- Trang Chủ
- Kinh tế học
- Hiệp định TPP - cơ hội và thách thức đối với lĩnh vực thương mại dịch vụ của Việt Nam
Xem mẫu
- HIỆP ĐỊNH TPP - CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI
LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ CỦA VIỆT NAM
GS.TS. Đặng Đình Đào
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
TS. Phạm Nguyên Minh
Viện Nghiên cứu Thương mại
ThS. Huỳnh Minh Trí
Học viện HCQG cơ sở miền Trung
Tóm tắt
Trong quá trình hội nhập và phát triển, Việt Nam đã và đang tham gia một
cách tích cực vào các tiến trình hội nhập quốc tế thông qua các hiệp định đối tác
kinh tế với các nước trong khu vực. Đối với TPP, sau 5 năm đàm phán, ngày
05/10/2015 đã trở thành thời khắc lịch sử, 12 nước vành đai Thái Bình Dương1
đã tuyên bố chính thức hoàn tất đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP). TPP khi được ký kết là khu vực thương mại tự do lớn nhất với 800
triệu dân, tổng GDP lên tới 28.000 tỷ USD, chiếm 30% kim ngạch thương mại
toàn cầu và gần 40% sản lượng kinh tế thế giới. TPP được kỳ vọng đem lại nhiều
cơ hội lớn cho Việt Nam, tuy nhiên cũng sẽ mang đến không ít thách thức đối với
nền kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại dịch vụ của Việt Nam.
1. Khái quát về Hiệp định TPP
Hiệp định TPP là Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương được
khởi nguồn từ Hiệp định đối tác kinh tế chặt chẽ hơn do nguyên thủ các nước
Chilê, New Zenland và Singapore phát động đàm phán nhân hội nghị cấp cao
APEC - 2002 tổ chức tại Mexico. Đây là hiệp định mang tính “mở” được kỳ vọng
sẽ trở thành một khuôn khổ thương mại toàn diện, có chất lượng cao và là khuôn
mẫu cho các hiệp định thế kỷ XXI. TPP bao gồm 30 chương, đề cập đến thương
mại và các vấn đề liên quan, từ thương mại hàng hóa, hải quan, thuận lợi thương
mại, các biện pháp vệ sinh dịch tễ, hàng rào kỹ thuật; đầu tư, dịch vụ, thương mại
1
Gồm Ốt – trây – lia, Brunây, Canada, Chilê, Nhật Bản, Malaisia, Mêhicô, Niudilân, Pêru, Singapo,
Hoa Kỳ và Việt Nam
515
- điện tử, mua sắm chính phủ, sở hữu trí tuệ, lao động và môi trường… Những vấn
đề này giúp TPP đáp ứng yêu cầu phát triển, khả năng cạnh tranh, giải quyết tranh
chấp và các quy định về thể chế. TPP là một hiệp định toàn diện, chất lượng cao
trên cơ sở cân bằng lợi ích và lưu ý tới trình độ phát triển khác nhau giữa các
nước tham gia Hiệp định, đồng thời kỳ vọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tất
cả các nước TPP, tạo việc làm, giảm nghèo và nâng cao mức sống của người dân,
nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh, thúc đẩy sáng tạo và minh bạch
hóa… Với phạm vi rộng và mức độ cam kết sâu, TPP là một hiệp định có những
đặc điểm cần chú ý sau:
(1) Tiếp cận thị trường một cách toàn diện thông qua việc cắt giảm thuế quan
và các hàng rào phi thuế quan về căn bản đối với tất cả các thương mại hàng hóa và
dịch vụ. Điều chỉnh toàn bộ các lĩnh vực về thương mại và đầu tư nhằm tạo ra các cơ
hội và lợi ích cho doanh nghiệp và người lao động, người tiêu dùng của các nước
thành viên; (2) Tiếp cận mang tính khu vực trong việc đưa ra các cam kết hội nhập
nhằm tạo thuận lợi cho việc phát triển sản xuất và dây chuyền cung ứng của các
nước trong khu vực; (3) Giải quyết các thách thức đối với thương mại thông qua việc
thúc đẩy đổi mới, năng suất và tính cạnh tranh; (4) Hiệp định TPP bao gồm các yếu
tố mới được đưa vào để đảm bảo rằng các nền kinh tế ở tất cả các cấp độ phát triển
và doanh nghiệp thuộc mọi quy mô đều có thể hưởng lợi từ thương mại; (5) Là nền
tảng cho hội nhập khu vực và được xây dựng để bao hàm cả những nền kinh tế khác
xuyên khu vực châu Á - Thái Bình Dương). Với Hiệp định như vậy, TPP sẽ đem lại
nhiều cơ hội lớn cho Thương mại dịch vụ Việt Nam nhưng đồng thời cũng sẽ mang
đến không ít thách thức, khó khăn.
2. Những cơ hội và thuận lợi đối với thương mại dịch vụ Việt Nam
Hiệp định TPP bao gồm các quy định và cam kết thương mại truyền thống và
phi truyền thống, ở đây các nội dung về thương mại truyền thống như mở cửa thị
trường hàng hóa, xuất nhập khẩu, thuế quan, phi thuế quan và các biện pháp tại biên
giới vẫn tiếp tục duy trì và thực hiện tự do hóa ở cấp độ sâu rộng hơn. Các nội dung
thương mại phi truyền thống trực tiếp gắn với hoạt động kinh doanh đầu tư, đất đai,
môi trường, khoa học công nghệ, sở hữu trí tuệ… cũng sẽ được Hiệp định điều
chỉnh. Tham gia vào TPP, thương mại dịch vụ Việt Nam có nhiều cơ hội và thuận lợi
cơ bản đó là:
- Mở rộng thị trường xuất khẩu, nhất là thị trường xuất nhập khẩu hàng nông
sản. Khi thuế nhập khẩu nhiều loại hàng hóa sẽ được giảm xuống 0%, sẽ là cú
huých cho xuất khẩu, tác động tích cực đến thu nhập của người dân, cải thiện sức
516
- cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu, nâng kim ngạch xuất khẩu. Thương mại Việt
Nam sẽ tiếp cận sâu hơn vào hai thị trường, hai nền kinh tế lớn nhất thế giới là
Hoa Kỳ và Nhật Bản. Năm 2014 xuất khẩu của Việt Nam vào các thành viên TPP
đạt 58,41 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 39% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam. Trong quan hệ thương mại với các nước TPP, Việt Nam ở vị thế xuất siêu
khá lớn, xuất siêu tới 7/11 thị trường của TPP (khoảng 24,12 tỷ USD năm 2014
và 11,23 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm 2015). Theo tính toán của các chuyên gia
kinh tế, TPP sẽ giúp kim ngạch xuất khẩu may mặc và giày dép của Việt Nam đạt
16,5 tỷ USD trước năm 2025, xuất khẩu và GDP có thể tăng thêm tương ứng 68 tỷ
USD và 36 tỷ USD hay 28,4% và 10,5% vào năm 2025 so với trường hợp nếu không
tham gia TPP. Năm 2014 xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ đạt gần 30 tỷ USD, lần
đầu tiên đứng đầu ASEAN về xuất khẩu vào thị trường này. Thị trường Hoa Kỳ chiếm
tới 55% thị phần toàn ngành dệt may, khi TPP có hiệu lực mức thuế suất hàng dệt may
từ Việt Nam sang thị trường này có thể giảm xuống 0% thay vì 17% (tháng 4/2015).
- Tham gia TPP sẽ giúp thương mại dịch vụ Việt Nam hội nhập sâu hơn vào thị
trường dịch vụ tài chính thế giới. Các luồng vốn đầu tư quốc tế vào Việt Nam sẽ tăng
mạnh, tạo thuận lợi cho hệ thống ngân hàng tăng tính thanh khoản và tiếp cận các
nguồn vốn quốc tế với chi phí thấp hơn. Tính đến nay, đầu tư trực tiếp của các nước
TPP vào Việt Nam đạt hơn 100 tỷ USD, vốn đăng ký của những dự án còn hiệu lực
chiếm gần 40% tổng lượng FDI của Việt Nam. Vốn đầu tư từ các nước thành viên
TPP có trình độ phát triển cao sẽ là cơ hội mang lại lợi ích lan tỏa về công nghệ và
kỹ năng quản lý hay các dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Gia nhập TPP sẽ mở ra cơ
hội thu hút đầu tư, hợp tác với các nước nhằm đầu tư, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng
thương mại, logicstics, giảm chi phí và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ.
- Tham gia TPP giúp thương mại dịch vụ Việt Nam có được các cơ hội mới
từ chuỗi cung ứng mới hình thành sau khi TPP có hiệu lực. Các nước TPP chiếm
tới 40% GDP và 30% thương mại toàn cầu lại bao gồm các thị trường lớn như
Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada…(Bảng 1) chắc chắn sẽ mở ra nhiều cơ hội khi chuỗi
cung ứng mới hình thành. Hiện nay nhiều tập đoàn lớn trên thế giới như
Samsung, Intel, Microsoft, LG… đã đầu tư mạnh vào Việt Nam, khi tham gia
TPP sẽ giúp xu hướng này phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn, là cơ hội lớn để
nâng tầm nền kinh tế thương mại nước ta trong 5 - 10 năm tới.
517
- Bảng 1. Các chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu của 12 nước TPP năm 2012
GDP/người
Dân số GDP Tốc độ
(Theo sức Xuất Xuất
(tr.người (tr.USD) tăng
STT Nước mua tương khẩu khẩu/người
- 2013) Theo giá trưởng
đương) (tỷ.USD) (USD)
hiện hành GDP (%)
USD
1 Australia 23,1 1,532.408 3,41 43.818 325,80 14.338,3
2 Mỹ 316,2 16.244.600 2,78 51.749 2.195,90 6.995,2
3 Canada 35,3 1.779.635 1,71 41.298 541,30 15.575,1
4 Sigapore 5,4 276.520 1,32 72.724 554,86 104.445,9
5 Nhật Bản 127,3 5.961.066 1,96 35.618 873,96 68.501,3
6 Brunây 0,4 16.954 2,15 72.323 13,79 33.462,8
7 Chilê 17,6 269.869 5,56 21.468 92,33 5.286,5
8 Mexico 117,6 1.178.126 3,78 16.426 387,31 3.204,9
9 Malaisia 29,8 30.5033 5,64 22280 265,79 9.090,1
10 Rêru 30,5 203.790 6,33 11.805 52,26 1.742,7
11 Việt Nam 89,7 171.193 5.25 4.998 124,15 1.398,5
12 Niudilân 4,5 171,281 3,2 32.926 49,04 11.063,7
Nguồn: Niên giám Thống kê 2013, NXB Thống kê tháng 7 năm 2014
- Các doanh nghiệp thương mại dịch vụ và logicstics của nước ta có nhiều
cơ hội tiếp cận thị trường của các nước tham gia TPP hơn. Tuy khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp Việt Nam ở thị trường nước ngoài còn thấp nhưng
thực tế đã có một số doanh nghiệp của nước ta cũng có điều kiện vươn ra một số
thị trường TPP như: Tập đoàn Viettel, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã đầu tư tại
Peru qua đó lan tỏa ra các thị trường khu vực.
- Cơ hội cơ cấu lại thị trường xuất khẩu theo hướng cân bằng hơn, bền vững
hơn. Vì hiện nay, thị trường xuất khẩu chủ yếu vẫn là khu vực Châu Á, hiện Việt
Nam đang dựa quá nhiều vào các thị trường châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc
và một số nước ASEAN. Cơ cấu thị trường trong 10 tháng đầu năm 2015, tổng trị
giá trao đổi hàng hóa của Việt Nam với Châu Á đạt 176,27 tỷ USD, tăng 10% so
với cùng kỳ năm 2014 và là Châu lục chiếm tỷ trọng cao nhất, 64,7% trong tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. Cơ cấu lại thị trường là yếu tố then chốt
518
- giúp thương mại Việt Nam phát triển thị trường xuất nhập khẩu cân bằng, nâng
cao tính độc lập tự chủ trong nền kinh tế thương mại.
- Cơ hội để hoàn thiện và tăng cường công tác bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ,
sẽ mở ra cơ hội thu hút đầu tư vào những lĩnh vực có hàm lượng tri thức cao,
đồng thời tạo điều kiện cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp. TPP với tiêu
chuẩn cao về quản trị minh bạch và hành xử khách quan của bộ máy quản lý nhà
nước, hoàn thiện bộ máy theo hướng tinh gọn, trong sạch, vững mạnh; đẩy mạnh
cải cách hành chính. Tham gia TPP, các doanh nghiệp Nhà nước sẽ không còn
được hưởng các ưu đãi hay đặc quyền về điều kiện tiếp cận vốn và quyền được
bảo hộ. Điều này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển, cạnh
tranh bình đẳng, đồng thời tạo sức ép thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước chủ động
nâng cao năng lực cạnh tranh. Việc gia nhập TPP sẽ giúp thương mại dịch vụ
Việt Nam giao dịch thương mại tự do hơn, giảm sự tham gia của nhà nước trong
nền kinh tế, giúp nền kinh tế vận hành theo đúng quy tắc của thị trường.
- Quy tắc xuất xứ là một trong những yêu cầu quan trọng của TPP. Quy tắc
xuất xứ nội khối tạo nên sức ép, đồng thời mở ra cơ hội tăng cường thu hút FDI,
là cơ hội tốt cho Việt Nam phát triển công nghiệp hỗ trợ, đẩy mạnh sản xuất hàng
hóa từ nguyên liệu trong nước hoặc nguyên liệu nhập khẩu từ các nước thành
viên TPP. Các sản phẩm xuất khẩu từ một thành viên của TPP sang các thành
viên khác đều phải có xuất xứ “nội khối”. Như vậy, những ngành nào, sản phẩm
nào sử dụng các nguyên liệu của nước thứ ba ngoài thành viên TPP đều không
được hưởng các ưu đãi thuế suất. Năm 2014, nhập khẩu nguyên liệu cho ngành
may mặc và da giày của Việt Nam là 4,69 tỷ USD, trong đó nhập khẩu từ Trung
Quốc 32,9%, Hàn Quốc 16,97%; EU 5,8%. Ba đối tác trong TPP là Nhật Bản,
Hoa Kỳ và Australia chỉ chiếm tỷ lệ khiêm tốn tương ứng là 4,76%; 5,59% và
0,87%. Trong 10 tháng năm 2015, Việt Nam nhập khẩu mặt hàng này chủ yếu từ
Trung Quốc với 6,3 tỷ USD, tăng 12,7%; tiếp theo Hàn Quốc 2,32 tỷ USD, giảm
1,5%; Đài Loan 1,98%, tăng 4,1%... so với cùng kỳ năm trước. Nếu tình trạng
này không được cải thiện, hàng xuất khẩu của Việt Nam vào các đối tác TPP sẽ
không được hưởng ưu đãi thuế quan 0%, trước hết là hàng may mặc và da giày.
Điều này sẽ làm bất lợi cho Việt Nam.
3. Một số khó khăn, thách thức đối với thương mại dịch vụ và
giải pháp
- Mặc dù quan hệ trao đổi thương mại đến nay của Việt Nam lên tới 240
quốc gia, vùng lãnh thổ, Việt Nam có 3 thị trường xuất khẩu có trên 10 tỷ USD là
519
- Hoa Kỳ, Nhật Bản và Trung Quốc, kim ngạch xuất khẩu năm 2015 dự kiến đạt
165,0 tỷ USD nhưng hoạt động xuất khẩu quy mô và hiệu quả còn hạn chế (Hình
1), kim ngạch xuất khẩu chủ yếu từ hàng có công nghệ thấp, hầu hết là hàng gia
công, các mặt hàng dệt may, giày dép. Tuy tỷ trọng hàng chế biến hoặc tinh chế
đã có những cải thiện đáng kể như điện thoại và linh kiện, máy tính, sản phẩm
điện tử có nâng lên nhưng vẫn là gia công lắp ráp, giá trị mang lại cho Việt Nam
còn thấp. Mặt khác nhập khẩu thiết bị máy móc, công nghệ nguồn từ thị trường
của các nước có nền kinh tế phát triển như Hoa Kỳ, Nhật, Canada lại còn hạn chế.
Hình 1. So sánh GDP và xuất khẩu tính trên đầu người của Việt Nam
so với các nước TPP năm 2012
Nguồn: Niên giám Thống kê 2013, NXB Thống kê tháng 7 năm 2014
- Hệ thống Logistics quốc gia từ thể chế pháp luật Logistics, cơ sở hạ tầng
Logistics, doanh nghiệp Logistics và doanh nghiệp sử dụng dịch vụ chưa được
hình thành và phát triển, trong khi các thành viên TPP như Hoa Kỳ, Nhật Bản,
Canada, Singapo… có một hệ thống Logistics phát triển ở trình độ cao và đang
bước vào thời kỳ phát triển hệ thống Logistics xanh. Đây là trở ngại cho sự phát
triển thương mại dịch vụ, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam
trên cả thị trường trong nước, quốc tế, đặc biệt là khó khăn cho thương mại dịch
vụ trong hội nhập thị trường TPP.
- Quy mô doanh nghiệp thương mại, logicstics nhỏ, năng lực cạnh tranh
thấp, không thâm nhập được vào hệ thống phân phối và chuỗi cung ứng toàn cầu,
khiến các doanh nghiệp Việt Nam thường yếu thế và thua thiệt so với các doanh
520
- nghiệp nước ngoài, hoạt động thương mại và xuất khẩu thiếu bền vững, không chi
phối được thị trường. Tham gia TPP tạo ra sức ép về mở cửa thị trường, cạnh
tranh đối với các doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam. Nếu không có sự chuẩn bị tốt
ngay từ bây giờ nguy cơ thua ngay trên sân nhà là điều rất có thể.
- Cơ sở hạ tầng thương mại và hạ tầng logistics nói chung tuy đã được tăng
cường trong những năm đổi mới, nhưng do phần lớn là theo quy hoạch, kế hoạch
đầu tư, xây dựng của từng ngành riêng lẻ, thiếu tính kết nối toàn cục để vận hành,
khai thác hiệu quả. Điều này là do cơ sở hạ tầng logistics chưa được quan tâm đầu
tư xây dựng từ doanh nghiệp, ngành, địa phương đến nền kinh tế quốc dân, ngay
cả khi quy hoạch xây dựng và nâng cấp các tuyến quốc lộ 1A, đường Hồ Chí
Minh, các tuyến cao cấp như Hà Nội - Lào Cai, Hà Nội - Hải Phòng … đã không
hề tính đến các cơ sở hạ tầng logistics (các Trung tâm Logistics)! Có thể nói, cơ
sở hạ tầng logistics Việt Nam chưa đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh doanh thương
mại, dịch vụ, nhất là trong điều kiện đi vào triển khai TPP. Điều này làm ảnh
hưởng không những tới phân phối, lưu thông sản phẩm, hiệu quả kinh doanh mà
còn ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên các
thị trường.
- Đội ngũ cán bộ quản lý thương mại dịch vụ và quản trị kinh doanh ở các
doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân lực
logistics. Thực tiễn công tác đào tạo nguồn nhân lực và tổ chức công tác nghiên
cứu khoa học thương mại, Logistics cả trên phương diện lý luận và tổng kết thực
tiễn còn hạn chế; chưa có sự điều tra, đánh giá toàn diện đội ngũ lao động chuyên
nghiệp trong thương mại dịch vụ; thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
chức năng của ngành và các cơ sở đào tạo; cơ quan nghiên cứu, các tạp chí ngành
chưa quan tâm đúng mức những vấn đề trao đổi và nghiên cứu lý luận cho ngành,
định hướng các vấn đề nghiên cứu cơ bản và triển khai trong lĩnh vực thương
mại, dịch vụ.
-Về hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam, đến nay vẫn là các mặt hàng
truyền thống, chủ yếu gia công, vẫn nguyên liệu, khoáng sản, xuất siêu chủ yếu từ
các doanh nghiệp FDI, còn nhiều vấn đề nẩy sinh từ chuỗi cung ứng sản phẩm ở
cả khâu sản xuất, phân phối và lưu thông hàng hóa, đến các yếu tố cơ sở hạ tầng
“phần cứng”, “phần mềm”, dịch vụ Logistics… còn nhiều khó khăn hơn. Đây là
những ắch tắc trong tiêu thụ sản phẩm, xuất khẩu hàng hóa của nhiều năm qua và
những năm tới mà Việt Nam cần phải có biện pháp tích cực, hiệu quả để vượt qua
khi tham gia TPP.
521
- - Tham gia TPP sẽ gặp phải thách thức về cạnh tranh. Sức ép cạnh tranh tăng
lên có thể làm cho không ít doanh nghiệp trước hết là doanh nghiệp nhà nước, doanh
nghiệp có công nghệ lạc hậu, làm ăn không theo quy tắc thị trường rơi vào tình trạng
khó khăn, kéo theo đó là nguy cơ phá sản, thất nghiệp trong một bộ phận lao động sẽ
xảy ra. Giảm thuế quan tất yếu khiến luồng hàng nhập khẩu từ các nước TPP vào
Việt Nam gia tăng với giá cả cạnh tranh, chất lượng cao và đảm bảo an toàn thực
phẩm. Hệ quả rõ ràng là thị phần hàng hóa của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng, thu hẹp,
đặc biệt là thị trường các sản phẩm nông nghiệp đứng trước sự cạnh tranh gay gắt.
- Các nước tham gia TPP có xu hướng bảo hộ đối với thị trường nội địa bằng
hàng rào phi thuế quan sẽ trở nên phổ biến, với yêu cầu ngày càng cao hơn về chất
lượng và an toàn sản phẩm trong khi đây là điểm yếu của hàng hóa Việt Nam, đặc
biệt là hàng nông sản, thêm vào đó là nạn hàng giả, kém chất lượng và gian lận
thương mại đang tràn lan trên thị trường, dường như ngoài tầm kiểm soát?… Nếu
Việt Nam rào cản kỹ thuật chưa có hoặc yếu kém như hiện nay, các biện pháp về an
toàn vệ sinh thực phẩm không hiệu quả sẽ khiến thị trường Việt Nam trở thành thị
trường tiêu thụ các sản phẩm chất lượng thấp, vừa ảnh hưởng tới sức khỏe người tiêu
dùng, vừa lại không bảo vệ được sản xuất trong nước
***
TPP là một hiệp định toàn diện, chất lượng cao trên cơ sở cân bằng lợi ích và
tính tới trình độ phát triển khác nhau giữa các nước tham gia hiệp định. Đối với Việt
Nam, việc tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa vào các thị trường rộng lớn như
Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada sẽ đem lại nhiều cơ hội cho xuất khẩu của Việt Nam,
phát triển các hoạt động dịch vụ... Cùng với lợi ích mà TPP có thể đem lại, Việt Nam
phải đối diện với không ít thách thức. Do đó TPP cũng là cơ hội để thương mại Việt
Nam phát triển, thúc đẩy quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế. Để tận
dụng được những cơ hội và vượt qua những thách thức từ TPP, rõ ràng là cần triển
khai đồng bộ nhiều giải pháp, có những hành động cụ thể ngay từ bây giờ, từ chính
người dân, cộng đồng doanh nghiệp, các ngành đến các cơ quan quản lý nhà nước
các cấp.
- Trước hết cần tuyên truyền, phổ biến rộng rãi về TPP và cung cấp thông tin
đầy đủ cho DN và mọi người dân trong việc tiếp cận được những cơ hội của thị
trường mới mà trong đó những thông tin mang tính đặc thù liên quan đến tập quán,
văn hóa, những yếu tố thị trường và cả những thông tin về chính sách vĩ mô, cần có
cơ chế thông tin xuyên suốt, vận dụng một cách linh hoạt và nhanh nhạy để bảo đảm
cho khả năng tiếp cận thị trường của DN là rất cần thiết.
522
- - Cần đầu tư xây dựng hệ thống Logistics, xây dựng chính sách phát triển
các ngành mà Việt Nam dự kiến sẽ có tiềm năng và lợi thế trong khối TPP, đặc
biệt là các ngành dịch vụ cơ sở hạ tầng… và tạo điều kiện cho doanh nghiệp tham
gia vào các chuỗi cung ứng trong khu vực.
- Cần có sự phối hợp giữa Nhà nước với DN để giải quyết khâu khó khăn,
trở ngại liên quan các hàng rào phi thuế quan và đặc biệt giúp DN tiếp cận thị
trường bền vững, tránh được những tranh chấp thương mại, những vụ kiện
thương mại.
- Cần triển khai các hoạt động nghiên cứu, đánh giá tác động của TPP đối
với các lĩnh vực thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ… để có cơ sở xây
dựng và điều chỉnh chính sách dài hạn cho các ngành và doanh nghiệp; nhằm mở
rộng sản xuất và xuất khẩu, đồng thời giảm thiểu tác động tiêu cực từ mở cửa thị
trường và sức ép của hàng nhập khẩu, các cơ quan nhà nước, các DN và cả người
tiêu dùng cần phối hợp chặt chẽ ngay từ bây giờ
- Doanh nghiệp cần tận dụng cơ hội hợp tác với các doanh nghiệp nước
ngoài nhằm tranh thủ lợi thế về vốn, nhân lực và kỹ thuật của các đối tác, đồng
thời bám sát lộ trình và các quy định về mở cửa thị trường của Hiệp định TPP
nhằm xây dựng kế hoạch đầu tư, sản xuất hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh,
tận dụng được cơ hội tham gia chuỗi cung ứng trong khu vực; tránh tư tưởng làm
ăn chụp giựt mang tính thời vụ và chỉ biết dựa vào kinh tế tài nguyên, lao động
giá rẻ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiệp định TPP
2. Báo cáo của Chính phủ: Tình hình kinh tế - xã hội năm 2015 và dự kiến
kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2016. Số 526/BC-CP. Ngày
17/10/2015
3. Niêm giám Thống kê 2013, NXB Thống kê tháng 7 năm 2014
4. Cổng thông tin điện tử Bộ Công Thương, Bộ Tài Chính, 2015
523
nguon tai.lieu . vn