- Trang Chủ
- Kinh tế học
- Hiệp định CPTPP cơ hội và thách thức đối với năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại Việt Nam
Xem mẫu
- Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
HIỆP ĐỊNH CPTPP CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
TS. Trần Thị Thanh Xuân
Trường Đại học Công Nghệ GTVT- Cơ sở Đào tạo Thái Nguyên
xuanttt@utt.edu.vn
TÓM TẮT
Ngày 12/11/2018, tại kỳ họp thứ 6 khoá XIV, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết 72/2018/QH14 về phê
chuẩn Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP - Comprehensive and
Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership - CPTPP). Mục tiêu nghiên cứu này là nghiên cứu
Hiệp định CPTPP cơ hội và thách thức đối với năng lực cạnh tranh của các NHTM thông qua năng lực quản
trị hạn chế như hiện nay, các NHTM Việt Nam đang phải đối mặt với những rủi ro lớn, gây ảnh hưởng lớn
đến nền kinh tế. Từ thực tế này đòi hỏi bản thân mỗi ngân hàng phải không ngừng nâng cao năng lực quản
trị để cạnh tranh không chỉ với ngân hàng trong nước mà còn cạnh tranh với các tổ chức tín dụng quốc tế.
Từ khóa: CPTPP, năng lực cạnh tranh, NHTM Việt Nam với hiệp định CPTPP
1. Đặt vấn đề
Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) được đánh giá là một hiệp
định theo mô hình FTA thế hệ mới, không chỉ tập trung đẩy mạnh tự do hóa trong lĩnh vực thương mại hàng
hóa nói chung mà còn đẩy mạnh trong lĩnh vực đầu tư tài chính trong đó có ngành tài chính ngân hàng. Với
11 nước thành viên, quy mô trên 500 triệu dân, chiếm 13,5%GDP toàn cầu với tổng kim ngạch thương mại
vượt 10.000tyr USD tương đương 15,2% thương mại toàn cầu. CPTPP kỳ vọng là FTA mang lại nhiều lợi
ích nhất cho các nước thành viên. Ngành ngân hàng Việt Nam vốn là một trung gian tín dụng đóng vai trò rất
quan trọng trong việc kết nối mọi hoạt động của nền kinh tế, là tiền đề phát triển kinh tế xã hội, sẽ gặp phải
rất nhiều thách thức và áp lực đến từ các quốc gia thành viên Mục tiêu nghiên cứu này nghiên cứu hệ thống
các ngân hàng thương mại Việt Nam hoạt động trong bối cảnh Hiệp định CPTPP chính thức có hiệu lực, để
thấy được cơ hội và thách thức đối với năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam thông
qua năng lực quản trị như hiện nay, các ngân hàng thương mại Việt Nam đang phải đối mặt với những cơ hội
và thách thức gì của nền kinh tế. Từ thực tế này đòi hỏi bản thân mỗi ngân hàng phải không ngừng nâng cao
năng lực quản trị để cạnh tranh không chỉ với ngân hàng trong nước mà còn cạnh tranh với các tổ chức tín
dụng quốc tế. Bài viết này sử dụng công cụ SWOT để phân tích nội lực và các điều kiện môi trường cũng
như điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của các Ngân hàng thương mại, từ đó đưa ra các giải pháp
hoạt động trong điều kiện mới.
2. Tổng quan về CPTPP
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của các ngân hàng thương mại.
Sự phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam có thể được đánh dấu từ sự ra đời của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam (NHNN) vào ngày 06/05/1951. Tuy nhiên các NHTM ở Việt Nam lại có một lịch sử hình
thành mới mẻ cách đây gần 30 năm, cụ thể là vào tháng 5/1990 khi hai sắc lệnh quan trọng được ban hành:
Sắc lệnh về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Sắc lệnh về ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và các công ty tài
chính. Quy định này thực sự đưa Việt Nam từ một nước có hệ thống ngân hàng độc nhất sang hệ thống ngân
hàng hai cấp mà ở đó chức năng của ngân hàng nhà nước được thu hẹp lại, chỉ còn giám sát chính sách tiền
tệ, phát hành tiền, quản lý hệ thống tín dụng, giám sát các NHTM, quản lý dự trữ ngoại hối với mục tiêu
95
- Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
hàng đầu là bình ổn tiền tệ và kiểm soát lạm phát, trong khi chức năng trung gian tài chính (huy động và
phân bổ vốn) được chuyển sang cho các NHTM.
Tính đến 31/12/2018, Việt Nam có 31 NHTMCP với nhóm chín ngân hàng dẫn đầu có tổng tài sản
trên 300 nghìn tỷ VND. Tổng vốn điều lệ của các NHTMCP ở Việt Nam đạt trên 340.353 tỷ VND. Thời gian
qua, các ngân hàng luôn khẳng định vai trò là công cụ hữu hiệu của Đảng và Nhà nước trong việc phục vụ
phát triển và ổn định kinh tế vĩ mô. Bên cạnh đó không ngừng mở rộng khẳng định vị thế và uy tín trong
quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế. Cụ thể đã và đang triển khai 12 chương trình tín dụng chính sách, cung ứng
trên 200 sản phẩm dịch vụ ngân hàng tiện ích, có đóng góp rất tích cực phát triển thị trường thanh toán
không dùng tiền mặt.
2.2. Quan niệm về năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại tại Việt nam
Khi khoa học công nghệ phát triển, sản phẩm ra đời ngày càng phong phú đa dạng, tạo thuận lợi cho
sự lựa chọn của người tiêu dùng và đặt ngân hàng trước áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt. Vì thế, việc
nâng cao chất lượng dịch vụ hàm ý phải thỏa mãn cao nhất những yêu cầu đòi hỏi từ phía khách hàng. Theo
quan niệm của khách hàng, một dịch vụ ngân hàng có chất lượng phải đáp ứng được tốt nhất, nhiều nhất nhu
cầu mong muốn của khách hàng, đem lại cho khách hàng một tập hợp tiện ích và lợi ích. Do vậy, khi đánh
giá một sản phẩm ngân hàng có chất lượng, khách hàng thường dựa vào các tiêu chí sau: Mức độ tham gia
của khách hàng vào quá trình cung ứng sản phẩm dịch vụ ít và đơn giản, tốc độ xử lý giao dịch nhanh, mức
độ chính xác cao, hiệu quả mang lại cho khách hàng lớn, thái độ phục vụ tốt, trình độ công nghệ hiện đại.
Tác động của Hiệp định CPTPP cùng với tầm quan trọng và đặc điểm của ngành ngân hàng trong tiến
trình phát triển kinh tế quốc tế, để có thể tận dụng tối đa các cơ hội, hạn chế thách thức, việc nâng cao năng
lực cạnh tranh của các NHTM hiện nay là vấn đề tất yếu khách quan. Hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng
đồng nghĩa với việc từng bước thực hiện tự do hóa và mở rộng thị trường ngân hàng theo các cam kết quốc
tế. Điều này đã và đang tạo ra cho các NHTM Việt Nam những cơ hội để phát triển nhưng cũng đặt ra không
ít những thách thức khó khăn phải vượt qua.
2.3. Một số cam kết trong lĩnh vực tài chính – Ngân hàng của CPTPP
CPTPP là một dạng FTA thế hệ mới, tiêu chuẩn cao, do có mức độ cam kết tự do hóa cao nhất, với
phạm vi bao trùm nhiều lĩnh vực nhất, tập trung đẩy mạnh tự do hóa không chỉ trong lĩnh vực thương mại
hàng hóa mà còn cả đối với dịch vụ đầu tư, trong đó có ngành dịch vụ tài chính ngân hàng. Nội dung cam kết
về dịch vụ nằm trong chương thứ 11 trong tổng số 30 chương của Hiệp định. Trong đó hiệp định CPTPP đưa
ra các qui định cốt lõi như: Đối xử quốc gia, Đối xử tối huệ quốc; Tiếp cận thị trường và một vài quy định cụ
thể về việc cung cấp dịch vụ tài chính, một nhà cung cấp dịch vụ của một nước CPTPP có thể cung cấp dịch
vụ tài chính tại thị trường của nước tham gia CPTPP khác, nếu các công ty trong nước hoạt động tại thị
trường này được phép cung cấp dịch vụ đó.
Các nước thành viên của CPTPP phải ban hành quy định trường hợp ngoại lệ đối với một số quy tắc
trong phụ lục đính kèm CPTPP và phù hợp với điều kiện của từng nước gồm: Các biện pháp hiện hành quy
định, bên tham gia phỉ có nghĩa vụ không áp đặt thêm bất kỳ biện pháp chế tài nào khác trong tương lai cũng
như tuân thủ thỏa thuận tự do hóa trong các hoạt động sau này; Các biện pháp và chính sách qui định bên
tham gia có đầy đủ quyền tự quyết trong tương lai.
Các nước tham gia CPTPP cũng đặt ra các nguyên tác công nhận chính thức tầm quan trọng của các
quy trình thủ tục pháp lý nhằm khuyến khích việc cung cấp các dịch vụ bảo hiểm của các nhà cung cấp được
cấp phép vè các quy trình để đạt được mục tiêu này. Ngoài ra, CPTPP cũng đề cập đến các cam kết cụ thể về
quản lý danh mục đầu tư, các dịch vụ thẻ thanh toán điện tử và chuyển giao thông tin để phục vụ mục đích
xử lý dữ liệu.
Điểm khác biệt CPTPP so với FTA là việc nhấn mạnh khả năng quản lý đối với các tổ chức và thị
trường tài chính, các biện pháp khẩn cấp trong trường hợp khủng hoảng, các biện pháp thúc đẩy sự ổn định
tài chính và sự vẹn taonf của hệ thống tài chính bao gồm các ngoại lệ thận trọng và các biện pháp không
96
- Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
phân biệt đối xử nhằm theo đuổi các chính sách tiền tệ (CSTT) hoặc các chính sách cụ thể khác. Như vậy,
đối với lĩnh vực dịch vụ tài chính CPTPP, mực dù yêu cầu cung cấp nhiều cơ hội tiếp cận thị trường và đầu
tư qua biên giới nhưng vẫn đảm bảo rằng, các nước trong CPTPP có đủ năng lực điều hành thị trường và các
tổ chức tài chính cũng như thực hiện các biện pháp khẩn cấp trong trường hợp khủng hoảng.
2.4. Ứng dụng của mô hình SWOT trong phân tích hoạt động của NHTM.
Mô hình phân tích SWOT là một công cụ rất hữu dụng cho việc nắm bắt và ra các quyết định trong
mọi tình huống đối với bất cứ tổ chức kinh doanh nào (Humprey, 2005). SWOT cung cấp một công cụ phân
tích chiến lược, rà soát các đánh giá vị trí định hướng của một ngân hàng. Phương pháp phân tích SWOT
cùng với ứng dụng của nó để phân tích năng lực cạnh tranh của ngân hàng bao gồm 2 nội dung cụ thể như
sau:
Một là: Phân tích hiện trạng của các ngân hàng thương mại và dự đoán các điều kiện hoạt động
trong thương lai thông qua 4 bước:
Bước 1: Trả lời cụ thể từng câu hỏi liên quan đến hình ảnh hoạt động của các ngân hàng thương mại
(NHTM), phạm vi hoạt động của nó, xác định về phía khách hàng và những đồi hỏi của họ, đồng thời là các
định hướng của lãnh đạo ngân hàng.
Bước 2: Nhận biết ngoại cảnh của ngân hàng đó là ngoại cảnh vĩ mô, ngoại cảnh cạnh tranh đồng thời
đánh giá các cơ hội và thách thức.
Bước 3: Sắp xếp các phân tích tình trạng của các ngân hàng và dự báo tương lai về cơ hội và nguy cơ
diễn ra ở ngoại cảnh.
Bước 4: Xác định điểm mạnh-yếu của các ngân hàng và tập trung vào các tiềm lực bên trong của các
ngân hàng.
Hai là: Thiết kế chiến lược cho 4 nhóm tình huống thông qua 3 bước
Bước 5: Soạn thảo các phương án chiến lược cho các ngân hàng
Bước 6: Xác định các hành động và chiến thuật cần phải thực hiện để đạt được mục tiêu chiến lược.
Phân tích một lần nữa các bước từ 1 đến 6, tổng hợp lại để đánh giá, xác định các mối quan hệ tương tác, loại
bỏ những mâu thuẫn đối kháng.
Bước 7: Chuẩn bị kế hoạch chiến lược trên cơ sở các phân tích các mặt mạnh-yếu gắn kết với cơ hội
và thách thức diễn ra bên ngoài ngân hàng. Phần này sẽ tạo ra 4 nhóm hoạt động mẫu: Hoạt động SO –WO-
ST-WT.
Bảng 1: Đánh giá NHTM Việt Nam theo mô hình SWOT
Điểm mạnh (Strengths) Điểm yếu (Weaknesses)
W1: Huy động vốn và uy tín trên thương trường
chưa đáp ứng khả năng huy động vốn và cơ cấu
S1: Các NHTM lớn nhất về vốn tự có
nguồn vốn
S2: NHTM đóng vai trò chủ đạo, chủ lực trên thị
W2: Cơ cấu tài sản: Chưa đáp ứng tỷ trọng tài sản
trường tài chính
dùng để phản ánh phần trăm vốn được sử dụng để tài
S3: Có một hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại
trợ cho tài sản lưu động
S4: Có thế mạnh tuyệt đối về mạng lưới kênh phân
W3:Cơ cấu vốn: tổng tài sản đang có tốc độ tăng
phối
trưởng nhanh thì vốn điều lệ lại chậm hơn
S5: Kinh doanh đa năng, đa ngành và đa lĩnh vực
W4:Khả năng thanh toán: chưa được sắp xếp, quy
S6: Có một đội ngũ cán bộ đông đảo, dày dạn kinh hoạch theo hướng vừa đảm bảo hiệu quả vừa tăng
nghiệm tính cạnh tranh mà không gây lãng phí các nguồn lực
W5: Khả năng sinh lời:
97
- Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
Cơ hội (Opportunities) Thách thức (Threats)
T1: Từ Hiệp định CPTPP. Đó là cam kết về môi
trường pháp lý; cam kết về mở cửa thị trường đối với
các dịch vụ tài chính được phép cung cấp; cam kết
về thanh toán, chuyển tiền, các biện pháp bảo vệ cán
cân thanh toán và các cam kết khác có ảnh hưởng
đến quá trình điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá.
T2: Các NHTM Việt Nam hiện nay có tiềm lực tài
O1: Có cơ hội cơ cấu lại thị trường xuất nhập khẩu chính nhỏ bé, chất lượng tài sản thấp, danh mục sản
theo hướng cân bằng hơn, từ đó giúp nâng cao tính phẩm dịch vụ còn nghèo nàn, chất lượng sản phẩm
độc lập, tự chủ của nền kinh tế dịch vụ chưa cao, cơ cấu tổ chức chưa thực sự hợp lý
O2: Cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực và chưa chuyên nghiệp, trình độ quản lý điều hành
hoạch định chính sách tài chính, tiền tệ, quản lý còn thấp, công nghệ ngân hàng còn có khoảng cách
ngoại hối, thanh tra, giám sát phòng ngừa rủi ro và đáng kể so với trình độ của khu vực và thế giới
thanh toán T3: Hội nhập sẽ mang lại sự cạnh tranh gay gắt và
O3: Sự phát triển từ tiến bộ khoa học kỹ thuật khốc liệt trên thị trường ngân hàng Việt Nam
O4: Môi trường chính trị ổn định và an toàn T4: Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng các giao dịch
O5: Chính phủ tiếp tục khẳng định chủ trương cải vốn và rủi ro của hệ thống ngân hàng, trong khi cơ
cách, đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa các doanh chế quản lý chưa hoàn thiện, nhất là cơ chế thanh tra,
nghiệp nhà nước. Chính phủ đã phê duyệt Đề án giám sát, thiếu sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa
thanh toán không dùng tiền mặt. các bộ ngành liên quan sẽ là một thách thức không
nhỏ đối với các NHTM Việt Nam
T5: hội nhập đòi hỏi các NHTM Việt Nam phải có
một nguồn nhân lực không chỉ có chuyên môn cao
về nghiệp vụ ngân hàng mà còn phải am hiểu Luật
thương mại quốc tế.
T6: khả năng kiểm soát tiền tệ còn nhiều hạn chế của
NHNN Việt Nam
3. Phân tích các điểm mạnh- yếu; Cơ hội - thách thức của các ngân hàng Thương mại
3.1. Các điểm mạnh của các ngân hàng thương mại:
Sau hơn 30 năm hoạt động, các ngân hàng thương mại đã đạt được nhiều thành tựu lớn, đặc biệt về
quy mô hoạt động. Có thể tổng kết lại những điểm mạnh của các NHTM như sau:
Các NHTM lớn nhất về vốn tự có (hơn 418.224 tỷ đồng); tổng tài sản của các ngân hàng tính đến ngày
31/12 là 6.907 nghìn tỷ đồng; mạng lưới chi nhánh ngân hàng (hơn 56.500 chi nhánh và văn phòng giao
dịch khắp toàn quốc; số lượng nhân viên (gần 905.000 cán bộ); gần 250 triệu hộ gia đình và trên 750.000
doanh nghiệp, chủ yếu là các doanh nghiệp nhò và vừa, có quan hệ đại lý với hơn 900 ngân hàng tại hơn 90
quốc gia và vùng lãnh thổ. Đây là điểm mạnh và lợi thế ạnh tranh tuyệt đối của các ngân hàng thương mại.
NHTM đóng vai trò chủ đạo, chủ lực trên thị trường tài chính. Hiện tại NHTM chiếm thị phần 80% về
tồng nguồn vốn huy động của cả hệ thống ngân hàng; chiếm gần 70% tổng dư nợ cho vay, riêng trong lĩnh
vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ chiếm trên 80%.
Có một hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại cho phép các NHTM chuyển mình sang một giai đoạn
mới - thời kỳ của kinh doanh trực tuyến. Với việc hoàn thành Dự án hiện đại hóa các ngân hàng thương mại
và hệ thống thanh toán giai đoạn II. Ngân hàng đã xây dựng cho mình một ngân hàng lõi (Core Bank) hiện
đại: kết nối trực tuyến toàn bộ 56.500 ngân hàng chi nhánh tạo cho ngân hàng một ưu thế cạnh tranh tuyệt
đối.
98
- Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
Có thế mạnh tuyệt đối về mạng lưới kênh phân phối. Với việc mở ra các chi nhánh tại các khu vực đo
thị, ngân hàng thương mại đã thu hút một khối lượng tiền nhàn rỗi từ khu vực này chuyển về đầu tư trong
các thành phần kinh tế xã hội. Mạng lưới chi nhánh trải dài và rộng khắp, cho phép ngân hàng thương mại
cung cấp các sản phẩm tới mọi khách hàng đáp ứng được tối đa thỏa mãn nhu cầu khách hàng ở tất cả các
thành phần kinh tế - xã hội, ở tất cả các khu vực, vùng miền kể cả vùng sâu, vùng xa.
Kinh doanh đa năng, đa ngành và đa lĩnh vực. Ngoài hoạt động của ngân hàng là: Tài chính – Bảo
hiểm – Ngân hàng, các NHTM còn kinh doanh các lĩnh vực khác thành lập nên các công ty trực thuộc. Tất cả
đều là các công ty hàng đầu, có quy mô hoạt động lớn trong mỗi lĩnh vực. Với thế mạnh này, NHTM có thể
phát triển các sản phẩm bán chéo nhằm khai thác tối đa các nguồn lực hiện có về hệ thống mạng lưới, con
người, công nghệ và cả kinh nghiệm, chuyên môn nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ.
Có một đội ngũ cán bộ đông đảo, dày dạn kinh nghiệm. Phần lớn cán bộ của các NHTM đều có trêm
10 năm công tác và được đào tạo về chuyên ngành ngân hàng. Với việc thường xuyên kiểm tra, theo dõi và
giao tiếp với khách hàng, đội ngũ cán bộ ngân hàng nắm bắt rất chắc thông tin về thị trường, nhu cầu và thị
hiếu khách hàng, cũng như các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ảnh hưởng đến xu hướng, thói quen,
mức độ thường xuyên trong sử dụng các dịch vụ, tiện ích ngân hàng.
3.2. Các điểm yếu của các ngân hàng Thương mại
Chỉ tiêu về khả năng huy động và cơ cấu nguồn vốn: Khả năng huy động và cơ cấu nguồn vốn là một
trong những tiêu chí đánh giá năng lực hoạt động kinh doanh của các NHTM ở khía cạnh huy động vốn và
uy tín trên thương trường của một số ngân hàng chưa đáp ứng khả năng huy động vốn và cơ cấu nguồn vốn.
Huy động nguồn vốn tốt chính là khả năng chiếm lĩnh và mở rộng thị phần của các NHTM thông qua các
loại hình sản phẩm thu hút tiền gửi từ các đối tượng khách hàng. Hơn nữa, khi quy mô nguồn vốn lớn và cơ
cấu hợp lý sẽ cho phép NHTM phát triển các hoạt động kinh doanh như cho vay, đầu tư và cung cấp dịch vụ
tài chính khác. Khả năng huy động vốn được xác định bởi quy mô và tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn cùng
với thời gian.
Cơ cấu tài sản: Quy mô, cơ cấu và chất lượng tài sản quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân
hàng. Chất lượng tài sản có là chỉ tiêu tổng hợp nói lên chất lượng quản lý, khả năng thanh toán, khả năng
sinh lời và triển vọng bền vững của một ngân hàng.
Bảng 2: Tỷ trọng tài sản dài hạn của các ngân hàng thương mại Việt Nam
ĐVT: (%)
STT Ngân hàng 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
1 BIDV 4,32 4,06 4,98 5,37 5,42 6,18 7,34 2,87
2 Vietinbank 4,25 4,54 5,49 20,18 8,63 9.22 4,59 4,2
3 Vietcombank 3,39 3,09 3,01 2,93 2,75 2,06 2,55 2,21
4 SCB 4,32 4,27 4,30 4,30 11,21 14,08 16,91 15,78
5 Sacombank 10,53 9,99 8,53 8,31 9,24 8,65 8,32 8.31
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Báo cáo tài chính các ngân hàng thương mại Việt nam, 2010-2017
Tỷ trọng tài sản dùng để phản ánh phần trăm vốn được sử dụng để tài trợ cho tài sản lưu động, hay tài
sản lưu động chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng tài sản. Với các NHTM hiện đại tỷ lệ này thường phải
chiếm 30-40% tổng nguồn thu của ngân hàng. Tuy nhiên vẫn còn một số ngân hàng chưa đáp ứng Ví dụ:
Ngân hàng BIDV có tỷ trọng tài sản ngắn hạn tương đối ổn định qua 6 năm gần đây (Năm 2010: Tỷ trọng tài
sản ngắn hạn là 95,68%; năm 2011: 95,94%; năm 2012: 95,02%; năm 2013: 94,63%; năm 2014:94,58%;
99
- Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
năm 2015: 93,82%; năm 2016: 92,66% và năm 2017:97,13%). Tài sản ngắn hạn của ngân hàng bao gồm tiền
mặt, vàng bạc, đá quý, tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước, tiền gửi và cho vay các tổ chức tín dụng khác,
chứng khoán kinh doanh, cho vay khách hàng, các khoản đầu tư ngắn hạn khác. Tỷ trọng tài sản dài hạn trên
tổng tài sản được phản ánh phần trăm tài sản dài hạn trong tổng tài sản của ngân hàng.
Có thể nhận thấy trong khi bảng xếp hạng về vốn tự có đã có nhiều thay đổi, khoảng cách giữa những
ngân hàng tư nhân top đầu với các nhà băng quốc doanh về vốn điều lệ đang rút ngắn hơn thì khoảng cách về
tổng tài sản vẫn rất cách biệt. Tốc độ tăng trưởng tổng tài sản của các NHTM Nhà nước cũng nhanh hơn với
18,34% trong năm 2017, trong khi các ngân hàng cổ phần tư nhân là 16,69%. Xét trong khối các NHTM CP
thì BIDV hiện là ngân hàng có tổng tài sản lớn nhất trong hệ thống, với hơn 1,2 triệu tỷ đồng. Theo sau lần
lượt là VietinBank và Vietcombank, với tổng tài sản là 1,09 triệu tỷ đồng và 1,03 triệu tỷ đồng.
Cơ cấu vốn: Vốn là điều kiện tiên quyết để cấp phép cho một ngân hàng đi vào hoạt động, đảm bảo
khả năng tồn tại và phát triển của ngân hàng đó. Theo quy định của luật pháp, phạm vi hoạt động và kinh
doanh của một ngân hàng phụ thuộc vào quy mô của nguồn vốn tự có. Vốn tự có là cơ sở để tính toán các
giới hạn đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, vấn đề quản lý vốn của ngân hàng trở
thành một yêu cầu pháp lý vì lợi ích của công chúng.
Hiệu quả sử dụng vốn bằng tổng dư nợ cho vay/tổng vốn huy động. Đơn cử như Ngân hàng BIDV
năm 2013 huy động được 100 đồng thì cho vay tới 77 đồng. Việc duy trì tỷ lệ này ở mức cao đòi hỏi nhà
quản trị cần có những biện pháp phòng chống rủi ro tín dụng hiệu quả để đảm bảo an toàn cho ngân hàng…
Thống kê của NHNN cho biết, đến cuối năm 2017, tổng số vốn điều lệ của hệ thống các tổ chức tín dụng là
362.562 tỷ đồng. So với cuối năm 2016, vốn điều lệ của cả hệ thống đã được bơm thêm hơn 15.000 tỷ, mức
này thấp hơn so với mức tăng năm trước đó (khoảng 32.000 tỷ).
Trong khi tổng tài sản đang có tốc độ tăng trưởng nhanh thì vốn điều lệ lại chậm hơn. Đặc biệt tại khối
NHTM có vốn chi phối của Nhà nước, tốc độ tăng trưởng tài sản năm 2017 đạt 18,34% trong khi vốn điều lệ
chỉ tăng 0,84%. Dù có tốc độ nâng vốn điều lệ chậm hơn thì 4 ngân hàng thương mại của Nhà nước là
Vietinbank, Vietcombank, BIDV và Agribank vẫn đang dẫn đầu và chiếm tới 40% vốn điều lệ toàn hệ thống.
Trong đó, Vietinbank giữ vị trí đứng đầu với vốn điều lệ hơn 37.000 tỷ đồng dù chưa thay đổi kể từ năm
2014 đến nay. Theo sau lần lượt là Vietcombank, BIDV và Agribank (2016) với số vốn tương ứng 35.977 tỷ,
34.187 tỷ và 29.126 tỷ.
Khả năng thanh toán: Là một tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá chất lượng và sự an toàn trong quá trình
hoạt động của một ngân hàng. Do đó, muốn đảm bảo khả năng thanh toán, ngân hàng phải duy trì một tỷ lệ
tài sản nhất định dưới dạng tài sản có tính lỏng, đặc biệt là các tài sản có tính thanh khoản cao như tiền mặt,
tiền gửi ở Ngân hàng Trung ương và các công cụ dự trữ thanh khoản khác. Tuy vậy vẫn còn một số NHTM
chưa được sắp xếp, quy hoạch theo hướng vừa đảm bảo hiệu quả vừa tăng tính cạnh tranh mà không gây lãng
phí các nguồn lực. Ngoài ra, các ngân hàng còn phải chú trọng nâng cao chất lượng các tài sản có, xây dựng
danh mục tài sản hợp lý, có khả năng chuyển hoá thành tiền nhanh chóng và thu hồi nợ đúng hạn để đáp ứng
yêu cầu chi trả cho khách hàng hoặc thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết.
Khả năng sinh lời:Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh hiệu quả kinh doanh cũng như để đánh giá
sự phát triển bền vững của một ngân hàng. Hiệu quả hoạt động và khả năng sinh lời của ngân hàng có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Khi xét đến chỉ tiêu lợi nhuận, cần phân tích lợi nhuận trong mối quan hệ với các
chỉ tiêu quản lý khác, chẳng hạn như mức độ thanh khoản, mức chấp nhận rủi ro, cơ cấu tài sản cũng như
triển vọng phát triển lâu dài của ngân hàng. Trong phân tích đánh giá khả năng sinh lời của ngân hàng, có thể
đo lường bằng nhiều chỉ tiêu khác nhau như: Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA), lợi nhuận trên vốn tự có
(ROE), lợi nhuận trên tổng doanh thu, lợi nhuận trên mỗi cổ phần. Những chỉ số này phản ánh khả năng sinh
lời ròng tài sản. Nói cách khác, mỗi đồng tài sản bình quân sử dụng trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi
nhuận sau thuế.
Nhìn vào số liệu Bảng 3 có thể thấy, 5 ngân hàng trên đều có chỉ số ROA ở mức trung bình trong
ngành Ngân hàng. Điều này chứng tỏ, khả năng sinh lời của ngân hàng này từ nguồn vốn chủ sở hữu là khá
100
- Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
ổn định. Lý do có thể là: Hệ thống mạng lưới chi nhánh tại khu vực chưa được sắp xếp, quy hoạch theo
hướng vừa đảm bảo tính hiệu quả vừa đảm bảo tính cạnh tranh; Các ứng dụng công nghệ chưa được phát
triển đầy đủ… Trong khi đó, so với các ngân hàng còn lại, Ngân hàng SCB có chỉ số ROA thấp hơn nhưng
lại duy trì ở mức tăng trưởng tương đối ổn định. Chỉ số ROA phụ thuộc vào các yếu tố kinh tế vĩ mô như lãi
suất tiền gửi các loại, pháp luật và sự cạnh tranh…
Bảng 3: Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản của các ngân hàng qua các năm
ĐVT: (%)
STT Ngân hàng 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
1 BIDV 1,03 0,79 0,68 0,74 0,76 0,82 0,61 0,58
2 Vietinbank 0,93 1,36 1,22 1,01 1,43 0,98 0,71 0,68
3 Vietcombank 1,38 1,15 1,07 0,94 0,81 0,92 0,87 0,88
4 SCB 0,24 0,65 0,44 0,57 0,40 0,26 0,021 0,028
5 Sacombank 1,38 1,75 0,43 1,09 0,52 0,48 0,32 0,026
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Báo cáo tài chính các ngân hàng thương mại Việt nam, 2010-2017
3.3. Những cơ hội của ngân hàng thương mại trong giai đoạn hiện nay.
Từ Hội nhập kinh tế quốc tế: Việc mở cửa và hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng ngoài việc cho phép
các NHTM trong và ngoài nước được hoạt động kinh doanh, cạnh tranh và lớn mạnh trong một sân chơi
công bằng và bình đẳng hơn còn tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM trong nước thâm nhập thị trường
quốc tế và mở rộng hoạt động kinh doanh. Hội nhập còn đem lại cho ngành ngân hàng Việt Nam những cơ
hội trao đổi, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hoạch định chính sách tài chính, tiền tệ, quản lý ngoại hối, thanh
tra, giám sát phòng ngừa rủi ro và thanh toán, từ đó nâng cao vị thế và uy tín của các NHTM Việt Nam trong
các giao dịch tài chính ngân hàng quốc tế, điều vốn là hạn chế của các NHTM Việt Nam hiện nay.
Sự tham gia thị trường của các NHTM nước ngoài không chỉ làm gia tăng mức độ cạnh tranh mà còn
gia tăng sự lành mạnh và an toàn của toàn bộ hệ thống NHTM. Mặt khác, thông qua hội nhập, các NHTM
Việt Nam có cơ hội tiếp cận với vốn, công nghệ, kinh nghiệm và trình độ quản lý của các NHTM phát triển
trên thế giới. Bên cạnh đó, để nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh và theo kịp yêu cầu phát triển của
thị trường trong và ngoài nước, các NHTM trong nước phải chủ động thực hiện cơ cấu lại tổ chức theo
hướng hợp lý và chuyên nghiệp hơn, tăng năng lực tài chính, thực hiện chuyên môn hóa sâu hơn các nghiệp
vụ ngân hàng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ. Đó là những điều kiện
quan trọng để các NHTM Việt Nam hoạt động kinh doanh hiệu quả và đứng vững trong cạnh tranh.
Bên cạnh đó, hội nhập sẽ tạo ra động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và nâng cao tính minh bạch, tính
tự chịu trách nhiệm của hệ thống NHTM Việt Nam để đáp ứng yêu cầu của hội nhập và thực hiện các cam
kết, qua đó nâng cao hiệu quả điều hành trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng. Mặt khác, hội nhập sẽ giúp các
NHTM Việt Nam có cơ hội tiếp cận và phát triển đa dạng các dịch vụ và tiện ích ngân hàng mới hiện đại, mở
rộng hoạt động kinh doanh đồng thời không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng để cạnh tranh
tốt hơn. Đổi mới sẽ tạo ra động lực cho sự phát triển trong hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam.
Việc hội nhập cũng đòi hỏi môi trường pháp lý phải được cải thiện hơn để thực hiện các cam kết quốc
tế, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, khuyến khích các luồng vốn chảy vào trong nước thông qua đầu tư trực
tiếp và đầu tư gián tiếp nước ngoài, tạo cơ hội để các NHTM cho vay và huy động vốn lớn hơn.
Sự phát triển từ tiến bộ khoa học kỹ thuật: Những tiến bộ từ cuộc cách mạng công nghệ số trước kỷ
nguyên CMCN 4.0 sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng Việt Nam có cơ hội thu hút vốn đầu tư, tận
dụng lợi thế đi sau tiếp nhận sự hỗ trợ, tư vấn kỹ thuật, đào tạo bồi dưỡng kiến thức mới từ các ngân hàng,
các đối tác nước ngoài, các nhà đầu tư chiến lược trong việc ứng dụng khuôn khổ quản trị và kinh doanh hiện
đại, tiếp thu mô hình ngân hàng số thông minh và phát triển sản phẩm mới có hàm lượng công nghệ cao.
101
- Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
Đồng thời, ứng dụng công nghệ 4.0 sẽ giúp ngân hàng nâng cao lợi nhuận, bảo đảm tính sẵn sàng cao cho hệ
thống trong việc đáp ứng nhu cầu sử dụng các dịch vụ ngân hàng điện tử của khách hàng.
Môi trường chính trị ổn định và an toàn: Việt Nam có môi trường chính trị ổn định an toàn, luật pháp
kinh doanh ngày một hoàn thiện tạo tâm lý tin tưởng, yên tâm đầu tư, kinh doanh lâu dài.
Chính phủ tiếp tục khẳng định chủ trương cải cách, đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa các doanh
nghiệp nhà nước. Chính phủ đã phê duyệt Đề án thanh toán không dùng tiền mặt: Chính phủ tiếp tục khẳng
định chủ trương cải cách, đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước hình thành các ngành
kinh tế, các doanh nghiệp dân doanh đóng vai trò chủ đạo, chủ lực, chi phối và định hướng phát triển kinh tế.
Theo đó xuất hiện ngày càng nhiều các tổng công ty, các tập đoàn kinh tế có quy mô và vị thế lớn không chỉ
trong nước mà còn vươn ra khu vực quốc tế.
Việt Nam có dân số đông song tỷ lệ người dân có tài khoản và sử dụng tài khoản trong thanh toán
chưa cao, thấp hơn tỷ lệ trung bình trung của các nước trong khu vực; người dân chưa có thói quen sử dụng
thường xuyên, rộng rãi các dịch vụ và tiện ích từ ngân hàng, điển hình là các khu vực nông thôn và miền núi.
Chính phủ đã phê duyệt Đề án thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2016-2020. Song thói
quen không dùng tiền mặt vẫn còn phổ biến trong dân chúng. Đây là cơ hội, là một thị trường rộng lớn vẫn
còn bỏ ngỏ cho việc phát triển sản phẩm, dịch vụ của NHTM
3.4. Thách thức đối với các ngân hàng thương mại
Từ Hiệp định CPTPP: Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), các nội dung liên quan đến
lĩnh vực tài chính ngân hàng trong TPP được phân thành 3 nhóm cam kết. Đó là cam kết về môi trường pháp
lý; cam kết về mở cửa thị trường đối với các dịch vụ tài chính được phép cung cấp; cam kết về thanh toán,
chuyển tiền, các biện pháp bảo vệ cán cân thanh toán và các cam kết khác có ảnh hưởng đến quá trình điều
hành chính sách tiền tệ, tỷ giá.
Từ Hội nhập kinh tế quốc tế: Mặc dù trong thời gian qua, hệ thống NHTM đã có những bước phát
triển nhất định song khoảng cách giữa các NHTM trong nước và NHTM trong khu vực và trên thế giới vẫn
còn rất lớn về mọi phương diện. Vì vậy, khi hội nhập, hệ thống NHTM Việt Nam cũng gặp phải những thách
thức và sức ép không nhỏ.
Thứ nhất, các NHTM Việt Nam hiện nay có tiềm lực tài chính nhỏ bé, chất lượng tài sản thấp, danh
mục sản phẩm dịch vụ còn nghèo nàn, chất lượng sản phẩm dịch vụ chưa cao, cơ cấu tổ chức chưa thực sự
hợp lý và chưa chuyên nghiệp, trình độ quản lý điều hành còn thấp, công nghệ ngân hàng còn có khoảng
cách đáng kể so với trình độ của khu vực và thế giới. Các NHTM Việt Nam hiện nay chỉ có lợi thế về mạng
lưới chi nhánh phân phối sản phẩm dịch vụ và khách hàng rộng rãi, am hiểu về tập quán địa phương và môi
trường kinh doanh. Tuy nhiên, đây không phải là những lợi thế lâu dài, mang tính quyết định và sẽ mất dần
đi khi lĩnh vực ngân hàng thực sự tự do hóa hoàn toàn.
Thứ hai, hội nhập sẽ mang lại sự cạnh tranh gay gắt và khốc liệt trên thị trường ngân hàng Việt Nam.
Các NHTM nước ngoài hiện chỉ nắm giữ thị phần thiểu số trên thị trường tài chính ngân hàng Việt Nam
nhưng sẽ có ưu thế gần như toàn diện trong tương lai khi mà các quy định hạn chế của Nhà nước Việt Nam
đối với các NHTM và TCTD nước ngoài được nới lỏng dần để thực hiện cam kết mở cửa thị trường trong
lĩnh vực ngân hàng.
Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng các giao dịch vốn và rủi ro của hệ thống ngân hàng, trong
khi cơ chế quản lý chưa hoàn thiện, nhất là cơ chế thanh tra, giám sát, thiếu sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ
giữa các bộ ngành liên quan sẽ là một thách thức không nhỏ đối với các NHTM Việt Nam. Nếu như năng lực
quản lý và lập pháp không theo kịp và không lường trước được sự phát triển nhanh chóng của các giao dịch
tài chính - ngân hàng, sẽ có 2 khả năng xảy ra: Hoặc là ngành ngân hàng mất khả năng kiểm soát dẫn tới
khủng hoảng hoặc quốc gia sẽ tái áp dụng các hạn chế để duy trì kiểm soát. Cả 2 trường hợp này đều có hại
cho sự phát triển của ngành ngân hàng.
102
- Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
Thứ tư, hội nhập đòi hỏi các NHTM Việt Nam phải có một nguồn nhân lực không chỉ có chuyên môn
cao về nghiệp vụ ngân hàng mà còn phải am hiểu Luật thương mại quốc tế và được trang bị đầy đủ những
kiến thức và kỹ năng nghiên cứu, phân tích, đánh giá và dự báo theo mô hình và chuẩn mực quốc tế, trong
khi nguồn nhân lực của các NHTM Việt Nam còn rất yếu kém về các kiến thức và kỹ năng trên. Đây là một
khó khăn lớn cho các NHTM Việt Nam.
Thứ năm, khả năng kiểm soát tiền tệ còn nhiều hạn chế của NHNN Việt Nam trong điều kiện mở cửa
thị trường tài chính ngân hàng cũng rất dễ gây ra những rủi ro hệ thống cho các NHTM Việt Nam. Để tránh
được rủi ro này, công tác thanh tra, giám sát vĩ mô và giám sát từ xa của NHNN đòi hỏi phải có năng lực lớn
và dựa trên tiêu chuẩn thanh tra, giám sát quốc tế, điều mà NHNN Việt Nam chưa có được.
4. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
Dựa vào mô hình SWOT trên, tác giả tổng kết các chiến lược hoạt động của ngân hàng thương mại
trong thời gian tứi cụ thể như sau:
4.1. Giải pháp phát triển SO: Sử dụng tối đa các điểm mạnh, kết hợp với các cơ hội, tác giả kiến nghị giải
pháp phát triển của các NHTM trong thời gian tới như sau:
- (S1,2+O1,2): Tiếp tục tập trung vào các đoạn thị trường tài chính nông thôn, viên chức, các doanh
nghiệp dân doanh và đặc biệt là các thị phần tài chính vi mô, tận dụng tối đa các mạng lưới, phát triển việc
hợp tác toàn diện với các tổ chức tín dụng khác cùng địa bàn trên nguyên tắc bình đẳng hai bên cùng có lợi.
- (S3,4,5,6 + O3,4,5): Ða dạng hóa sản phẩm dịch vụ, tận dụng tối đa công nghệ hiện đại để phát triển
quy mô nhưng vẫn đảm bảo chất lượng dịch vụ cung ứng cho khách hàng. Phát triển các dịch vụ hiện đại,
tăng cường quản trị rủi ro và tận dụng các cơ hội “vàng” trong phát triển khách hàng, đảm bảo thu nhập phù
hợp. Phát triển các chương trình truyền thông và định vị thương hiệu để nâng cao uy tín tại thị trường Lào, từ
đó có thể nhân rộng mô hình phát triển tại các quốc gia khác. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua
đào tạo và chuyển giao công nghệ, ứng dụng công nghệ hiện đại đặc biệt là công nghệ fintech.
4.2. Giải pháp WO: Tận dụng các cơ hội để “hóa giải” các điểm yếu nâng cao năng lực cạnh tranh.
- (W1+O1,2): Mở rộng đối tượng khách hàng, cung cấp các sản phẩm đa dạng hơn cho nhóm khách
hàng khác nhau, phân đoạn thị trường chi tiết theo từng nhóm (tuổi, nghề nghiệp, mục đích sử dụng vốn…)
- (W2,W3+O2): Tìm hiểu thị trường để lựa chọn các địa điểm mở thêm phòng giao dịch, ATM,
POS… phù hợp, đặc biệt là ở các khu vực tiềm năng và có nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Tăng cường tiềm
lực tài chính thông qua việc tận dụng các nguồn lực tiết kiệm của dân chúng, đa dạng hóa các hình thức huy
động tìn gửi, tăng cường các biện pháp PR và truyền thông tới khách hàng.
4.3. Giải pháp ST: Sử dụng các điểm mạnh để hạn chế các điểm yếu
- (S4,5,6+T4,5,6): Tận dụng sự hiểu biết và sâu sắc với khách hàng, phát triển các ý tưởng để có các
sản phẩm đa dạng để phát huy tối đa các nguồn thu khác nhau.
- (S1+T1,2,3): Đưa ra chính sách về thời hạn, kỳ hạn và lãi suất hợp lý, cùng với Chính phủ trợ giúp
người nghèo và các đối tượng chính sách phát triển chống lại các tác động tiêu cực của xã hội và của hội
nhập kinh tế quốc tế.
4.4. Giải pháp WT: Chiến lược phòng thủ
- (W5+T1,2,3,4):Thiết lập kế hoạch “phòng thủ” để tránh những điểm yếu bị tác động nặng nề hơn từ
môi trường bên ngoài. Trong tình huống tiềm lực bên trong yếu kém, điều kiện ngoại cảnh không thuận lợi
NHTM cần có hoạt động sáng suốt để giảm thiểu cả hai vấn đề này.
- (W1+T5,6): Giảm thiểu chi phí hành chính, có chính sách quản trị rủi ro tốt để chờ thời cơ để xoay
chuyển tình hình.
NHTM hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, nhưng để có lợi nhuận bền vững, các yếu tố như phát triển
bền vững quan hệ với khách hàng, tạo ra “lợi nhuận” và lợi ích cho xã hội là điều kiện tiên quyết. Các
103
- Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
NHTMVN thông qua phân tích SWOT hoạt động của NHTM Việt Nam với Hiệp định CPTPP bốn nhóm
giải pháp trên hy vọng sẽ đóng góp một số ý tưởng cho việc phát triển hoạt động của các NHTM trong thời
gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lương Hoàng Thái (2018), “Tổng quan về Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình
Dương”, Tài liệu hội thảo CPTPP tại VCCI Hà Nội.
[2] Ngọc Toản (2017), “15 ngân hàng Việt lọt top các ngân hàng mạnh nhất Châu Á”, Tạp chí tri thức trẻ.
[3] Ngân hàng Nhà nước (2015), “ Báo cáo thường niên 2014”
www.google.com/search?q=“+Báo+cáo+thường+niên+2014”&oq=...
[4] Ngân hàng Nhà nước (2018), “ Báo cáo thường niên 2017”
Báo+cáo+thường+niên+2017”&aqs=chrome..69i57j0l5.1251j0j9&sourceid=chrome&ie=
[5] Ủy ban giám sát tài chính quốc gia (2018), “Báo cáo tổng quan thị trường tài chính 2018”
vietnamfinance.vn/bao-cao-tong-quan-thi-truong-tai-chinh-nam-2018- 0180504224217…
[6] Website ngân hàng nhà nước webcenter/portal/vi/menu/trangchu?_afrLoop=786299062....
[7] Nghị quyết họp đại hội cổ đông của các NHTMCP, 2017
www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu...
[8] https://data.worldbank.org/country/vietnam?locale=vi
[9] http://www.worldometers.info/world-population/vietnam-population/
104
nguon tai.lieu . vn