hai chiến hạm theo kiểu
thêm hai chiếc nữa. Những chiếc tàu sau ra Âu châu, dưới quyền giám thị của các sĩ
đời khá nhanh, mỗi chiếc nằm trong xưởng quan người Pháp. Riêng cơ xưởng này
chế tạo không quá 3 tháng. Tất cả chúng đáng làm cho người An Nam tự hào hơn
đều to lớn, đẹp đẽ, chiếc thì mang 26 súng bất cứ cái gì khác ở trong nước và có thể ví
đại bác, chiếc thì mang tới 36 khẩu thần với bất cứ một cơ xưởng đóng tàu nào bên
công; thủy thủ đoàn mỗi chiếc gồm trên châu Âu. Không có những chiến thuyền
300 người (Taboulet, G., 1955, tr.257). lớn được đóng hay đang đóng ở đây nhưng
Trong những năm tiếp theo, số lượng thấy có rất nhiều vật liệu tốt đủ để đóng vài
tàu thuyền, đặc biệt là tàu thuyền kiểu châu ba chiến hạm. Gỗ đóng tàu và những phiến
Âu trong các hạm đội của Nguyễn Ánh ván tôi thấy tốt hơn hết những gì tôi đã
càng ngày càng gia tăng theo thời gian. gặp”. (White, J., 1824, tr.234-235).
Theo đó, đến năm 1801, một hạm đội trong Các thuyền thời Gia Long ban đầu
hải quân của Gia Long gồm có 9 chiến được đóng như một chiếc thuyền buồm
thuyền Âu châu được trang bị với 60 khẩu (junk) nhưng với các bộ phận bên trên
140
- NGUYỄN TRỌNG MINH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
được hoàn tất theo kiểu châu Âu và chạy thuật quân sự để cho binh sĩ áp dụng.
bằng cách thả buồm như một con tàu Trong hai năm đó, ông đóng được ít ra
(ship). Đó là một bằng chứng rõ ràng cho cũng 300 pháo thuyền lớn hay cho đưa vào
“sự phức hợp kỹ thuật bản địa và du nhập quân đội một hệ thống các chiến thuật trên
bên ngoài” (Nguyen The Anh, 2003, biển và các sĩ quan được dạy về dùng cờ
tr.453). Những chiếc thuyền đó được người hiệu” (Barrow, J., 1806, tr.274).
nước ngoài ca ngợi về khả chịu được sóng Cùng với đó, Nguyễn Ánh thiết lập
biển (seaworthiness) với những trang bị chương trình huấn luyện về tác xạ (doctrine
hiện đại được làm từ “những kỹ sư hàng of projectiles) và khoa học vũ khí (science
hải tài năng nhất, hoàn thành những công of gunnary), trang bị cho quân sĩ của mình
trình thật tinh xảo” (White, J., 1824, kiến thức chuyên môn sử dụng các loại
tr.236). súng ống (White, J., 1824, tr.94).
Nhìn chung, hoạt động tiếp nhận tri Cuối thế kỷ XVIII, quân đội Âu châu
thức và áp dụng kỹ thuật quân sự phương nói chung và nhất là quân đội Pháp đã có
Tây trong hoạt động sản xuất quân giới mà những bước nhảy vọt vượt hẳn mô hình
họ Nguyễn đã tiến hành trên vùng đất Nam quân đội tổ chức theo kiểu Á Ðông. Ngay
Bộ đã góp phần làm thay đổi tương quan trước Cách mạng 1789, quân đội Pháp
trên chiến trường. Quân đội của họ Nguyễn được coi là một trong những lực lượng tinh
được trang bị ngày càng tốt hơn so với đối nhuệ được trang bị tối tân nhất thế giới,
thủ, hiệu quả chiến đấu nhờ đó được nâng đặc biệc là bộ binh. Với sự giúp sức của
lên. Điều đó càng được thể hiện rõ nét sau giám mục Bá Đa Lộc và những sĩ quan
khi Quang Trung qua đời, quân Nguyễn rất người Pháp, chúa Nguyễn đã thụ đắc được
ít khi thua trận khi phải đối đầu với quân những tri thức về kỹ thuật và cách thức tổ
Tây Sơn. chức quân đội từ một quốc gia tân tiến. Về
2.2.2. Tổ chức và huấn luyện quân đội số lượng, quân đội của Nguyễn Ánh khá
Cho đến trước khi Nguyễn Ánh lên đông đảo, quân số năm 1800 gồm có:
nắm quyền chỉ huy, quân Nguyễn gần như “139.800 người; trong đó có lực lượng
được tổ chức và huấn luyện theo lối truyền thủy quân 26.800 người, được phiên chế
thống của phương Đông. Khi phải đương như sau: lính thợ làm việc trong các xưởng
đầu với một đội quân đông đảo hơn mình sản xuất vũ khí là 8000 người; thủy thủ đã
rất nhiều như của nhà Tây Sơn, quân đăng kí và được lên phục vụ trên các tàu
Nguyễn liên tiếp bị thua trận và phải tháo đóng kiểu châu Âu là 1.200 người; phục vụ
chạy. Để thay đổi thực trạng trên, Nguyễn trên các thuyền mành là 1.600 người; phục
Ánh đã từng bước tổ chức và huấn luyện vụ trên 100 chiếc thuyền chiến chèo tay là
quân đội của mình theo lối phương Tây. 8000 người” (Barrow, J., 1806, tr.283).
Ông bắt tay vào công việc này với một Việc áp dụng chiến thuật mới đi kèm
nhiệt huyết và sự hăng say tưởng như theo những cải tổ về cơ chế và phương
không có gì cản nổi. “Ông chia lực trú pháp huấn luyện, quân đội chúa Nguyễn ở
phòng thành những cơ đại bác theo lời Nam Bộ đã từng bước được tổ chức và
khuyên của các huấn luyện viên người phiên chế theo lối Tây phương như lời
châu Âu. Giám mục Pigneau de Béhaine nhận xét của một viên tướng người Pháp là
cũng dịch ra chữ Hán hệ thống các chiến Lemonnier: “những cuộc hành binh của
141
- SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 79 (01/2022)
vua xứ Nam Kỳ (chỉ Nguyễn Ánh) giống Sơn. Sau thành Diên Khánh, thành Gia
nhau một cách kỳ lạ với những cuộc hành Định là công trình thứ hai được xây dựng
binh của nền Đệ nhất cộng hòa Pháp, giống theo lối phương Tây. Nguyễn Ánh là đã tận
nhau cả về tổ chức, về vũ khí và nhất là về dụng kiến thức quân sự của các sĩ quan
ảnh hưởng của các nhà quân sự Pháp cuối Pháp bằng cách yêu cầu họ phác thảo và
thế kỷ XVIII” (Đỗ Văn Ninh, 1993, tr.45). giám sát việc xây dựng một tòa thành tại
Điều đó đã giúp nâng tầm trình độ Gia Định theo thiết kế của Âu châu. Họa
quân đội của chúa Nguyễn thời bấy giờ đồ được vẽ bởi Theodore Lebrun và Victor
như sự nhận xét của những người ngoại Olivier de Puymanel. Đến năm 1799 bản
quốc đương thời. Nhìn chung, vào quãng thiết kế mang tên Plan de la Ville de
cuối cuộc chiến với Tây Sơn và những năm Saigon... Par Mr Dayot 1799 (Bản thiết kế
sau đó, binh bị của Nguyễn Ánh đã trở nên thành phố Sài Gòn vẽ bởi ông Dayot năm
hùng cường. Hải quân cũng khá chỉnh tề, 1799) đã được trình lên Nguyễn Ánh
được trang bị nhiều vũ khí của phương (Nguyễn Duy Chính, 2011, tr.22). Lực
Tây. Hơn nữa, thời ấy còn có nhiều sĩ quan lượng được huy động để xây dựng tòa
đã dày dạn kinh nghiệm sau một cuộc thành lên đến 30.000 người. Tòa thành
chiến gian nan. Những chiến sĩ đó đã am được xây bằng đá, chu vi đo được 4.176m.
hiểu tường tận công dụng của súng ống và Về việc xây thành Gia Định, Quốc triều
chiến hạm Âu Tây, họ thông thạo cả cách chính biên đã chép: “Đầu năm Canh Tuất
giữ gìn, sửa sang những quân trang đó. 1790, đồn cũ ở làng Tân Khai còn hẹp, bàn
(Trung tâm nghiên cứu Huế, 2001, tr.145). đắp rộng thêm”. Sau khi thành xây xong,
Những ưu điểm nói trên về xây dựng, “phố xá, chợ búa, hàng lối dọc ngang đều
tổ chức và trang bị cho quân đội của có thứ tự, quan lộ gặp những khúc quanh
Nguyễn Ánh theo lối phương Tây đã làm co đều chăng dây sửa lại cho thẳng, rộng 6
thay đổi tình thế cho Nguyễn Ánh trong tầm… bằng phẳng như đá mài” (Tạ Chí
cuộc chiến với Tây Sơn như nhận xét của Đại Trường, 2012, tr.229). Thư của giáo sĩ
học giả Buttinger: “Ưu thế quân sự của phương Tây Boisserand tháng 2/1792 cũng
Nguyễn Ánh với sự trợ giúp của các sĩ xác nhận thành có pháo đài, hào, điếu kiều,
quan tình nguyện của người Pháp cùng với đường mở ra đất trống trước thành và lũy
kỹ thuật quân sự và vũ khí Âu châu đã làm vòng cung.
thay đổi cán cân lực lượng ở Đàng Trong” Sách Đại Nam nhất thống chí, một
(Buttinger, J., 1958, tr.240). toàn thư về địa lý của Việt Nam đã cho biết
2.2.3. Xây dựng thành lũy tòa thành được thiết kế theo hình bát giác,
Trong quá trình áp dụng kỹ thuật quân có hình hoa sen với tám cổng và cho rằng
sự phương Tây của Nguyễn Ánh, việc xây mẫu thiết kế là theo kiểu “Trung
dựng thành lũy là một công tác vô cùng Hoa”. Nhưng với nhiều nhà nghiên cứu,
quan trọng. Nguyễn Ánh đã trở thành nổi bật là Frédréric Mantienne trong
người đi tiên phong trong lĩnh vực này. nghiên cứu mang tên “Sự chuyển giao kỹ
Cho đến trước khi có sự áp dụng kỹ thuật thuật quân sự Tây phương cho An Nam hồi
phương Tây, các thành lũy mà chúa cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX:
Nguyễn xây dựng đã không thể đứng vững Trường hợp nhà Nguyễn” đã chứng minh
trước những cuộc tấn công của quân Tây rằng tòa thành được thiết kế kiểu Vauban
142
- NGUYỄN TRỌNG MINH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
[4] điển hình của Pháp. Sau khi khảo cứu các cổng bao gồm bốn cổng lớn và nhiều
những tấm bản đồ cổ về Sài Gòn trong giai cổng nhỏ. Bên trong thành được sắp xếp
đoạn này, nhà nghiên cứu Frédréric ngay ngắn và sạch sẽ, và phơi bày một
Mantienne đi đến kết luận: “trước tiên, có dáng vẻ của trật tự và cách sắp xếp kiểu Âu
hai tấm bản đồ [5] đương đại về Sài Gòn, châu” (Crawfurd, J., 1830, Vol.1, tr.344 -
lần lượt được vẽ trong các năm 1799 và 345).
1815, với một cảnh quan rất rõ về tòa Những ghi nhận nói trên khẳng định
thành. Trên cả hai bản đồ, tòa thành rõ ràng tòa thành được thiết kế theo kiểu Vauban
xuất hiện như được xây cất trên một họa đồ của châu Âu. Trong quá trình nghiên cứu
hình vuông, với bốn tháp canh chính ở các và xây dựng thành này, các kỹ sư người
góc thành, và sáu tháp canh thấp hơn phân Pháp đã áp dụng kỹ thuật mới mẻ nhất của
nửa và các pháo đài nhô ra ngoài tường thời đó nên độ chính xác khá cao, vượt trội,
thành cùng các mô đất, theo kiểu thiết kế nếu so với khu vực Đông Dương và Đông
của Vauban. Không thể nào nhìn thấy bất Nam Á. Cách thức thiết kế và xây dựng
kỳ thiết kế hình bát giác nào nơi hình vẽ thành Sài Gòn đã được áp dụng phương
này” (Mantienne, F., 2003, tr. 523). pháp trắc địa bằng kỹ thuật tam giác
Nhận định của Frédréric Mantienne (triangulation) là cách thức định vị trí,
cũng rất phù hợp với những ghi chép của khoảng cách và cao độ chính xác mới phát
những người Âu châu đã có dịp đến Việt minh và được áp dụng ở Âu châu chưa lâu
Nam vào thời điểm này. Một người ngoại (Nguyễn Duy Chính, 2011, tr.24), đem lại
quốc là George Finlayson đã mô tả thành cho ngôi thành này một sự toàn mỹ không
Gia Định như: “Một thành mới được xây kém so với những ngôi thành Vauban được
cất trong các năm gần đó, theo những xây tại chính nước Pháp: “Một thí dụ tuyệt
nguyên tắc của công sự phòng thủ Âu hảo để so sánh - hãy còn tồn tại - là tòa
châu. Nó có xây đắp một bờ dốc thông thành Vauban tương tự như thành Sài Gòn
thường quanh pháo đài để nâng kẻ địch vào là tòa thành được xây dựng trên đảo Ré,
đúng tầm bắn của quân phòng thủ sau pháo gần vùng La Rochelle trên bờ biển nước
đài, hào ướt nước, và một tường lũy cao, Pháp”. (Mantienne, F., 2003, tr. 531).
để khống chế vùng đất bao quanh” Nhìn chung, kể từ khi được xây dựng,
(Finlayson, G., 1988, tr.312). thành Gia Định đã trở thành công trình
Sĩ quan hải quân người Mỹ John phòng thủ mang tính chất sống còn của
White thì cho biết tòa thành có tám cổng, Nguyễn Ánh trong cuộc chiến với Tây
các cổng được làm rất kiên cố tán đinh sắt Sơn. Nhờ được xây dựng theo kiến trúc và
theo kiểu Âu châu (White, J., 1824, tr.224), kỹ thuật của phương Tây, tòa thành đã giúp
có sức chứa đủ lớn cho một đội quân đồn Nguyễn Ánh “ung dung” trở về Gia Định,
trú lên đến 50.000 người (White, J., 1824, chấm dứt những tháng ngày trốn chạy khỏi
tr.200). Nhà ngoại giao người Anh là John sự truy đuổi của Tây Sơn và bắt tay vào
Crawfurd thì viết rằng: “Thành Sài Gòn, có kiến tạo vùng đất này làm hậu phương
hình dạng một hình bình hành… Tôi phỏng trong cuộc chiến giành lại vương quyền.
đoán, theo bên ngoài, rằng chiều dài nhất 3. Kết luận
của tứ giác có thể vào khoảng ba phần tư Trong giai đoạn cuối thế kỷ XVIII -
dặm… Ngoại trừ bốn lối ra vào chính… đầu thế kỷ XIX, vùng đất Nam Bộ đã gắn
143
- SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 79 (01/2022)
liền với sự nghiệp quân sự của Nguyễn dựng thành lũy. Nếu đem so với các đối
Ánh. Quá trình bôn tẩu, gây dựng lực thủ còn lại thì thành tựu của Nguyễn Ánh
lượng để đối đầu với nhà Tây Sơn của tỏ ra vượt trội hơn rất nhiều. Đặc biệt, hoạt
Nguyễn Ánh đã gặp phải không ít khó động tiếp nhận khoa học kỹ thuật quân sự
khăn, nhưng cũng đem đến cho ông nhiều phương Tây ở Nam Bộ thời cuối thế kỷ
cơ hội tiếp xúc với phương Tây hơn hẳn XVIII – đầu thế kỷ XIX, tuy diễn ra dưới
đối thủ của mình. Với một tư duy tương áp lực của chiến tranh, nhưng nó cũng cho
đối “mở”, ông đã nhanh nhạy trong việc thấy được tầm nhìn và sự ham thích học
tiếp thu và áp dụng những tri thức, kỹ thuật hỏi phương Tây của Nguyễn Ánh. Vì thế,
quân sự phương Tây nhằm hiện đại hóa đối với Nguyễn Ánh, hoạt động áp dụng kỹ
quân đội của mình. Sự tiếp nhận và ứng thuật quân sự phương Tây chưa dừng lại,
dụng này bước đầu mang tính hệ thống, thể kể cả khi cuộc chiến với Tây Sơn kết thúc,
hiện 3 phương diện chủ yếu là: chế tạo vũ mà đó chỉ là sự khởi đầu cho những dự
khí, tổ chức và huấn luyện quân đội, xây định to lớn đang chờ đợi ông.
Chú thích
1.
Khoa học quân sự là một hệ thống những tri thức liên quan đến lĩnh vực quân sự, quốc phòng
như: xây dựng và tổ chức quân đội, chế tạo và sản xuất vũ khí, xây dựng các công trình phòng
thủ, chuẩn bị và tiến hành các cuộc chiến tranh, v.v. Tuy nhiên, trong quá trình diễn ra sự tiếp
nhận nền khoa học quân sự phương Tây ở Nam Bộ hồi cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX, họ
Nguyễn đã không tiếp thu toàn bộ nền khoa học quân sự phương Tây mà chỉ tiếp thu có tính chọn
lọc ở một số lĩnh vực nhất định. Chính vì thế, bài viết sẽ không đi vào khảo tả toàn bộ những vấn
đề liên quan đến lĩnh vực quân sự mà chỉ đi vào một số lĩnh vực nhất định – nơi diễn ra sự tiếp
nhận tri thức khoa học quân sự phương Tây.
2.
Phạm trù Kỹ thuật được sử dụng trong bài viết là để chỉ hoạt động áp dụng, biến những tri thức,
thành tựu của nền khoa học quân sự phương Tây mà họ Nguyễn tiếp nhận được thành phương
pháp tiến hành nhằm xây dựng lực lượng quân đội, sản xuất các loại vũ khí, xây dựng các công
trình phòng thủ nhằm phục vụ hoạt động chiến đấu. Trên thực tế, quá trình tiếp nhận tri thức khoa
học quân sự phương Tây và ứng dụng những tri thức quân sự đó ở vùng đất Nam bộ hồi cuối thế
kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX luôn song hành và kết hợp chặt chẽ với nhau. Tiếp nhận là cơ sở, tiền
đề cho việc ứng dụng; ở chiều ngược lại, muốn ứng dụng được về mặt kỹ thuật thì đòi hỏi cần
phải có sự tiếp nhận về tri thức khoa học.
3.
Về bộ Encyclopédie mà giám mục Pigneau de Béhaine có thể tìm được trong khoảng tháng 2 đến
12-1787 là thời gian ông và hoàng tử Cảnh ở Pháp thì chỉ có bộ Encyclopédie của Denis Diderot,
ấn hành trong khoảng từ 1751-1766. Bộ bách khoa đại từ điển không phải chỉ thuần túy là chữ mà
có rất nhiều hình vẽ được in theo lối đồng bản họa (copper plate printing) nên chúa Nguyễn cũng
có thể tìm hiểu nguyên bản và xem được các hình ảnh gốc.
4.
Vauban là tên của một kỹ sư người Pháp (1633-1707). Ông được bổ nhiệm làm thống chế và
thành viên Hàn lâm Viện Khoa học Pháp vào năm 1699 nhờ vào tài năng và trình độ của ông
trong lĩnh vực kiến trúc quân sự. Ông là người đã tạo ra kiểu xây dựng phòng thủ quân sự mang
tên “thành lũy vững chắc” (fortified city) mà ngày nay mọi người thường gọi là kiểu thành lũy
phòng thủ Vanban. Thành lũy xây theo kiểu Vauban là cả một hệ thống phức hợp các công trình
kiến trúc liên quan chặt chẽ với nhau và mang tính phòng thủ rất vững chắc. Đại khái nó bao gồm
144
- NGUYỄN TRỌNG MINH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
các bộ phận chính kể từ trong thành ra bên ngoài như sau: lũy (rempart), pháo đài (bastion), giác
bảo hay pháo đài góc (lunette d’angle), đoạn thành nối hai pháo đài (courtine), tường bấn (mur de
tir), pháo nhãn hay pháo môn (embrasure), phòng lộ (berme), hào (fosse), thành giai (glacis), con
đường kín (chemin couvert). Đặc điểm lớn nhất của thiết kế Vauban là việc bố trí càng nhiều tháp
canh càng tốt nhằm phát huy tối đa khả năng quân phòng thủ trước các phương thức tấn công của
đối phương, trái với thiết kế Trung Hoa cổ truyền với hình vuông hay chữ nhật.
5.
Hai họa đồ được nhắc ở đây gồm:
- Bản đồ mang tên “Plan de la Ville de Saigon fortifiée en 1790 par le Colonel Victor Olivier,
Reduit du Grand Plan Levé par Ordre du Roi en 1795 par Mr. Brun, Ingénieur de sa Majesté,
par Mr Dayot 1799” (Bản đồ vẽ “thành phố phòng ngự” Saigon do đại tá Victor Olivier vẽ năm
1790 - kỹ sư Brun thu gọn từ Đại Kế hoạch năm 1795 theo lệnh của vua nước Cochinchine -
họa lại bởi ông Dayot năm 1799) - (bản đồ Dayot).
- Bản đồ “Plan de Gia Định et des environs” (Họa đồ Gia Định và các vùng phụ cận) được vẽ bởi
Trần Văn Học, ngày mồng 4 tháng 12 âm lịch năm Gia Long thứ mười bốn (1815), được khắc
và in trong quyển sách của Jean-Marie Dayot, nhan đề “Pilote Cochinchinois”: Atlas de la
Cochinchine (Paris: Dépôt Général de la Marine, 1818).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Barrow, J. (1806). A Voyage to Cochinchina in the Years 1792 and 1793. London: Printed
for T. Cadell and W. Davies in the strand.
Buttinger, J. (1958). The smaller Dargon - A political History of Vietnam. New York:
Frederick A. Praeger Publisher.
Cao Huy Thuần (2003). Đạo thiên chúa và chủ nghĩa thực dân tại Việt Nam. Hà Nội:
Tôn Giáo
Crawfurd, J. (1830). Journal an embassy from the governor of India to the courts of Siam
and Cochin China: Exhibiting a view of the actual state of those kingdoms (Vol 1).
(second edition). London: Henry Colburn and Richard Bentley.
Đỗ Văn Ninh (1993). Quân đội nhà Nguyễn. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, 6 (271), 44-52.
Finlayson, G. (1988). The mission to Siam and Hue the capital of Cochion China in the
years 1821-1822. Singapore and Bangkok: Oxford University Press and the Siam
Society.
Taboulet, G. (1955). La Geste Francaise en Indochine: histoire par les textes de la France
en Indochine des origines à 1914, Vol. 1. Paris: Adrien-Maisonneuve
Mantienne, F. (2003). The Transfer of Western Military Technology to Vietnam in the
Late Eighteenth and Early Nineteenth Centuries: The Case of the Nguyên. Journal of
Southeast Asian Studies, 34 (3), 519-534.
Nguyễn Duy Chính (2011). Sự đóng góp của Giám mục Bá Đa Lộc vào công cuộc cải cách
ở Gia Định. Tạp chí Nghiên cứu và phát triển, 4(87), 20-37.
145
nguon tai.lieu . vn