Xem mẫu
- VỀ VẤN ĐỀ NHÀ NƯỚC
VÀ PHÁP LUẬT
1
- 2
- HỒ CHÍ MINH
VỀ VẤN ĐỀ NHÀ NƯỚC
VÀ PHÁP LUẬT
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HÀ NỘI - 2010
3
- 4
- LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về Nhà nước và pháp
luật là một trong những nội dung chủ yếu trong toàn bộ di sản tư tưởng của
Người. Tư tưởng về Nhà nước và pháp luật của Chủ tịch Hồ Chí Minh chứa
đựng những triết lý sâu sắc về bản chất, vai trò của Nhà nước; về mối quan
hệ tương đồng giữa pháp luật và các quy tắc xử sự xã hội khác. Người cho
rằng, pháp luật phải gắn liền với đạo đức, việc tuân thủ pháp luật cũng có
nghĩa là thuận theo đạo đức, thuần phong, mỹ tục của xã hội. Quan điểm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về Nhà nước cũng đơn giản, rõ ràng và hợp lòng dân,
Người đã xác định rõ trách nhiệm của Nhà nước là phải thường xuyên chăm
lo đến quyền lợi chính đáng của nhân dân. Vì vậy, trong tất cả các bài viết và
bài nói của Người, khái niệm về Nhà nước và pháp luật không còn là những
lý luận khô cứng, giáo điều mà trở thành những bài học thực tiễn sinh động
gắn liền với đời sống xã hội. Dù là bài nói hay bài viết về các vấn đề khác thì
Hồ Chí Minh cũng vẫn đề cập mối tương quan của chúng với Nhà nước và
pháp luật. Có thể nói rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng của
Người về Nhà nước và pháp luật nói riêng là nguồn giá trị vô tận, là di sản vô
cùng quý báu trong công cuộc đổi mới đất nước, trong sự nghiệp xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam, là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam đưa
đường dẫn lối, là ngọn đuốc sáng soi và sẽ còn sáng mãi trong các thế hệ
người Việt Nam hôm nay và mai sau.
Nhằm thiết thực hưởng ứng cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh", kỷ niệm 120 năm ngày sinh của Người, 65
năm ngày Cách mạng tháng Tám thành công và 65 năm ngày khai sinh Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cùng các ngày lễ lớn khác của
dân tộc ta trong năm 2010, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia phối hợp cùng
5
- Viện Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp xuất bản cuốn sách Hồ Chí Minh: Về
vấn đề Nhà nước và pháp luật.
Nội dung cuốn sách gồm một số bài viết và bài nói của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về Nhà nước và pháp luật từ năm 1919 đến năm 1969, được tuyển chọn
từ bộ sách Hồ Chí Minh toàn tập do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản
lần thứ hai năm 1995-1996.
Để thuận tiện cho việc theo dõi và tra cứu, chúng tôi giữ nguyên các chú
thích ở cuối trang như đã in trong Bộ sách Hồ Chí Minh toàn tập xuất bản lần
thứ hai. Ngoài ra, chúng tôi có chú dẫn thêm về số tập, số trang của mỗi bài
trích trong Bộ sách trên.
Cuốn sách là tài liệu quý và thiết thực cho mỗi cán bộ, đảng viên đang
công tác và học tập trong ngành tư pháp nói riêng và trong tất cả các ngành,
các cấp nói chung, đặc biệt là các nhà nghiên cứu, các giảng viên, sinh viên
các trường đại học và đông đảo bạn đọc trong và ngoài nước đối với việc tra
cứu và tìm hiểu tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp
luật.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 8 năm 2010
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
6
- BÌNH ĐẲNG*
Để che đậy sự xấu xa của chế độ bóc lột giết người, chủ nghĩa tư
bản thực dân luôn luôn điểm trang cho cái huy chương mục nát của nó
bằng những châm ngôn lý tưởng: Bác ái, Bình đẳng, v.v..
Nhưng, hãy xem tay chiến sĩ về bình đẳng ấy đã thực hiện bình
đẳng như thế nào.
Cùng làm một việc trong cùng một xưởng, người thợ da trắng vẫn
được trả lương hậu hơn nhiều so với bạn đồng nghiệp khác màu da.
Trong các công sở, những người bản xứ mặc dầu đã làm việc lâu
năm và mặc dầu rất thành thạo công việc, vẫn chỉ lĩnh một khoản tiền
công chết đói, trong khi một người da trắng mới được vào, làm công
việc ít hơn, thì lại lĩnh lương bổng nhiều hơn.
Có những thanh niên bản xứ đã học qua các trường đại học của
chính quốc và đậu bằng tiến sĩ y khoa hoặc luật khoa, vẫn không thể
làm được nghề nghiệp của mình trong nước mình nếu họ không vào
quốc tịch Pháp. (Mọi người đã biết, một người bản xứ muốn được vào
quốc tịch Pháp như vậy thì khó khăn và nhục nhã như thế nào rồi).
Phải bỏ ruộng nương và nhà cửa đăng vào lính "tình nguyện",
những người dân bản xứ ra lính đã được nếm mùi ngay ý nghĩa mỹ
miều của cái thứ "công bằng" quái gở mà họ đang phải bảo vệ này.
Cùng một cấp bậc, nhưng người da trắng gần như bao giờ cũng
* Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.1, tr.
75-76.
7
- được xem là cấp trên của người bản xứ. Người sĩ quan bản xứ phải
chào và tuân lệnh sĩ quan da trắng. Cái chế độ đẳng cấp phân biệt
"nhân chủng - quân sự" ấy lại còn rõ rệt hơn nữa khi những người lính
da trắng và lính khác màu da cùng đi chung trên một chuyến xe lửa
hoặc tầu thuỷ. Ví dụ như việc mới nhất gần đây:
Hồi tháng năm, chiếc tàu Ligiê chở 600 lính người Mangát từ
Pháp sang Mađagátxca. Các hạ sĩ quan người bản xứ thì chen chúc
dưới hầm tàu, còn đồng nghiệp của họ, những hạ sĩ quan da trắng, thì
được đường hoàng nằm trong các buồng dành riêng.
Hẳn những người anh em khác màu da chúng ta, nóng sôi lên vì
các nồi súpde nếu không phải vì lý tưởng, và tỉnh dậy vì tiếng động
ầm ầm của chân vịt quay hay vì tiếng gọi của lương tri, có thể suy
nghĩ và hiểu rằng cái chủ nghĩa tư bản tốt đẹp kia vẫn coi họ và bao
giờ cũng chỉ coi họ như những kẻ ôlô malôtô1) mà thôi.
N.A.Q.
Báo L'Humanité,
ngày 1-6-1922.
1) Từ ngữ Latinh, có nghĩa là kẻ tanh hôi, bẩn thỉu.
8
- PHÁT BIỂU TẠI HỘI NGHỊ LẦN THỨ NHẤT QUỐC TẾ
NÔNG DÂN*
Nông dân trong các thuộc địa của Pháp bị hai tầng bóc lột: vừa
như những người vô sản, vừa như những người bị mất nước. Ở
Angiêri, những đất đai màu mỡ được dành cho người Pháp; còn
những người nông dân thì bị dồn vào sống trong vùng núi là nơi đất
đai cằn cỗi và không thể canh tác được. Ở Đông Dương, hễ người
Pháp đến là chính phủ cấp cho anh ta cả nhiều làng trọn vẹn. Nhưng
người nông dân, không chỉ bần nông mà cả trung nông đều bị bắt
buộc phải rời bỏ quê hương của mình hoặc làm đày tớ cho ông chủ
người nước ngoài.
Thưa các đồng chí, khi các đồng chí được tổ chức lại, các đồng
chí cần phải nêu gương cho chúng tôi, giúp đỡ chúng tôi, dang rộng
cánh tay anh em đón chúng tôi để chúng tôi cũng có thể bước vào gia
đình vô sản quốc tế.
Tài liệu tiếng Pháp,
bản chụp lưu tại Cục lưu trữ
Văn phòng Trung ương Đảng.
* Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.1, tr.
208.
9
- CÁCH MẠNG NGA
VÀ CÁC DÂN TỘC THUỘC ĐỊA*
Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp
vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở
các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng
thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia
vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và
cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra. Cách mạng Nga rất hiểu rõ điều đó. Vì
thế nó không vừa lòng với việc đọc những bài diễn văn rỗng tuếch và
viết ra những quyết định "nhân đạo" đối với các dân tộc bị áp bức, mà
cách mạng Nga dạy cho họ đấu tranh, giúp đỡ họ bằng tinh thần và vật
chất như Lênin đã tuyên bố trong luận cương của Người về vấn đề
thuộc địa. Cách mạng Nga đã triệu tập Đại hội Bacu; hai mươi mốt
dân tộc phương Đông đã phái đại biểu tới dự Đại hội đó. Những đại
biểu của các đảng công nhân phương Tây cũng tham gia công việc của
Đại hội. Đó là lần đầu tiên trong lịch sử, giai cấp vô sản ở các nước
phương Tây đi xâm chiếm và giai cấp vô sản các nước bị xâm chiếm ở
phương Đông đã thân mật nắm tay nhau và cùng nhau tìm cách đấu
tranh có hiệu quả chống chủ nghĩa tư bản là kẻ thù chung của họ.
Sau cuộc Đại hội lịch sử ấy, mặc dầu đang vấp phải những khó
khăn trong nước và ngoài nước, nước Nga cách mạng không hề một
* Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.1, tr.
298-302.
10
- chút do dự trong việc giúp đỡ các dân tộc mà nó đã thức tỉnh bằng
cuộc cách mạng anh dũng và thắng lợi. Một trong những việc quan
trọng đầu tiên của nó là thành lập Trường đại học phương Đông.
Trường đại học phương Đông hiện nay gồm có 1.025 sinh viên,
trong đó có 151 nữ sinh. Trong số sinh viên ấy, có 865 đảng viên cộng
sản. Thành phần xã hội của học sinh như sau: 547 nông dân, 265 công
nhân, 210 trí thức vô sản. Nếu người ta chú ý rằng các nước phương
Đông đều là những nước hầu như hoàn toàn nông nghiệp thì sẽ dễ
hiểu vì sao số sinh viên nông dân chiếm tỷ lệ cao hơn. Ở Ấn Độ, ở
Nhật, ở Trung Quốc - nhất là ở Trung Quốc, phần nhiều là các trí thức
trung thành với sự nghiệp của giai cấp công nhân đang lãnh đạo giai
cấp này trong cuộc đấu tranh, điều đó giải thích vì sao số trí thức
chiếm tỷ lệ một thiểu số tương đối quan trọng; và tỷ lệ công nhân ít là
do công nghiệp và thương nghiệp tương đối kém phát triển trong các
vùng phương Đông, trừ nước Nhật. Ngoài ra, còn có 75 học sinh thiếu
niên, từ 10 đến 16 tuổi.
150 giáo sư phụ trách giảng dạy về khoa học xã hội, về toán học,
về duy vật lịch sử, về lịch sử phong trào công nhân, về khoa học tự
nhiên, về lịch sử các cuộc cách mạng, về khoa kinh tế chính trị, v.v..
Trong lớp học, thanh niên của 62 chủng tộc khác nhau cùng thân mật
sát cánh bên nhau.
Trường đại học phương Đông có 10 ngôi nhà to để cho sinh viên
dùng. Trường có một rạp chiếu bóng cho sinh viên xem không mất
tiền vào ngày thứ năm và ngày chủ nhật; còn những ngày khác trong
tuần lễ thì để cho một người thầu. Có hai tủ sách với 47.000 quyển
sách giúp cho các nhà cách mạng trẻ tuổi đi sâu vào việc nghiên cứu
của mình và bồi dưỡng thêm tư tưởng. Mỗi dân tộc hay "nhóm", có
một tủ sách riêng, gồm sách báo bằng tiếng mẹ đẻ của họ. Phòng đọc
sách được sinh viên trang trí một cách có nghệ thuật và có đầy đủ báo
chí. Các học sinh cũng cho ra một tờ báo chỉ có một bản duy nhất dán
11
- vào cái bảng to đặt trước cửa phòng đọc sách. Những người đau ốm
được vào chữa trong bệnh viện của nhà trường. Một trại điều dưỡng ở
Crimê dành riêng cho sinh viên cần được dưỡng sức. Chính phủ
Xôviết đã tặng cho Trường đại học hai trại hè mỗi trại có 9 ngôi nhà.
Mỗi trại hè có một chỗ cho sinh viên học chăn nuôi. Người "bí thư
nông nghiệp" của Trường đại học đã tự hào nói với tôi: "Chúng tôi đã
có 30 con bò cái và 50 con lợn". Một trăm hécta ruộng đất cấp cho các
trại hè ấy là do sinh viên tự cày cấy lấy. Trong kỳ nghỉ hè và sau giờ
làm việc và tập luyện, sinh viên đi giúp đỡ nông dân. Nhân đây cũng
nói qua rằng một trong những trại hè ấy trước kia là thái ấp của một
quận công. Thật là một cảnh đáng ghi nhớ khi trông thấy lá cờ đỏ tung
bay kiêu hãnh trên ngọn tháp có mang tước huy quận công, và thấy
những người nông dân trẻ tuổi Triều Tiên hay Ácmêni vui đùa trong
lễ điện của quận công không kiêng nể gì cả.
Sinh viên ăn, ở và mặc không phải mất tiền. Mỗi tháng mỗi sinh
viên còn được lĩnh 5 đồng rúp vàng để tiêu vặt.
Để học sinh có một quan niệm đúng đắn về việc giáo dục trẻ em,
Trường đại học có một nhà nuôi trẻ và một nhà gửi trẻ rất kiểu mẫu
gồm 60 em nhỏ.
Mỗi năm Trường đại học chi tiêu đến 516.000 đồng rúp vàng.
Các đại biểu của 62 chủng tộc trong Trường đại học lập thành
một "Công xã". Chủ tịch và các cán sự của Công xã do phổ thông đầu
phiếu bầu ra ba tháng một lần.
Một đại biểu sinh viên tham gia việc quản trị kinh tế và hành
chính của Trường đại học. Tất cả các sinh viên đều phải thay phiên
nhau lần lượt làm công việc nhà bếp, thư viện, câu lạc bộ, v.v.. Tất cả
mọi vụ "phạm pháp" hoặc tranh chấp đều do một toà án được bầu ra
xét xử trước mặt toàn thể các đồng chí. Công xã họp mỗi tuần một lần
để thảo luận tình hình chính trị và kinh tế quốc tế. Thỉnh thoảng người
ta tổ chức những cuộc hội họp và những buổi dạ hội trong đó những
12
- sinh viên có khiếu về nghệ thuật trình bày nghệ thuật và văn học của
khắp các miền ở phương Đông.
Một điểm đặc biệt nhất biểu hiện sự "dã man" của những người
bônsơvích là không những họ coi "những người dân thuộc địa thấp
kém" ấy như anh em, mà còn tổ chức cho họ tham gia đời sống chính
trị của nước Nga nữa. Trong kỳ bầu cử các Xôviết, những sinh viên
mà khi còn ở trong nước của họ thì chỉ là những "kẻ dân lành", những
"người được bảo hộ", nghĩa là những người không có quyền gì khác
hơn là quyền nộp thuế, những người không hề có quyền ứng cử và bầu
cử ở nước họ, những người không được phép bàn bạc chính trị, thì nay
ở nước Nga Xôviết những người đó được tham gia bầu cử và cử đại
biểu của họ vào Xôviết. Mong rằng những anh em của tôi ở các thuộc
địa đang cầu xin đổi quốc tịch mãi mà không được, hãy thử so sánh
nền dân chủ tư sản với nền dân chủ vô sản.
Tất cả những sinh viên ấy đều đã từng đau khổ và đã thấy người
khác đau khổ. Tất cả đều đã sống dưới "nền văn minh khai hoá cao
cả" và dưới ách bóc lột và áp bức của chủ nghĩa tư bản nước ngoài.
Vì thế tất cả đều ham mê và khao khát học tập và hiểu biết. Họ vừa
hăng hái vừa nghiêm túc. Họ không hề chơi bời phóng túng như
những thanh niên phương Đông ở Pari, ở Ôxpho, ở Béclin. Người ta
có thể nói không ngoa rằng Trường đại học phương Đông ôm ấp
dưới mái trường mình tất cả tương lai của các dân tộc thuộc địa.
Miền Cận Đông và miền Viễn Đông, từ Xyri đến Triều Tiên - chúng
tôi chỉ nói đến những nước thuộc địa và nửa thuộc địa có một diện tích
rộng hơn 15 triệu km2, với số dân hơn 1.200 triệu người, tất cả những
nước rộng lớn ấy ngày nay đều đang ở dưới ách của chủ nghĩa tư bản và
chủ nghĩa đế quốc. Và mặc dù số lượng của họ đáng lẽ phải làm cho họ
có sức mạnh, các dân tộc bị áp bức đó vẫn chưa thực sự mưu đồ tự giải
phóng khỏi ách đó, và vì họ chưa hiểu giá trị của sự đoàn kết quốc tế, nên
họ chưa biết đoàn kết nhau lại để đấu tranh. Họ chưa có những sự liên hệ
13
- giữa các nước họ với nhau, như các dân tộc châu Âu và châu Mỹ. Họ có
sẵn một sức mạnh to lớn mà họ chưa biết! Việc thành lập Trường đại học
phương Đông, tập hợp những người lãnh đạo trẻ tuổi tích cực, thông
minh của các nước thuộc địa, đã làm được một công cuộc to lớn là:
a) Trường đã huấn luyện cho các chiến sĩ tiên phong tương lai ấy
nguyên lý đấu tranh giai cấp, nguyên lý mà một mặt các cuộc đấu
tranh chủng tộc và mặt khác các tập tục của chế độ gia trưởng đã làm
lẫn lộn trong đầu óc họ.
b) Trường đã làm cho đội tiên phong của giai cấp vô sản các nước
thuộc địa tiếp xúc mật thiết với giai cấp vô sản phương Tây để dọn
đường cho một sự hợp tác thật sự sau này, chỉ có sự hợp tác đó mới có
thể bảo đảm cho giai cấp công nhân quốc tế giành được thắng lợi cuối
cùng.
c) Trường đã làm cho các dân tộc thuộc địa - từ trước đến nay rời
rạc với nhau - hiểu biết nhau, và đoàn kết với nhau, do đó đặt cơ sở
cho một khối liên hợp tương lai giữa các nước phương Đông, khối liên
hợp đó là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản.
d) Trường đã nêu lên cho giai cấp vô sản các nước mà giai cấp tư
sản có thuộc địa, một tấm gương về những điều họ có thể và phải làm
cho những anh em của họ đang bị áp bức.
NGUYỄN ÁI QUỐC
Báo La Vie Ouvrière,
số 20, năm 1924.
14
- YÊU SÁCH CỦA NHÂN DÂN AN NAM*
Từ ngày Đồng minh thắng trận, tất cả các dân tộc bị lệ thuộc đều
chứa chan hy vọng rằng theo những lời cam kết chính thức và trịnh
trọng mà các cường quốc Đồng minh đã tuyên bố với toàn thế giới,
trong cuộc đấu tranh của Văn minh chống Dã man, thì tiền đồ một
thời đại công lý và chính nghĩa nhất định là phải đến với họ.
Trong khi chờ cho nguyên tắc dân tộc sẽ từ lĩnh vực lý tưởng
chuyển vào lĩnh vực hiện thực do chỗ quyền tự quyết thiêng liêng
của các dân tộc được thừa nhận thật sự, nhân dân nước An Nam
trước kia, nay là xứ Đông - Pháp, xin trình với các quý Chính phủ
trong Đồng minh nói chung và với Chính phủ Pháp đáng kính nói
riêng, những yêu sách khiêm tốn sau đây:
1. Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị;
2. Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản
xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như
người Âu châu; xoá bỏ hoàn toàn các toà án đặc biệt dùng làm công
cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An
Nam;
3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận;
4. Tự do lập hội và hội họp;
5. Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương;
* Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.1, tr.
435-436.
15
- 6. Tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp
ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ;
7. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật;
8. Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ, do người bản xứ
bầu ra, tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những
nguyện vọng của người bản xứ.
Đưa ra những yêu sách trên đây, nhân dân An Nam trông cậy vào
chính nghĩa thế giới của tất cả các cường quốc và đặc biệt tin vào lòng
rộng lượng của nhân dân Pháp cao cả, tức là của những người đang
nắm vận mệnh của nhân dân An Nam, của những người, do chỗ nước
Pháp là một nước Cộng hoà, nên được coi là những người bảo hộ cho
nhân dân An Nam. Khi nhân dân An Nam nhắc đến sự "bảo hộ" của
nhân dân Pháp, thì không lấy thế làm hổ nhục chút nào mà trái lại còn
lấy làm vinh dự: vì nhân dân An Nam biết rằng nhân dân Pháp đại
biểu cho tự do và công lý, và không bao giờ từ bỏ lý tưởng cao cả của
mình là tình bác ái toàn thế giới. Vì thế, nghe theo tiếng nói của những
người bị áp bức, là nhân dân Pháp sẽ làm tròn nhiệm vụ của mình đối
với nước Pháp và đối với Nhân loại.
Thay mặt nhóm những người yêu nước An Nam
NGUYỄN ÁI QUỐC
Tài liệu tiếng Pháp, bản chụp
lưu tại Viện Hồ Chí Minh.
16
- BẢN ÁN CHẾ ĐỘ THỰC DÂN PHÁP*
Viết bằng tiếng Pháp, Dịch theo cuốn sách
xuất bản lần đầu tiên tại xuất bản lần đầu tiên và đã
Pari (Pháp) năm 1925, đối chiếu với cuốn xuất bản
xuất bản lần đầu tiên năm 1946 ở Việt Nam.
ở Việt Nam năm 1946.
Ký tên: NGUYỄN ÁI QUỐC.
* Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2,
tr. 21-133.
17
- CHƯƠNG I1)
THUẾ MÁU
I- CHIẾN TRANH VÀ "NGƯỜI BẢN XỨ"
Trước năm 1914, họ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tên
"Annamít" bẩn thỉu, giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của
các quan cai trị nhà ta. Ấy thế mà cuộc chiến tranh vui tươi vừa bùng nổ,
thì lập tức họ biến thành những đứa "con yêu", những người "bạn hiền"
của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu, thậm chí của cả các quan toàn
quyền lớn, toàn quyền bé nữa2). Đùng một cái, họ (những người bản xứ)
được phong cho cái danh hiệu tối cao là "chiến sĩ bảo vệ công lý và tự
do". Nhưng họ đã phải trả bằng một giá khá đắt cái vinh dự đột ngột ấy,
vì để bảo vệ cho cái công lý và tự do mà chính họ không được hưởng một
tí nào, họ đã phải đột ngột xa lìa vợ con, rời bỏ mảnh ruộng hoặc đàn cừu
của họ, để vượt đại dương, đi phơi thây trên các bãi chiến trường châu
Âu. Trong lúc vượt biển, nhiều người bản xứ, sau khi được mời chứng
kiến cảnh kỳ diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi, đã được
xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thuỷ quái. Một số khác
đã bỏ xác tại những miền hoang vu thơ mộng vùng Bancăng, lúc chết còn
tự hỏi phải chăng nước mẹ muốn chiếm ngôi nguyên phi trong cung cấm
vua Thổ, - chả thế sao lại đem nướng họ ở những miền xa xôi ấy? Một số
1) Bản in năm 1925 có lời giới thiệu của Nguyễn Thế Truyền.
2) Nguyên văn: nos gouverneurs plus ou moins généraux.
18
- khác nữa thì đã anh dũng đưa thân cho người ta tàn sát trên bờ sông
Mácnơ, hoặc trong bãi lầy miền Sămpanhơ, để lấy máu mình tưới những
vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy và lấy xương mình chạm nên những
chiếc gậy của các ngài thống chế.
Cuối cùng, ở hậu phương, những người làm kiệt sức trong các
xưởng thuốc súng ghê tởm, tuy không phải hít hơi ngạt của bọn
"bôsơ"1), nhưng lại nhiễm phải những luồng khí độc đỏ ối của người
Pháp; đằng nào cũng thế thôi, vì những kẻ khốn khổ ấy cũng đã khạc
ra từng miếng phổi, chẳng khác gì đã hít phải hơi ngạt vậy.
Tổng cộng có 700.000 người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp; và
trong số ấy, 80.000 người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên
quê hương đất nước mình nữa!
II- CHẾ ĐỘ LÍNH TÌNH NGUYỆN
Một bạn đồng nghiệp nói với chúng tôi: dân lao khổ bản xứ ở
Đông Dương từ bao đời nay bị bóp nặn bằng đủ mọi thứ thuế khoá,
sưu sai, tạp dịch, bằng cưỡng bức phải mua rượu và thuốc phiện theo
lệnh quan trên, từ 1915-1916 tới nay, lại còn phải chịu thêm cái vạ mộ
lính nữa.
Những biến cố trong mấy năm gần đây là cái cớ để người ta tiến
hành những cuộc lùng ráp lớn về nhân lực trên toàn cõi Đông Dương.
Những người bị bắt đều bị nhốt vào trại lính với đủ thứ tên: lính khố đỏ,
lính thợ chuyên nghiệp, lính thợ không chuyên nghiệp, v.v..
Theo ý kiến của tất cả các cơ quan có thẩm quyền không thiên vị
được giao cho sử dụng ở châu Âu "vật liệu biết nói" châu Á, thì vật
liệu này đã không đưa lại kết quả tương xứng với chi phí rất lớn về
1) "Boches". Từ có nghĩa xấu chỉ quân Đức.
19
- chuyên chở và bảo quản.
Sau nữa, việc săn bắt thứ "vật liệu biết nói" đó, mà lúc bấy giờ
người ta gọi là "chế độ lính tình nguyện" (danh từ mỉa mai một cách
ghê tởm) đã gây ra những vụ nhũng lạm hết sức trắng trợn.
Đây! Chế độ lính tình nguyện ấy được tiến hành như thế này: vị
"chúa tỉnh" - mỗi viên công sứ ở Đông Dương quả là một vị "chúa
tỉnh" - ra lệnh cho bọn quan lại dưới quyền, trong một thời hạn nhất
định phải nộp cho đủ một số người nhất định. Bằng cách nào, điều đó
không quan trọng. Các quan cứ liệu mà xoay xở. Mà cái ngón xoay xở
kiểu D1) thì các ông tướng ấy thạo hết chỗ nói, nhất là xoay xở làm
tiền.
Thoạt tiên, chúng tóm những người khoẻ mạnh, nghèo khổ,
những người này chỉ chịu chết thôi không còn kêu cứu vào đâu được.
Sau đó, chúng mới đòi đến con cái nhà giàu. Những ai cứng cổ thì
chúng tìm ngay ra dịp để sinh chuyện với họ hoặc với gia đình họ, và
nếu cần, thì giam cổ họ lại cho đến khi họ phải dứt khoát chọn lấy một
trong hai con đường: "đi lính tình nguyện, hoặc xì tiền ra".
Những người bị tóm đi như thế còn hào hứng gì nữa với cái nghề
cột vào cổ họ. Cho nên, bước chân vào trại lính là họ liền tìm mọi cơ
hội để trốn thoát.
Còn những người nào thấy không thể thoát khỏi số phận hẩm hiu,
thì tìm cách tự làm cho mình nhiễm phải những bệnh nặng nhất, mà
thông thường hơn cả là bệnh đau mắt toét chảy mủ, gây ra bằng cách
xát vào mắt nhiều thứ chất độc, từ vôi sống đến mủ bệnh lậu.
*
* *
1) Nguyên văn: Le Système D. D, chữ đầu của từ débrouillard, có nghĩa
là xoay xở, tháo vát.
20
nguon tai.lieu . vn