Xem mẫu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 79 (01/2022) No. 79 (01/2022) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: http://sj.sgu.edu.vn/ HỌ NGUYỄN VỚI VIỆC TIẾP NHẬN TRI THỨC KHOA HỌC, ÁP DỤNG KỸ THUẬT QUÂN SỰ PHƯƠNG TÂY VÀO NAM BỘ TRONG GIAI ĐOẠN CUỐI THẾ KỶ XVIII - ĐẦU THẾ KỶ XIX The Nguyễn’s family and its acquisition of western knowledge and adoption of military technology in Southern Vietnam in the late 18th century and early 19th century ThS. Nguyễn Trọng Minh Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh TÓM TẮT Cuối thế kỷ XVIII, cuộc nội chiến giữa chúa Nguyễn với nhà Tây Sơn diễn ra trong bối cảnh các nước tư bản phương Tây đang tìm cách gia tăng sự hiện diện và sức ảnh hưởng ở các quốc gia phương Đông, trong đó có Việt Nam. Để gia tăng sức mạnh cho quân đội của mình, chúa Nguyễn Ánh đã chủ động tiếp nhận những ảnh hưởng từ phương Tây, đặc biệt là trên lĩnh vực quân sự. Với vai trò là nơi chúa Nguyễn chọn làm căn cứ, vùng đất Nam Bộ đã sớm có điều kiện để tiếp nhận tri thức khoa học, áp dụng kỹ thuật quân sự của phương Tây. Quá trình này đã có tác động không nhỏ đưa đến sự thay đổi tương quan lực lượng, là một nhân tố quan trọng đóng góp vào thắng lợi của chúa Nguyễn trước nhà Tây Sơn. Đồng thời nó cũng chứng tỏ khả năng của người Việt trong việc nắm bắt và làm chủ cái mới, đặc biệt là trên lĩnh vực khoa học kỹ thuật. Từ khóa: khoa học kỹ thuật, phương Tây, quân đội ABSTRACT At the end of the 18th century, the civil war between Nguyễn lord and the Tây Sơn dynasty occurred in Vietnam, while Western Capitalist countries were attempting increase their influences in Eastern countries, including Vietnam. Nguyễn lord took the initiative to adopt knowledge, especially that in the field of military, from the Western countries in order to strengthen his army. As a result, the Southern Vietnam chosen to be the military base of Nguyễn lord soon got chances to become a place for people to apply military knowledge and technology from the Western countries. This adoption process significantly affected the gap of the power between the two armies, which was a crucial factor contributing to the victory of Nguyễn lord over the Tây Sơn dynasty. Besides, this proved that the Vietnamese had the abilities to adopt and master new knowledge, especially that in the field of science and technology. Keyword: science and technology, Western, army 1. Đặt vấn đề Nguyễn ở Đàng Trong. Chúa Trịnh ở Đàng Năm 1771, ba anh em Tây Sơn phất cờ Ngoài cũng muốn nhân cơ hội tiêu diệt họ khởi nghĩa chống lại chính quyền chúa Nguyễn. Do đó, Trịnh Sâm cử Hoàng Ngũ Email: trongminhhussh@gmail.com 136
  2. NGUYỄN TRỌNG MINH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN Phúc đem binh đánh vào Đàng Trong. thay mặt mình sang Pháp cầu viện: “Hiện Chúa Nguyễn thua trận phải chạy vào Nam nay giặc Tây Sơn chưa dẹp được, bốn mặt Bộ để gây dựng lại cơ đồ. Trong quá trình kinh đô còn nhiều đồn lũy mà đảo Thổ này, Nguyễn Ánh từng bước trở thành Châu và đảo Phú Quốc không chỗ nào yên người lãnh đạo của thế lực họ Nguyễn ở được, vận nước ta gặp bước gian truân, Nam Bộ. Năm 1780, Nguyễn Ánh xưng khanh đã rõ rồi. Khanh có thể vì ta đi sứ vương, chỉ huy quân Nguyễn ở Nam Bộ sang Đại Tây, nhờ đem quân sang giúp ta chống lại thế lực nhà Tây Sơn. Ban đầu, được không?” (Quốc sử quán triều khi phải đối đầu với một lực lượng quân Nguyễn, 2002, tập 1, tr, 137 ). đội hùng hậu của nhà Tây Sơn, quân Dù việc cầu viện không thành nhưng Nguyễn liên tục vấp phải những thất bại. giám mục Bá Đa Lộc vẫn không nản lòng Trước tình hình đó, Nguyễn Ánh đã tìm và với sự vận động cá nhân, ông đã một kiếm những sự giúp đỡ từ bên ngoài, đặc mình đứng ra lo liệu công việc và tập hợp biệt là từ các thế lực phương Tây. Nhận các nguồn viện trợ giúp Nguyễn Ánh. Ông thấy sự vượt trội của phương Tây trên lĩnh đã đứng ra vận động giới tư bản thuộc địa vực quân sự, Nguyễn Ánh đã chủ động tiếp quyên tiền mua tàu chiến, sắm khí giới và nhận những tri thức khoa học [1], áp dụng mộ người sang để giúp Nguyễn Ánh. Năm kỹ thuật [2] quân sự phương Tây nhằm 1788, tàu Dryade và tàu Pandour thả neo nâng cao khả năng chiến đấu cho quân đội tại Côn Đảo, đưa đến đây 1000 khẩu súng của mình. Trong bối cảnh đó, vùng đất cho họ Nguyễn (Phạm Văn Sơn, 1961, Nam Bộ đã trở thành nơi sớm có điều kiện tr.158). Đến cuối tháng 6 năm Kỷ dậu để tiếp xúc với phương Tây, trở thành (1789), Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh theo trung tâm tiếp nhận và áp dụng những tri tàu chiến Méduse về đến Gia Định. Các tàu thức, kỹ thuật quân sự của phương Tây ở buôn chở súng ống, đạn dược cũng nối tiếp nước ta hồi cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ sang sau (Trần Trọng Kim, 2012, tr.435). XIX. Ngoài ra, Bá Đa Lộc còn vận động nhiều 2. Vùng đất Nam Bộ với việc tiếp người Pháp tình nguyện sang Việt Nam nhận tri thức khoa học, áp dụng kỹ giúp Nguyễn Ánh. Về điều này, nhà sử học thuật quân sự phương Tây hồi cuối thế Tsuboi đã nhận xét: “Pigneau de Béhaine kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX phải giải quyết bằng phương tiện riêng của 2.1. Sự du nhập những tri thức khoa mình để gom góp tại đảo Pháp (nay là học, kỹ thuật quân sự phương Tây vào Maurice) một đội quân tình nguyện, trong Nam Bộ đó có nhiều sĩ quan hải quân” (Yoshiharu Trong quá trình bôn tẩu, gây dựng lực Tsuboi, 1998, tr.60). Trong số đó, có thể kể lượng trên đất Nam Bộ, chúa Nguyễn Ánh đến một số nhân vật tiểu biểu như sau: đã tìm nhiều cách để tiếp xúc với những - J.B. Chaigneau thuyền trưởng tàu người phương Tây, lôi kéo sự ủng hộ của Long Phi. họ về phía mình. Trong bối cảnh đó, những - De Forcant thuyền trưởng tàu Bằng tri thức khoa học, kỹ thuật quân sự phương Phi. Tây đã có điều kiện thuận lợi để hiện diện - Phillippe Vannier thuyền trưởng tàu trên vùng đất này. Nguyễn Ánh đã cậy nhờ Bòng Thước, sau đó là tàu Đồng Nai và tàu giám mục Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) Phụng. 137
  3. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 79 (01/2022) - Jean Marie Dayot chỉ huy một đội một phần quân đội theo cách thức ở châu thuyền chiến. Âu, lập một đạo pháo binh cùng thủy binh - Victor Ollivier, sĩ quan cơ khí, trông hiện đại (Cao Huy Thuần, 2003, tr.40). Từ coi tổ chức bộ binh, pháo binh và đồn lũy. đây, những tri thức khoa học kỹ thuật quân - Théodore Le Brun, kỹ sư trông coi sự phương Tây đã theo chân những người việc xây thành. Bản đồ thành Sài Gòn là do Pháp này du nhập vào Nam Bộ. Théodore Le Brun thiết kế. 2.2. Hoạt động áp dụng những tri - Laurent Barisy, trung tá. thức khoa học, kỹ thuật quân sự phương - Julien Girard de l’Isle-Sellé, đại úy Tây trên vùng đất Nam Bộ Hải quân. Trước khi chúa Nguyễn chạy vào Nam - J.M. Despiaux là thầy thuốc chăm lo Bộ, những thành tố của nền quân sự sức khỏe cho Nguyễn Ánh. phương Tây gần như chưa hiện diện trên - Louis Guillon, trung úy Hải quân. vùng đất này. Với việc chúa Nguyễn chọn - Jean Guilloux, trung úy Hải quân. Nam Bộ làm căn cứ để gây dựng lực lượng Trong đó; Philippe Vannier, Jean chống lại nhà Tây Sơn, những thành tố của Bastiste Chaingneau và Jean Marie Dayot nền quân sự phương Tây cũng từng bước đều được đổi thành họ Nguyễn; Philippe du nhập vào Nam Bộ. Vannier có tên là Chấn, còn Jean Bastiste Quá trình tiếp nhận những tri thức Chaingneau được đặt tên là Thắng. khoa học quân sự phương Tây ở Nam Bộ Theo nghiên cứu của Alexis, H. nằm dưới sự điều phối của Nguyễn Ánh, Cosserat, A. Faure, các tác giả của công người đứng đầu lực lượng quân đội họ trình In Search of Southeast Asia cho rằng Nguyễn ở nơi đây. Khác với nhiều nhà có trên 300 người Pháp có mặt trong quân lãnh đạo ở phương Đông lúc bấy giờ, đội của Nguyễn Ánh (Steinberg, D. J., Nguyễn Ánh tỏ ra rất quan tâm và chịu khó 1971, tr.127). Theo số liệu của H. Cosserat học tập kỹ thuật phương Tây. Giám mục trong công trình khảo cứu Les FranCais au Pigneau de Béhaine đã dịch nhiều đoạn của service de Gia Long thì có 18 nhân vật có bộ Bách khoa toàn thư Pháp vai trò quan trọng trong triều đình Gia (Encyclopédie) [3] sang chữ Hán cho Long và có tất cả 12 chiếc tàu Pháp đã Nguyễn Ánh đọc. Nhờ đó, ông biết được tham gia vào đội quân của Nguyễn Ánh không ít kiến thức về nền khoa học quân sự (Nguyễn Mạnh Dũng, 2013, tr. 3). Còn phương Tây. Trong đó, ông đặc biệt chú ý theo ước đoán của tác giả G. Taboulet đến 3 lĩnh vực: chế tạo vũ khí, tổ chức và trong công trình nghiên cứu Hành động huấn luyện quân đội, xây dựng thành lũy. của người Pháp ở Đông Dương thì số Trong suốt cuộc chiến với nhà Tây Sơn, lượng người Pháp theo giúp Nguyễn Ánh Nguyễn Ánh đã dành rất nhiều tâm huyết có khoảng 100 người. Cho dù còn nhiều để áp dụng những tri thức phương Tây mà đánh giá khác nhau về vai trò của người mình tiếp nhận được trên các lĩnh vực này Pháp ở một số khía cạnh, song có một thực nhằm xây dựng nên một lực lượng quân tế không thể phủ nhận là họ đã đóng vai trò đội hùng mạnh trên vùng đất Nam Bộ. quan trọng trong việc giúp hiện đại hóa Trong quá trình đó, Nguyễn Ánh đã nhận quân đội của Nguyễn Ánh bởi nhóm người được sự hỗ trợ đắc lực từ những người Pháp này đã giúp Nguyễn Ánh huấn luyện Pháp đi theo giúp mình. Họ đã trực tiếp 138
  4. NGUYỄN TRỌNG MINH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN tham gia hỗ trợ và chuyển giao những kỹ đạt đến một trình độ mà như nhận xét của thuật quân sự phương Tây cho quân đội một giáo sĩ người Pháp: “những công binh của chúa Nguyễn. xưởng của Nguyễn Ánh làm cho người 2.2.1. Chế tạo vũ khí nước ngoài phải ngưỡng mộ và làm cho Từ thời còn chiến đấu với chúa Trịnh khắp châu Âu phải ngợi khen nếu được hồi thế kỷ XVII, quân đội chúa Nguyễn đã chứng kiến tận mắt. Súng ống, đạn pháo đủ được trang bị một số loại vũ khí của cỡ, súng tác chiến, kệ súng, trái đạn… đa phương Tây. Dưới sự chỉ dẫn của các giáo số đều thuộc mẫu mới nhất” (Taboulet, G., sĩ, nền quân giới chúa Nguyễn thời kỳ đó 1955, tr.268). cũng đã sản xuất được một số loại vũ khí Ngoài ra, một số kỹ thuật được coi là của Tây phương, đặc biệt là đại bác. Tuy tân tiến nhất thời bấy giờ đã được chúa nhiên, trải qua một giai đoạn dài không có Nguyễn Ánh cho nhập về, trong đó có việc chiến tranh, những thành tựu trên đã dần bị sử dụng đạn nổ (đạn đại bác nổ khi chạm mai một. Đến khi phải chạy nạn vào Gia đích), tàu bọc đồng (phần gỗ chìm dưới Định, nền quân giới của chúa Nguyễn hầu nước để được bền hơn), và còn định sử như phải bắt đầu lại từ đầu bởi những dụng khinh khí cầu để công thành (Nguyễn xưởng sản xuất vũ khí gần như tập trung ở Duy Chính, 2011, tr.31). Phú Xuân (Huế) mà hầu như không xuất Về trang bị, ngay từ khi còn nội chiến hiện ở Gia Định. Tuy nhiên, đó cũng chính với Tây sơn, Nguyễn Ánh đã mua hay thuê là động lực để Nguyễn Ánh đẩy mạnh việc từ hải ngoại vài chiếc thuyền Âu châu, tiếp nhận tri thức và áp dụng kỹ thuật quân từng bước xây dựng nên một lực lượng hải sự phương Tây trong hoạt động sản xuất quân tương đối hùng hậu. Năm 1799 một quân giới nhằm khỏa lấp cho những bất lợi thương nhân người Anh tên Berry đã từng đang gặp phải. chứng kiến một cuộc khởi hành của hạm Với sự giúp sức của các kỹ sư quân sự đội thủy quân Nguyễn Ánh chạy xuôi dòng người Pháp, nền sản xuất quân giới trong sông Sài Gòn với cảnh tượng hết sức huy quân đội của Nguyễn Ánh đã có được hoàng, khoảng 100 chiếc thuyền buồm sàn nhiều bước tiến đáng kể. Trong một thấp, 40 thuyền buồm lớn, 200 thuyền nhỏ khoảng thời gian tương đối ngắn, Nguyễn và 800 xuồng chuyên chở hàng, được kéo Ánh đã xây dựng những cơ xưởng đúc bởi 3 chiến thuyền một buồm kiểu Âu súng đạn. Phần bộ đúc kim loại (foundery châu, hạm đội này nhổ neo và xuôi dòng hay foundry) của Tây phương được theo một trật tự tuyệt đối, chia làm ba đội Nguyễn Ánh tham khảo khá kỹ càng trong và sẵn sàng ứng chiến. (Dẫn theo bộ Từ điển bách khoa (khoảng 4 trang 625- Mantienne, F., 2003. tr. 530). 629, vol. II). Vào thập niên 1790, chúa Để tránh sự lệ thuộc vào việc thuê Nguyễn xây dựng một nhà máy chế tạo hoặc mua các thuyền chiến của phương diêm tiêu, khai mỏ và lò luyện kim để đúc Tây, chúa Nguyễn đã dành sự quan tâm súng thần công. Việc sản xuất diêm tiêu đã đặc biệt đến lĩnh vực đóng tàu thuyền theo góp phần lớn vào việc xây dựng một quân kiểu Tây phương. Kỹ thuật đóng thuyền đội độc lập, ít phục thuộc vào nguồn cung thời kỳ này ở Nam Bộ đã du nhập thêm từ bên ngoài. Kỹ nghệ chế tạo vũ khí kiểu những yếu tố kỹ thuật mới của phương Tây phương Tây của chúa Nguyễn thời kỳ này với sự trợ giúp của các sĩ quan người Pháp. 139
  5. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 79 (01/2022) Việc học tập kỹ thuật đóng tàu của phương súng, 5 chiến thuyền với 50 khẩu súng, 40 Tây được diễn ra bằng một ý tưởng đơn thuyền với 16 súng, 100 thuyền buồm, 119 giản nhưng rất sáng tạo. Đó là mua hẳn thuyền buồm sàn thấp và 365 thuyền nhỏ. một chiếc tàu của người Bồ Đào Nha rồi (Dẫn theo Mantienne, F., 2003. tr. 530). tháo gỡ chúng ra thành từng mảnh riêng Những nỗ lực cải tiến hải quân bằng biệt, và sau đó được ráp trở lại theo cấu cách tiếp nhận khoa học kỹ thuật phương trúc cũ. Nhờ đó mà những thợ đóng tàu Tây thông qua sự giúp đỡ của người Pháp Việt Nam đã học hỏi được các kỹ thuật tinh mà Nguyễn Ánh tiến hành ở Nam Bộ đã xảo của phương Tây trong lĩnh vực đóng giúp cho sức mạnh của lực lượng thủy tàu rồi áp dụng trở lại cho việc chế tạo các quân Nam Hà gia tăng đáng kể. Những chiến thuyền khác theo mẫu của chiếc chiếc thuyền chiến theo kiểu phương Tây thuyền cũ. Cùng lúc, khi chiếc thuyền được được xuất xưởng với việc hoàn toàn sử ráp trở lại, chúng trở đã nên tinh xảo hơn dụng thợ gốc Đàng Trong đã cho thấy năng so với trước. Trong quá trình này, Nguyễn lực của ngành đóng thuyền ở Nam Bộ hồi Ánh đóng vai trò quan trọng đến mức cuối thế kỷ XVIII là rất dồi dào. Nó chứng “Không có cái đinh nào được đóng mà tỏ khả năng tiếp thu nhanh chóng các tri không có sự tham vấn ban đầu của ông, thức khoa học kỹ thuật phương Tây của không có một khẩu đại bác nào được đưa người Việt. Quá trình tiếp nhận kỹ thuật và lên vị trí mà không có lệnh của ông. Không đóng các tàu thuyền theo kiểu Âu châu vẫn những ông đi vào từng chi tiết nhỏ nhặt tiếp tục được duy trì ở Nam Bộ cho đến nhất khi thảo ra những chỉ dẫn mà chính sau khi Nguyễn Ánh thống nhất đất nước. bản thân ông thực tế còn trông nom khi Năm 1819, khi đi thăm các công xưởng chúng được thực hiện” (Barrow, J., 1806, đóng tàu của vua Gia Long ở Sài Gòn, J. tr.277). White đã viết trong hồi ký của mình: “Về Kết quả là chiếc tàu đầu tiên chế tạo phía đông bắc của thành phố, trên bờ một theo kiểu phương Tây đã ra đời, những con rạch sâu là xưởng thủy quân và kho chiếc tàu kiểu Âu tiếp theo lần lượt được đạn, nơi mà trước đây đã đóng một số xuất xưởng. Từ đó, Nguyễn Ánh cho làm thuyền buồm và hai chiến hạm theo kiểu thêm hai chiếc nữa. Những chiếc tàu sau ra Âu châu, dưới quyền giám thị của các sĩ đời khá nhanh, mỗi chiếc nằm trong xưởng quan người Pháp. Riêng cơ xưởng này chế tạo không quá 3 tháng. Tất cả chúng đáng làm cho người An Nam tự hào hơn đều to lớn, đẹp đẽ, chiếc thì mang 26 súng bất cứ cái gì khác ở trong nước và có thể ví đại bác, chiếc thì mang tới 36 khẩu thần với bất cứ một cơ xưởng đóng tàu nào bên công; thủy thủ đoàn mỗi chiếc gồm trên châu Âu. Không có những chiến thuyền 300 người (Taboulet, G., 1955, tr.257). lớn được đóng hay đang đóng ở đây nhưng Trong những năm tiếp theo, số lượng thấy có rất nhiều vật liệu tốt đủ để đóng vài tàu thuyền, đặc biệt là tàu thuyền kiểu châu ba chiến hạm. Gỗ đóng tàu và những phiến Âu trong các hạm đội của Nguyễn Ánh ván tôi thấy tốt hơn hết những gì tôi đã càng ngày càng gia tăng theo thời gian. gặp”. (White, J., 1824, tr.234-235). Theo đó, đến năm 1801, một hạm đội trong Các thuyền thời Gia Long ban đầu hải quân của Gia Long gồm có 9 chiến được đóng như một chiếc thuyền buồm thuyền Âu châu được trang bị với 60 khẩu (junk) nhưng với các bộ phận bên trên 140
  6. NGUYỄN TRỌNG MINH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN được hoàn tất theo kiểu châu Âu và chạy thuật quân sự để cho binh sĩ áp dụng. bằng cách thả buồm như một con tàu Trong hai năm đó, ông đóng được ít ra (ship). Đó là một bằng chứng rõ ràng cho cũng 300 pháo thuyền lớn hay cho đưa vào “sự phức hợp kỹ thuật bản địa và du nhập quân đội một hệ thống các chiến thuật trên bên ngoài” (Nguyen The Anh, 2003, biển và các sĩ quan được dạy về dùng cờ tr.453). Những chiếc thuyền đó được người hiệu” (Barrow, J., 1806, tr.274). nước ngoài ca ngợi về khả chịu được sóng Cùng với đó, Nguyễn Ánh thiết lập biển (seaworthiness) với những trang bị chương trình huấn luyện về tác xạ (doctrine hiện đại được làm từ “những kỹ sư hàng of projectiles) và khoa học vũ khí (science hải tài năng nhất, hoàn thành những công of gunnary), trang bị cho quân sĩ của mình trình thật tinh xảo” (White, J., 1824, kiến thức chuyên môn sử dụng các loại tr.236). súng ống (White, J., 1824, tr.94). Nhìn chung, hoạt động tiếp nhận tri Cuối thế kỷ XVIII, quân đội Âu châu thức và áp dụng kỹ thuật quân sự phương nói chung và nhất là quân đội Pháp đã có Tây trong hoạt động sản xuất quân giới mà những bước nhảy vọt vượt hẳn mô hình họ Nguyễn đã tiến hành trên vùng đất Nam quân đội tổ chức theo kiểu Á Ðông. Ngay Bộ đã góp phần làm thay đổi tương quan trước Cách mạng 1789, quân đội Pháp trên chiến trường. Quân đội của họ Nguyễn được coi là một trong những lực lượng tinh được trang bị ngày càng tốt hơn so với đối nhuệ được trang bị tối tân nhất thế giới, thủ, hiệu quả chiến đấu nhờ đó được nâng đặc biệc là bộ binh. Với sự giúp sức của lên. Điều đó càng được thể hiện rõ nét sau giám mục Bá Đa Lộc và những sĩ quan khi Quang Trung qua đời, quân Nguyễn rất người Pháp, chúa Nguyễn đã thụ đắc được ít khi thua trận khi phải đối đầu với quân những tri thức về kỹ thuật và cách thức tổ Tây Sơn. chức quân đội từ một quốc gia tân tiến. Về 2.2.2. Tổ chức và huấn luyện quân đội số lượng, quân đội của Nguyễn Ánh khá Cho đến trước khi Nguyễn Ánh lên đông đảo, quân số năm 1800 gồm có: nắm quyền chỉ huy, quân Nguyễn gần như “139.800 người; trong đó có lực lượng được tổ chức và huấn luyện theo lối truyền thủy quân 26.800 người, được phiên chế thống của phương Đông. Khi phải đương như sau: lính thợ làm việc trong các xưởng đầu với một đội quân đông đảo hơn mình sản xuất vũ khí là 8000 người; thủy thủ đã rất nhiều như của nhà Tây Sơn, quân đăng kí và được lên phục vụ trên các tàu Nguyễn liên tiếp bị thua trận và phải tháo đóng kiểu châu Âu là 1.200 người; phục vụ chạy. Để thay đổi thực trạng trên, Nguyễn trên các thuyền mành là 1.600 người; phục Ánh đã từng bước tổ chức và huấn luyện vụ trên 100 chiếc thuyền chiến chèo tay là quân đội của mình theo lối phương Tây. 8000 người” (Barrow, J., 1806, tr.283). Ông bắt tay vào công việc này với một Việc áp dụng chiến thuật mới đi kèm nhiệt huyết và sự hăng say tưởng như theo những cải tổ về cơ chế và phương không có gì cản nổi. “Ông chia lực trú pháp huấn luyện, quân đội chúa Nguyễn ở phòng thành những cơ đại bác theo lời Nam Bộ đã từng bước được tổ chức và khuyên của các huấn luyện viên người phiên chế theo lối Tây phương như lời châu Âu. Giám mục Pigneau de Béhaine nhận xét của một viên tướng người Pháp là cũng dịch ra chữ Hán hệ thống các chiến Lemonnier: “những cuộc hành binh của 141
  7. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 79 (01/2022) vua xứ Nam Kỳ (chỉ Nguyễn Ánh) giống Sơn. Sau thành Diên Khánh, thành Gia nhau một cách kỳ lạ với những cuộc hành Định là công trình thứ hai được xây dựng binh của nền Đệ nhất cộng hòa Pháp, giống theo lối phương Tây. Nguyễn Ánh là đã tận nhau cả về tổ chức, về vũ khí và nhất là về dụng kiến thức quân sự của các sĩ quan ảnh hưởng của các nhà quân sự Pháp cuối Pháp bằng cách yêu cầu họ phác thảo và thế kỷ XVIII” (Đỗ Văn Ninh, 1993, tr.45). giám sát việc xây dựng một tòa thành tại Điều đó đã giúp nâng tầm trình độ Gia Định theo thiết kế của Âu châu. Họa quân đội của chúa Nguyễn thời bấy giờ đồ được vẽ bởi Theodore Lebrun và Victor như sự nhận xét của những người ngoại Olivier de Puymanel. Đến năm 1799 bản quốc đương thời. Nhìn chung, vào quãng thiết kế mang tên Plan de la Ville de cuối cuộc chiến với Tây Sơn và những năm Saigon... Par Mr Dayot 1799 (Bản thiết kế sau đó, binh bị của Nguyễn Ánh đã trở nên thành phố Sài Gòn vẽ bởi ông Dayot năm hùng cường. Hải quân cũng khá chỉnh tề, 1799) đã được trình lên Nguyễn Ánh được trang bị nhiều vũ khí của phương (Nguyễn Duy Chính, 2011, tr.22). Lực Tây. Hơn nữa, thời ấy còn có nhiều sĩ quan lượng được huy động để xây dựng tòa đã dày dạn kinh nghiệm sau một cuộc thành lên đến 30.000 người. Tòa thành chiến gian nan. Những chiến sĩ đó đã am được xây bằng đá, chu vi đo được 4.176m. hiểu tường tận công dụng của súng ống và Về việc xây thành Gia Định, Quốc triều chiến hạm Âu Tây, họ thông thạo cả cách chính biên đã chép: “Đầu năm Canh Tuất giữ gìn, sửa sang những quân trang đó. 1790, đồn cũ ở làng Tân Khai còn hẹp, bàn (Trung tâm nghiên cứu Huế, 2001, tr.145). đắp rộng thêm”. Sau khi thành xây xong, Những ưu điểm nói trên về xây dựng, “phố xá, chợ búa, hàng lối dọc ngang đều tổ chức và trang bị cho quân đội của có thứ tự, quan lộ gặp những khúc quanh Nguyễn Ánh theo lối phương Tây đã làm co đều chăng dây sửa lại cho thẳng, rộng 6 thay đổi tình thế cho Nguyễn Ánh trong tầm… bằng phẳng như đá mài” (Tạ Chí cuộc chiến với Tây Sơn như nhận xét của Đại Trường, 2012, tr.229). Thư của giáo sĩ học giả Buttinger: “Ưu thế quân sự của phương Tây Boisserand tháng 2/1792 cũng Nguyễn Ánh với sự trợ giúp của các sĩ xác nhận thành có pháo đài, hào, điếu kiều, quan tình nguyện của người Pháp cùng với đường mở ra đất trống trước thành và lũy kỹ thuật quân sự và vũ khí Âu châu đã làm vòng cung. thay đổi cán cân lực lượng ở Đàng Trong” Sách Đại Nam nhất thống chí, một (Buttinger, J., 1958, tr.240). toàn thư về địa lý của Việt Nam đã cho biết 2.2.3. Xây dựng thành lũy tòa thành được thiết kế theo hình bát giác, Trong quá trình áp dụng kỹ thuật quân có hình hoa sen với tám cổng và cho rằng sự phương Tây của Nguyễn Ánh, việc xây mẫu thiết kế là theo kiểu “Trung dựng thành lũy là một công tác vô cùng Hoa”. Nhưng với nhiều nhà nghiên cứu, quan trọng. Nguyễn Ánh đã trở thành nổi bật là Frédréric Mantienne trong người đi tiên phong trong lĩnh vực này. nghiên cứu mang tên “Sự chuyển giao kỹ Cho đến trước khi có sự áp dụng kỹ thuật thuật quân sự Tây phương cho An Nam hồi phương Tây, các thành lũy mà chúa cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX: Nguyễn xây dựng đã không thể đứng vững Trường hợp nhà Nguyễn” đã chứng minh trước những cuộc tấn công của quân Tây rằng tòa thành được thiết kế kiểu Vauban 142
  8. NGUYỄN TRỌNG MINH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN [4] điển hình của Pháp. Sau khi khảo cứu các cổng bao gồm bốn cổng lớn và nhiều những tấm bản đồ cổ về Sài Gòn trong giai cổng nhỏ. Bên trong thành được sắp xếp đoạn này, nhà nghiên cứu Frédréric ngay ngắn và sạch sẽ, và phơi bày một Mantienne đi đến kết luận: “trước tiên, có dáng vẻ của trật tự và cách sắp xếp kiểu Âu hai tấm bản đồ [5] đương đại về Sài Gòn, châu” (Crawfurd, J., 1830, Vol.1, tr.344 - lần lượt được vẽ trong các năm 1799 và 345). 1815, với một cảnh quan rất rõ về tòa Những ghi nhận nói trên khẳng định thành. Trên cả hai bản đồ, tòa thành rõ ràng tòa thành được thiết kế theo kiểu Vauban xuất hiện như được xây cất trên một họa đồ của châu Âu. Trong quá trình nghiên cứu hình vuông, với bốn tháp canh chính ở các và xây dựng thành này, các kỹ sư người góc thành, và sáu tháp canh thấp hơn phân Pháp đã áp dụng kỹ thuật mới mẻ nhất của nửa và các pháo đài nhô ra ngoài tường thời đó nên độ chính xác khá cao, vượt trội, thành cùng các mô đất, theo kiểu thiết kế nếu so với khu vực Đông Dương và Đông của Vauban. Không thể nào nhìn thấy bất Nam Á. Cách thức thiết kế và xây dựng kỳ thiết kế hình bát giác nào nơi hình vẽ thành Sài Gòn đã được áp dụng phương này” (Mantienne, F., 2003, tr. 523). pháp trắc địa bằng kỹ thuật tam giác Nhận định của Frédréric Mantienne (triangulation) là cách thức định vị trí, cũng rất phù hợp với những ghi chép của khoảng cách và cao độ chính xác mới phát những người Âu châu đã có dịp đến Việt minh và được áp dụng ở Âu châu chưa lâu Nam vào thời điểm này. Một người ngoại (Nguyễn Duy Chính, 2011, tr.24), đem lại quốc là George Finlayson đã mô tả thành cho ngôi thành này một sự toàn mỹ không Gia Định như: “Một thành mới được xây kém so với những ngôi thành Vauban được cất trong các năm gần đó, theo những xây tại chính nước Pháp: “Một thí dụ tuyệt nguyên tắc của công sự phòng thủ Âu hảo để so sánh - hãy còn tồn tại - là tòa châu. Nó có xây đắp một bờ dốc thông thành Vauban tương tự như thành Sài Gòn thường quanh pháo đài để nâng kẻ địch vào là tòa thành được xây dựng trên đảo Ré, đúng tầm bắn của quân phòng thủ sau pháo gần vùng La Rochelle trên bờ biển nước đài, hào ướt nước, và một tường lũy cao, Pháp”. (Mantienne, F., 2003, tr. 531). để khống chế vùng đất bao quanh” Nhìn chung, kể từ khi được xây dựng, (Finlayson, G., 1988, tr.312). thành Gia Định đã trở thành công trình Sĩ quan hải quân người Mỹ John phòng thủ mang tính chất sống còn của White thì cho biết tòa thành có tám cổng, Nguyễn Ánh trong cuộc chiến với Tây các cổng được làm rất kiên cố tán đinh sắt Sơn. Nhờ được xây dựng theo kiến trúc và theo kiểu Âu châu (White, J., 1824, tr.224), kỹ thuật của phương Tây, tòa thành đã giúp có sức chứa đủ lớn cho một đội quân đồn Nguyễn Ánh “ung dung” trở về Gia Định, trú lên đến 50.000 người (White, J., 1824, chấm dứt những tháng ngày trốn chạy khỏi tr.200). Nhà ngoại giao người Anh là John sự truy đuổi của Tây Sơn và bắt tay vào Crawfurd thì viết rằng: “Thành Sài Gòn, có kiến tạo vùng đất này làm hậu phương hình dạng một hình bình hành… Tôi phỏng trong cuộc chiến giành lại vương quyền. đoán, theo bên ngoài, rằng chiều dài nhất 3. Kết luận của tứ giác có thể vào khoảng ba phần tư Trong giai đoạn cuối thế kỷ XVIII - dặm… Ngoại trừ bốn lối ra vào chính… đầu thế kỷ XIX, vùng đất Nam Bộ đã gắn 143
  9. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 79 (01/2022) liền với sự nghiệp quân sự của Nguyễn dựng thành lũy. Nếu đem so với các đối Ánh. Quá trình bôn tẩu, gây dựng lực thủ còn lại thì thành tựu của Nguyễn Ánh lượng để đối đầu với nhà Tây Sơn của tỏ ra vượt trội hơn rất nhiều. Đặc biệt, hoạt Nguyễn Ánh đã gặp phải không ít khó động tiếp nhận khoa học kỹ thuật quân sự khăn, nhưng cũng đem đến cho ông nhiều phương Tây ở Nam Bộ thời cuối thế kỷ cơ hội tiếp xúc với phương Tây hơn hẳn XVIII – đầu thế kỷ XIX, tuy diễn ra dưới đối thủ của mình. Với một tư duy tương áp lực của chiến tranh, nhưng nó cũng cho đối “mở”, ông đã nhanh nhạy trong việc thấy được tầm nhìn và sự ham thích học tiếp thu và áp dụng những tri thức, kỹ thuật hỏi phương Tây của Nguyễn Ánh. Vì thế, quân sự phương Tây nhằm hiện đại hóa đối với Nguyễn Ánh, hoạt động áp dụng kỹ quân đội của mình. Sự tiếp nhận và ứng thuật quân sự phương Tây chưa dừng lại, dụng này bước đầu mang tính hệ thống, thể kể cả khi cuộc chiến với Tây Sơn kết thúc, hiện 3 phương diện chủ yếu là: chế tạo vũ mà đó chỉ là sự khởi đầu cho những dự khí, tổ chức và huấn luyện quân đội, xây định to lớn đang chờ đợi ông. Chú thích 1. Khoa học quân sự là một hệ thống những tri thức liên quan đến lĩnh vực quân sự, quốc phòng như: xây dựng và tổ chức quân đội, chế tạo và sản xuất vũ khí, xây dựng các công trình phòng thủ, chuẩn bị và tiến hành các cuộc chiến tranh, v.v. Tuy nhiên, trong quá trình diễn ra sự tiếp nhận nền khoa học quân sự phương Tây ở Nam Bộ hồi cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX, họ Nguyễn đã không tiếp thu toàn bộ nền khoa học quân sự phương Tây mà chỉ tiếp thu có tính chọn lọc ở một số lĩnh vực nhất định. Chính vì thế, bài viết sẽ không đi vào khảo tả toàn bộ những vấn đề liên quan đến lĩnh vực quân sự mà chỉ đi vào một số lĩnh vực nhất định – nơi diễn ra sự tiếp nhận tri thức khoa học quân sự phương Tây. 2. Phạm trù Kỹ thuật được sử dụng trong bài viết là để chỉ hoạt động áp dụng, biến những tri thức, thành tựu của nền khoa học quân sự phương Tây mà họ Nguyễn tiếp nhận được thành phương pháp tiến hành nhằm xây dựng lực lượng quân đội, sản xuất các loại vũ khí, xây dựng các công trình phòng thủ nhằm phục vụ hoạt động chiến đấu. Trên thực tế, quá trình tiếp nhận tri thức khoa học quân sự phương Tây và ứng dụng những tri thức quân sự đó ở vùng đất Nam bộ hồi cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX luôn song hành và kết hợp chặt chẽ với nhau. Tiếp nhận là cơ sở, tiền đề cho việc ứng dụng; ở chiều ngược lại, muốn ứng dụng được về mặt kỹ thuật thì đòi hỏi cần phải có sự tiếp nhận về tri thức khoa học. 3. Về bộ Encyclopédie mà giám mục Pigneau de Béhaine có thể tìm được trong khoảng tháng 2 đến 12-1787 là thời gian ông và hoàng tử Cảnh ở Pháp thì chỉ có bộ Encyclopédie của Denis Diderot, ấn hành trong khoảng từ 1751-1766. Bộ bách khoa đại từ điển không phải chỉ thuần túy là chữ mà có rất nhiều hình vẽ được in theo lối đồng bản họa (copper plate printing) nên chúa Nguyễn cũng có thể tìm hiểu nguyên bản và xem được các hình ảnh gốc. 4. Vauban là tên của một kỹ sư người Pháp (1633-1707). Ông được bổ nhiệm làm thống chế và thành viên Hàn lâm Viện Khoa học Pháp vào năm 1699 nhờ vào tài năng và trình độ của ông trong lĩnh vực kiến trúc quân sự. Ông là người đã tạo ra kiểu xây dựng phòng thủ quân sự mang tên “thành lũy vững chắc” (fortified city) mà ngày nay mọi người thường gọi là kiểu thành lũy phòng thủ Vanban. Thành lũy xây theo kiểu Vauban là cả một hệ thống phức hợp các công trình kiến trúc liên quan chặt chẽ với nhau và mang tính phòng thủ rất vững chắc. Đại khái nó bao gồm 144
  10. NGUYỄN TRỌNG MINH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN các bộ phận chính kể từ trong thành ra bên ngoài như sau: lũy (rempart), pháo đài (bastion), giác bảo hay pháo đài góc (lunette d’angle), đoạn thành nối hai pháo đài (courtine), tường bấn (mur de tir), pháo nhãn hay pháo môn (embrasure), phòng lộ (berme), hào (fosse), thành giai (glacis), con đường kín (chemin couvert). Đặc điểm lớn nhất của thiết kế Vauban là việc bố trí càng nhiều tháp canh càng tốt nhằm phát huy tối đa khả năng quân phòng thủ trước các phương thức tấn công của đối phương, trái với thiết kế Trung Hoa cổ truyền với hình vuông hay chữ nhật. 5. Hai họa đồ được nhắc ở đây gồm: - Bản đồ mang tên “Plan de la Ville de Saigon fortifiée en 1790 par le Colonel Victor Olivier, Reduit du Grand Plan Levé par Ordre du Roi en 1795 par Mr. Brun, Ingénieur de sa Majesté, par Mr Dayot 1799” (Bản đồ vẽ “thành phố phòng ngự” Saigon do đại tá Victor Olivier vẽ năm 1790 - kỹ sư Brun thu gọn từ Đại Kế hoạch năm 1795 theo lệnh của vua nước Cochinchine - họa lại bởi ông Dayot năm 1799) - (bản đồ Dayot). - Bản đồ “Plan de Gia Định et des environs” (Họa đồ Gia Định và các vùng phụ cận) được vẽ bởi Trần Văn Học, ngày mồng 4 tháng 12 âm lịch năm Gia Long thứ mười bốn (1815), được khắc và in trong quyển sách của Jean-Marie Dayot, nhan đề “Pilote Cochinchinois”: Atlas de la Cochinchine (Paris: Dépôt Général de la Marine, 1818). TÀI LIỆU THAM KHẢO Barrow, J. (1806). A Voyage to Cochinchina in the Years 1792 and 1793. London: Printed for T. Cadell and W. Davies in the strand. Buttinger, J. (1958). The smaller Dargon - A political History of Vietnam. New York: Frederick A. Praeger Publisher. Cao Huy Thuần (2003). Đạo thiên chúa và chủ nghĩa thực dân tại Việt Nam. Hà Nội: Tôn Giáo Crawfurd, J. (1830). Journal an embassy from the governor of India to the courts of Siam and Cochin China: Exhibiting a view of the actual state of those kingdoms (Vol 1). (second edition). London: Henry Colburn and Richard Bentley. Đỗ Văn Ninh (1993). Quân đội nhà Nguyễn. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, 6 (271), 44-52. Finlayson, G. (1988). The mission to Siam and Hue the capital of Cochion China in the years 1821-1822. Singapore and Bangkok: Oxford University Press and the Siam Society. Taboulet, G. (1955). La Geste Francaise en Indochine: histoire par les textes de la France en Indochine des origines à 1914, Vol. 1. Paris: Adrien-Maisonneuve Mantienne, F. (2003). The Transfer of Western Military Technology to Vietnam in the Late Eighteenth and Early Nineteenth Centuries: The Case of the Nguyên. Journal of Southeast Asian Studies, 34 (3), 519-534. Nguyễn Duy Chính (2011). Sự đóng góp của Giám mục Bá Đa Lộc vào công cuộc cải cách ở Gia Định. Tạp chí Nghiên cứu và phát triển, 4(87), 20-37. 145
nguon tai.lieu . vn