Xem mẫu
- TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 12 (37) - Thaùng 2/2016
Hình ảnh Đà Nẵng xưa trong thơ chữ Hán
The picture of ancient Da Nang in Chinese character’s poetry
TS. Nguyễn Hoàng Thân,
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng
Ph.D. Nguyen Hoang Than,
The University of Da Nang – University of Education
Tóm tắt
Đà Nẵng không chỉ ngày nay mới được nhiều người biết đến và mến yêu mà còn là cảng thị đã từng nổi
tiếng từ lâu. Và, lâu nay Đà Nẵng xưa cũng chỉ mới được nhắc đến, nghiên cứu từ phương diện lịch sử,
văn hóa mà dường như chưa có công trình nào tiếp cận, nghiên cứu từ phương diện văn chương, đặc
biệt là văn chương chữ Hán. Bài viết này thử bước đầu khai lối tiếp cận hình ảnh Đà Nẵng xưa từ nguồn
tư liệu thơ chữ Hán và gợi mở một hướng khai thác văn chương chữ Hán để góp phần cho công cuộc
xây dựng, phát triển thành phố.
Từ khóa: thơ văn, thơ chữ Hán, Đà Nẵng xưa, văn học Đà Nẵng, hình ảnh Đà Nẵng…
Abstract
Da Nang is not only a beloved city in recent years but a well-known port city for a long time. However,
Da Nang is just mentioned and researched from the historical and cultural aspects but is not engaged
from the middle-age literature, especially from the Chinese character’s poetry aspect. This article
initially tries to approach the picture of ancient Da Nang from the source of Chinese character’s poetry
and unveils a new trend in exploring Chinese character’s poetry in order to contribute to the
development of the city.
Keywords: Chinese character’s poetry, ancient Da Nang, Da Nang literature, Da Nang picture…
Lâu nay người ta khai thác tư liệu về Nẵng để góp thêm tư liệu nghiên cứu về
Đà Nẵng chủ yếu là ở các bộ sử tịch hay Đà Nẵng là việc rất cần thiết và có ý nghĩa
những văn bản Hán Nôm bằng dạng văn lâu dài.
như văn bia, gia phả, địa bạ, sắc phong, 1. Thơ chữ Hán về Đà Nẵng -
hương ước… mà thường chưa quan tâm Những hướng tiếp cận bước đầu
đến tư liệu thơ chữ Hán. Có lẽ là do thơ Vùng đất xứ Quảng ra đời tương đối
chữ Hán nằm rải rác trong các bộ tổng tập, muộn so với diễn trình lịch sử của dân tộc.
hay tuyển tập và thi tập đơn biệt của các Và thơ chữ Hán về Đà Nẵng ra đời càng
tác giả Hán Nôm. Tra sưu và lập phiếu tư muộn hơn so với mảnh đất tạo nguồn thi
liệu về chủ đề như vậy thường mất rất hứng cho nó. Đến nay, chúng ta chỉ có thể
nhiều thời gian, mà đôi lúc “hiệu ích” biết được bài thơ chữ Hán sớm nhất là bài
mang lại không cao. Song, việc sưu tập, Hải Vân hải môn lữ thứ của Lê Thánh Tông
xây dựng kho dữ liệu thơ chữ Hán về Đà viết vào năm 1471. Muộn hơn một ít là câu
78
- “thơ” trong văn của Dương Văn An: “Thạc những bài: Hải Vân hải môn lữ thứ, Độ
Giản vài ông lão buông câu” trong Ô châu quan, Túc Cu Đê điếm, Quá Hải Vân sơn,
cận lục vào giữa thế kỉ XVI. Còn phần lớn Vọng dạ túc Hải Vân sơn đình khách xá,
thơ chữ Hán về Đà Nẵng ra đời vào giai Quá Hải Vân… Về không gian kì tú, linh
đoạn chúa Nguyễn và triều Nguyễn. thiêng Hành Sơn có những bài: Tam Thai
Xét về “thời gian” xuất hiện thì thơ tự thính triều, Vịnh Tam Thai, Du Tam
chữ Hán về Đà Nẵng được phân chia theo Thai tự, Du Ngũ Hành Sơn, Bạch thạch
từng chặng đường lịch sử của vùng đất. Đó hoàng sa, Hành Sơn tú khí… Về không
là những vần thơ trong buổi đầu hành trình gian sâu lắng mà luôn dậy sóng Trà Sơn -
Nam tiến của cha ông. Tiêu biểu nhất là bài Trà Áo - Đà Tấn có những bài với sắc vẻ từ
Hải Vân hải môn lữ thứ của Lê Thánh tĩnh lặng như Trà Úc chu thượng khẩu
Tông. Đó là những bài thơ trong giai đoạn chiếm, Chu để Đà Nẵng tấn chí sự, Trà Áo
chúa Nguyễn xây dựng chính quyền Đàng dạ phiếm đến dậy sóng như Đà Nẵng hoài
Trong, như Ái lĩnh Xuân Vân của Nguyễn cảm, Trà Sơn quân thứ…
Phúc Chu, Tam Thai tự thính triều của Xét về chủ thể sáng tác, thơ chữ Hán
Thiên Túng Đạo Nhân, Vịnh Tam Thai của về Đà Nẵng do đủ các thành phần giai tầng
Thích Đại Sán... Đó là một loạt bài thơ khác nhau làm nên. Từ vua, có Lê Thánh
trong giai đoạn triều Nguyễn với biết bao Tông, Minh Mạng; chúa, có Nguyễn Phúc
chủ thể sáng tác, chủ đề nội dung, như: Độ Chu - Thiên Túng Đạo Nhân; quan, có
quan, Túc Cu Đê điếm, Du Tam Thai tự, Trương Quang Đản, Bùi Văn Dị, Nguyễn
Ngẫu hứng của Phan Thanh Giản; Trà Sơn Văn Mại, Nguyễn Thuật, Cao Xuân Dục,
quân thứ của Phạm Văn Nghị; Châu hành Đào Tấn, Nguyễn Cao, Nguyễn Hàm Ninh,
há Thanh Khê, nhân cố nhân kí biệt tòng Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Trường Tộ,
du chư đệ tử, Lưu viện du nguyệt, văn đắc Phạm Văn Nghị, Trần Bích San, Vũ Phạm
tái phát Đà Nẵng, thị dạ đồng Vũ Hoài Phủ Khải; vương, có Miên Thẩm; công chúa, có
thống ẩm của Cao Bá Quát; Đồ quá Hải Mai Am, Huệ Phố; quan đi sứ, có Phan
Vân quan, ngẫu thành của Nguyễn Xuân Thanh Giản, Phạm Phú Thứ; quan bị biếm
Ôn; Quá Hải Vân sơn, Vọng dạ túc Hải đày, có Cao Bá Quát; chí sĩ, có Trần Cao
Vân sơn đình khách xá; Trà Úc chu thượng Vân, Trần Quý Cáp, Phan Bội Châu,
khẩu chiếm, Chu để Đà Nẵng tấn chí sự Huỳnh Thúc Kháng, Lê Bá Trinh; tăng sư,
của Phạm Phú Thứ; Đà Nẵng hoài cảm của có Đào Tiến Mai, Quy Thiện; nữ lưu, có
Trần Quý Cáp; Trà Áo dạ phiếm, Quá Hải Lê Thị Thuân, Cẩm Tú Hồ Thị Tham, Bà
Vân của Hà Đình Nguyễn Thuật… hay Bang Nhãn; người nước ngoài, có Thích
những bài thơ chưa rõ tiêu đề của Nguyễn Đại Sán, Lí Triệu Tuấn…
Thượng Hiền, Bùi Văn Dị… Xét về nội dung chuyển tải, thơ chữ
Xét về “không gian” biểu hiện, thơ Hán về Đà Nẵng cũng cùng dòng chảy với
chữ Hán về Đà Nẵng chủ yếu miêu thuật 3 thơ chữ Hán trung-cận đại của Việt Nam.
không gian (địa điểm) “đột khởi” và kì tú, Tức cũng bao chứa những nội dung tả
linh thiêng mà phản chiếu tức thì vào đôi cảnh, ngụ tình, ngôn chí… Những vấn đề
mắt thi nhân là Hải Vân quan, Ngũ Hành này sẽ được trình bày rõ hơn trong phần
Sơn, Trà Sơn - Trà Áo - Đà Tấn. Về không dưới đây.
gian hùng vĩ, khoáng đạt Hải Vân có
79
- 2. Hình ảnh Đà Nẵng trong thơ Làm cho quần áo ướt sũng như dưới
chữ Hán - Vài nét phác họa ban sơ khe vừa bước lên)
2.1. Trước hết, không gian địa giới Đà (Ái lĩnh Xuân Vân - Nguyễn Phúc Chu;
Nẵng được xác định rõ bởi núi Hải Vân. Nguyễn Q. Thắng dịch)
Đây không chỉ là vùng đất “Nam thiên”: Hải Vân quan trong thơ chữ Hán xưa
Hỗn nhất xa thư cộng bức quyên với một quang cảnh núi rừng bao la, đa vẻ
Hải Vân hoành giới Việt Nam thiên và được gói lại trong tứ thơ:
(Xa thư gộp một nền chung Nguy sạn khủng điên quệ.
Hải Vân, nét gạch khoanh vùng trời nam) Lâm khích kiến triêu nhật,
(Hải Vân hải môn lữ thứ - Lê Thánh Tông; Thụ diệp vũ điểm truy.
Ngô Linh Ngọc dịch) Thạch kính đài tiên hoạt,
Mà còn là vùng đất xung yếu như đất Thục: Lâm ái phương ung ế.
Việt Nam xung yếu thử sơn điên Ai viên đề bất trú,
Tuyệt lĩnh hoàn như Thục đạo thiên Hàn điểu thanh tương kế.
(Ngọn núi này là chỗ xung yếu nhất (Núi đứng chênh vênh như con thú dữ,
của Việt Nam, Giơ mõm vào người cắn sủa.
Chẳng khác gì cảnh hiểm nghèo như Nước khe lớn ào ào tuôn chảy:
đường vào đất Thục) Cầu treo cao sợ bị lật nhào.
(Ái lĩnh Xuân Vân - Nguyễn Phúc Chu; Qua kẽ lá đã thấy ánh ban mai,
Nguyễn Q. Thắng dịch) Mưa rơi từ lá rừng xuống từng giọt,
Hải Vân vừa là địa giới tự nhiên của từng giọt.
Đà Nẵng vừa là một nơi phong cảnh hữu Rêu phong lối đi bằng đá dễ trượt,
tình, đầy ấn tượng. Bất cứ ai vượt qua nó Cây rừng rậm rạp che kín khắp.
tiến về Nam hay những ai băng qua nó để Tiếng vượn kêu thảm thiết không ngớt,
thượng kinh thì cũng đều dậy lên một cảm Tiếng chim kêu tiếp theo trong gió lạnh)
xúc dâng trào và hạ bút thành thi. Hình ảnh (Độ quan 2 - Phan Thanh Giản; nhóm tác
Hải Vân từ mấy trăm năm trước đã là: giả sđd dịch)
Dao vọng Hải Vân quan. Hải Vân ấn tượng để rồi khó quên, là
Du vân chính dung duệ bạn tri âm của khách bộ hành. Đến khi một
(Nhìn đèo Hải Vân xa, lần gặp lại, nhà thơ quan triều Phan Thanh
Mây sũng nước ngầu đục) Giản phải thốt lên:
(Độ quan 2 - Phan Thanh Giản; nhóm tác giả Kim nhật trùng lai xứ
sách Thơ văn Phan Thanh Giản dịch) Tương phùng thị cố nhân
Đản kiến vân hoành tam tuần lĩnh, (Hôm nay trở lại Hải Vân,
Bất tri nhân tại kỉ trùng thiên. Gặp nhau chính bạn quen thân những
Lãnh triêm tu phác phi đồng tuyết, ngày)
Thấp triển y thường khởi thệ tuyền. (Độ quan 1; nhóm tác giả sđd dịch)
(Đứng trên đỉnh chỉ thấy mây phủ cả Cảnh sắc Hải Vân quan còn ẩn lưu
ba tầng núi cao, trong những bài thơ khác như Quá Hải Vân
Và không biết bao nhiêu mây trắng của Hà Đình Nguyễn Thuật, Đồ quá Hải Vân
như bao bọc quanh ta. quan, ngẫu thành của Nguyễn Xuân Ôn…
Khí lạnh bám vào tóc râu chẳng khác 2.2. Trên non dưới biển, sau Hải Vân
gì tuyết dính, là đến Đồng Long - Trà Áo - Đà Tấn. Cửa
80
- biển Đà Nẵng với khung cảnh “bờ bến là nơi Ngũ Hành của triết lí vũ trụ - nhân
mênh mông, sóng gió cuồn cuộn” (Lê sinh. Trong bài viết “Đôi vần thạch thi non
Thánh Tông), “Đại hải hà mang mang = thiêng Ngũ Hành” trên Tạp chí Văn hóa -
Biển khơi rộng mênh mang vô chừng” Du lịch Đà Nẵng số 23 [2], chúng tôi đã có
(Phan Thanh Giản), “Đà tấn vân sơn tiệm dịp trình bày tương đối chi tiết hình ảnh
giác thu = Đà tấn non mây thu lững lờ” non thiêng Ngũ Hành được thể hiện trong
(Cao Bá Quát), là nơi giao lưu quốc tế những tác phẩm thơ chữ Hán của các tác
quan trọng. Đây là nơi tụ hội tàu bè các giả đủ mọi giai tầng. Ở đây, tác giả chỉ
nước đến nơi này buôn bán tấp nập: Ngũ điểm lại vài nét phác họa. Đó là cảnh sắc
cổ phong thanh Lộ Hạc thuyền = Gió ru Ngũ Hành muôn màu muôn vẻ. Lúc thì
thuyền Lộ canh năm (Hải Vân hải môn lữ thâm u huyền tịch với những thi từ: “bán dạ
thứ - Lê Thánh Tông; Ngô Linh Ngọc chung thanh”, “hơi mưa lạnh”, “Phong bi
dịch). Đây là nơi chứng kiến những sứ thần ám đạm thu sương lão/Cổ tự thanh u dạ
triều Nguyễn xuất dương thực thi trọng nguyệt hàn”. Lúc thì rộn ràng nhộn nhịp với
nhiệm quốc gia, như Phan Thanh Giản với “lối xe ngựa sau sau trước trước”, “người
bài Ngẫu hứng, Phạm Phú Thứ với những lên trước kẻ lên sau”, “ba đào muôn lớp dội
bài Trà Úc chu thượng khẩu chiếm, Chu để sườn non”. Lúc thì bao la giữa trời không,
Đà Nẵng tấn chí sự… Đây còn là nơi thể hiện qua những hình ảnh “muôn cảnh
chứng kiến những bề tôi bị biếm đày như bao la Vọng Hải đài”, “nghi ngút đền đài
trường hợp Cao Bá Quát, được ghi lại quyện khói lên”, “khí thiêng nghi ngút núi
trong bài thơ Lưu viện du nguyệt, văn đắc chon von/ rõ thật Bồng Lai giữa biển con”.
tái phát Đà Nẵng, thị dạ đồng Vũ Hoài Phủ Ngũ Hành Sơn vẫn là nơi thoát tục, xa
thống ẩm của ông. Biển Đà Nẵng còn là lánh cõi trần, chỉ còn là non thiêng quyện
ngư trường sinh nhai của người dân sở tại: trong khói hương. Từ thời Lê Thánh Tôn,
“Phủ thị Thanh Khê ảo/ Phàm tường khả núi Ngũ Hành “còn ngoài bể”. Hoàng Diệu
chỉ kế = Nhìn xuống vũng Thanh Khê/ Các đã “từng lấy làm lạ rằng: Vua Lê Thánh
cột buồm, có thể chỉ tay đếm ngón”, “Ngư Tôn tuần hành đến đâu đều có đề vịnh. Mà
lang xao mãn hàn đàm nguyệt = Chiếc sào Ngài viếng Quảng Nam ba lần, không thấy
của làng chài đập mặt nước đêm sáng trăng nói đến Ngũ Hành Sơn” [3]. Đến đời
lấp loáng” (Độ quan 1, Ngẫu thành - Phan Nguyễn, Ngũ Hành Sơn cũng chỉ là “phong
Thanh Giản). Gió biển Đà Nẵng còn là bạn nguyệt tĩnh thành tân kết lữ” (làm bạn với
của nhà nông: “Duy nguyện hải phong xuy gió trăng thành lặng), “màn tiên cảnh vắng
tác vũ/ Chính nghi thiên lí nhuận tang điền đành xa tục”. Chính vì vậy nơi đây chủ yếu
= [Bây giờ] chỉ mong gió ngoài biển xa dành cho những ai tìm đến để “bao nhiêu
đem mưa lại/ Tưới mát cho ngàn dặm khối lỗi bỗng tiêu mòn”, “khéo để riêng
ruộng dâu ở đất này” (Ái lĩnh Xuân Vân - cho một cõi nhàn” mà hòa cùng “lửa
Nguyễn Phúc Chu). hương còn quyện với giang san”.
2.3. Hình ảnh nổi bật nhất đồng thời 2.4. Những nội dung trên là nhìn hình
chiếm số lượng nhiều nhất trong thơ chữ ảnh Đà Nẵng từ những không gian - vị trí
Hán về Đà Nẵng là bóng dáng Non Nước - riêng biệt. Song vẫn có nhiều bài thơ khắc
Ngũ Hành. Bởi đây là nơi trên Non dưới họa một cách trọn vẹn hình ảnh tổng thể
Nước của phong cảnh hữu tình - hòa hợp, của Đà Nẵng xưa. Đọc lại trong thơ chữ
81
- Hán, chúng ta thấy hình ảnh Đà Nẵng xưa tế, là địa - quân sự quan trọng nên không
thật yên bình: thể nào thoát khỏi tiếng súng của giặc Tây
Đà Nẵng loan đầu lục tự đài. để làm bàn đạp tiến vây kinh thành.
Trà sơn yên ái hợp Tam Thai. Nguyễn Xuân Ôn đã viết trong Đồ quá Hải
Ngư lang xao mãn hàn đàm nguyệt, Vân quan, ngẫu thành:
Tăng quản xuy đoàn dã tự mai. Dương pháo bôn sơn lũy,
Bán chẩm dạ triều hô mộng khởi, Ô thuyền hám hải than.
Nhất liêm sơ vũ tống sầu lai. (Súng Pháp đánh đồn núi,
Phiến vân khứ trú hồn vô định, Tàu Ô ngó cửa Hàn)
Bất cảm trùng đăng Điện Hải đài. (Nguyễn Đức Vân - Hà Văn Đại dịch)
(Biển Đà Nẵng xanh rêu, Và Trần Quý Cáp biểu đạt nỗi cảm
Trà Sơn mây vẫn thuận chiều Tam Thai. hoài của hình ảnh Đà Nẵng bị ngoại xâm,
Đầm trăng lộn bóng vó chài, được trình bày trong Bài thơ 110 năm
Gốc mơ, sư dạo thổi chơi sáo chùa. trước của Trần Quý Cáp [1]:
Triều lên, bật dậy trong mơ, Thử địa do hà động chiến phong,
Ngoài rèm mưa đến đầu mùa buồn tênh. Chí kim đáo xứ thỉ xà tung.
Làn mây vô định bồng bềnh, Thuyền lâm nội phụ tam tài sắc,
Thăm đài Điện Hải tái trình, đành thôi) Xa tẩu trùng quan nhứt lộ thông
(Ngẫu hứng - Phan Thanh Giản; nhóm tác Cố quốc sơn hà lân địch lí
giả sđd dịch) Thùy gia lầu các tịch dương trung
Hay bài Trà Áo dạ phiếm của Hà Đình (Chinh chiến vì đâu nảy họa tai?
cũng đã cảm thuật: Mà nay thấy những dấu lang sài!
Hải thiên vạn khoảnh vọng man nhiên Cờ ba sắc nhoáng tàu vô cửa,
Thập trượng bồ phàm tán mộ yên Xe một đường thông ải suốt dài.
Phong cấp như đăng quang bất định Tiếng địch gọi hồn non nước cũ
Sơn không nguyệt ảnh chiếu vô biên Bóng chiều chói rạng phố lầu ai?)
Triều khê tỉ ngạc tằng hà nhựt (Nguyễn Q. Thắng dịch)
Đào chẩm văn kê ức tích niên 2.6. Cũng từ đó, hình ảnh Đà Nẵng lại
Thùy thị hùng tâm thôn bất đắc hiện lên tinh thần chống thực dân Pháp và
Nhứt ca khảng khái phá sầu miên thế giới phương Tây ngoại xâm với tinh
(Chân trời vạn khoảnh ngó mút tăm, thần “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu
Bãi sông mười trượng, buồm tan khói chiều trách”. Với Phạm Văn Nghị:
Gió vù vù đèn chài chao lắc lư, (Đang) căm giận nhìn về Trà Sơn,
Núi vắng trăng sáng mênh mông. (nơi) lũ giặc thối tha kéo đến
Biển khe dời cá sấu có bao giờ, (Thì) hôm nay (ở) Trà Sơn, mù biển
Gối sóng nghe gà gáy nhớ chuyện (đã) tan
năm xưa. Kẻ sĩ mang lòng khẳng khái sắp tiến lên
Ai có hùng tâm nuốt không được? (Thì) nhà vua thấy nỗi lòng vất vả lại
Lời ca khẳng khái phá ngủ buồn) cho về
(Nguyễn Q. Thắng dịch) Làm hay thôi, chỉ biết gặp sao hay vậy
2.5. Đà Nẵng nên thơ là vậy, yên bình Sai hay đúng, việc gì lại ngờ vực nhau
là vậy, nhưng vì là cửa ngõ giao lưu quốc
82
- “Tùng bách mùa rét”: câu phê của vua hấp dẫn, vì nó vừa mang sự thực lịch sử
còn đó bởi những tác giả đương thời và lại vừa
Tấm lòng trinh bạch chưa chịu (thành) hàm ý vị thi ca bởi những tứ thơ trau chuốt
tro nguội của cổ nhân. Đồng thời tìm hiểu xưa để
(Trà Sơn quân thứ) ứng dụng nay. Biết đâu trong tương lai
Còn với Nguyễn Xuân Ôn, là: “Quân gần, Đà Nẵng sẽ xây dựng một chiến lược
gia ngồi nai nịt/ Tráng sĩ uổng căm gan/ du lịch văn chương như nước láng giềng
Nguyên nhung giá đặt trướng/ Thượng Trung Quốc đã thực hiện thành công?
tướng được lên đàn/ Vì người khá gìn giữ/
Vững vàng như Thái San” (Nguyễn Đức TÀI LIỆU THAM KHẢO
Vân - Hà Văn Đại dịch). Và với Trần Quý 1. Nguyễn Dị Cổ (2014), “Bài thơ 110 năm
Cáp, thì: “Ước chi nay có Trần Hưng Đạo/ trước của Trần Quý Cáp”, Tạp chí Văn hóa -
Lập lại Đằng giang trận thứ hai!” (Nguyễn Du lịch Đà Nẵng, số 24, Đà Nẵng, tr.82-83.
Q. Thắng dịch). 2. Nguyễn Hoàng Thân (2013), “Đôi vần thạch
Đà Nẵng xưa đã thành dĩ vãng. Muốn thi non thiêng Ngũ Hành”, Tạp chí Văn hóa -
tìm hiểu về Đà Nẵng xưa sẽ có nhiều con Du lịch Đà Nẵng, số 23, Đà Nẵng, tr.67-69.
đường tiếp cận khác nhau. Song lẽ, tiếp cận 3. Lê Hoàng Vinh (2003), Ngũ Hành Sơn -
Đà Nẵng xưa bằng văn chương sẽ đôi phần Di tích và thơ ca, Nxb Văn học, H., tr.9.
Ngày nhận bài: 14/12/2015 Biên tập xong: 15/02/2016 Duyệt đăng: 20/02/2016
83
nguon tai.lieu . vn