Xem mẫu

  1. Khoa Giáo dục Tiểu học, Trƣờng Cao đẳng HIỆN TRẠNG Sƣ phạm Kiên Giang VÀ NHỮNG ĐỀ XUẤT VỀ ĐỔI Điện thoại: 0939 MỚI NỘI DUNG 331058 (PTQN) CHƢƠNG TRÌNH TIẾNG Email: VIỆT TIỂU HỌC nhuphanthiquynh@yah SAU 2015 ThS. PHAN THỊ QUỲNH NHƢ ThS. NGUYỄN TẤN oo.com.vn KIỆT TÓM TẮT Chƣơng trình Tiểu học năm 2000 có những ƣu điểm vƣợt trội so với chƣơng trình Cải cách giáo dục trƣớc đó. Tuy nhiên, nhiều nhà giáo dục vẫn nhìn thấy còn những mặt hạn chế nhất định. Vì thế, bài viết này bàn về hiện trạng và những đề xuất nhỏ về đổi mới nội dung chƣơng trình Tiếng Việt ở tiểu học sau năm 2015. Từ khóa: hiện trạng, đề xuất, đổi mới, toàn diện ABSTRACT Current status and recommendations on reforms agenda Vietnamese primary after 2015 The primary program in 2000 has advantages compared with education reform program earlier. Howerver, many educatort still find certain drawbacks. Therefore, this article discusses the current situation and proposals for innovative small primary school after 2015. Key words: the statucs, proposals, innovation, comprehensive 1. Đặt vấn đề 415
  2. Có thể nói vấn đề đổi mới nội dung chƣơng trình giáo dục ở phổ thông sau năm 2015 đang là điểm nóng. Đổi mới và đổi mới nhƣ thế nào? Những mặt thành công và hạn chế trong chƣơng trình Tiếng Việt ở tiểu học năm 2000? Để trả lời cho câu hỏi đặt ra là cả một lộ trình nhìn lại và đi tới. Bàn về chƣơng trình Tiếng Việt tiểu học sau 2015 là một việc làm tất yếu của mỗi nhà giáo dục nhằm mong muốn hƣớng đến mục tiêu chƣơng trình mang tính toàn diện và phù hợp, hiện đại và hội nhập. 2. Nội dung 2.1. Hiện trạng nội dung chương trình Tiếng Việt Tiểu học năm 2000 Thời gian qua, chúng ta đã có nhiều cuộc Hội thảo khoa học, nhiều bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành, nhiều ý kiến trong các cuộc họp chuyên môn của các nhà khoa học, nhà giáo khi bàn về hiện trạng nội dung chƣơng trình Tiếng Việt tiểu học năm 2000. Từ những nhận xét, suy nghĩ kinh nghiệm và tâm huyết của các nhà giáo dục trên, chúng tôi cũng xin đƣa ra những ý kiến riêng của mình nhằm góp thêm tiếng nói ở bài tham luận Hội thảo khoa học về mặt hạn chế của nội dung chƣơng trình Tiếng Việt tiểu học năm 2000 nhƣ sau: 2.1.1. Kiến thức còn nặng tính hàn lâm, ngữ liệu thiếu tính chọn lọc Chƣơng trình Tiếng Việt Tiểu học hiện nay vẫn còn khá ôm đồm, nặng tính hàn lâm, nội dung ngữ liệu chƣa phù hợp với tƣ duy của ngƣời học nhỏ tuổi. Điều đó có thể nhận thấy nhiều ở phân môn Tập đọc. Một số ngữ liệu mà các nhà biên soạn sách giáo khoa (SGK) đƣa vào dạy học là vƣợt mức hiểu của các em. Chẳng hạn, văn bản trong Ngƣời ăn xin (Tiếng Việt 4, tập 1), nghĩa hàm ẩn trong bài Tập đọc là nội dung chính của bài. Thế nhƣng để HS nắm đƣợc bài một cách tốt nhất thì phải chăng độ tuổi của các em lại chƣa đủ tầm để hiểu sâu? Hay trong SGK Tiếng Việt lớp 1, những câu thơ nhƣ: “Nơi ấy ngôi sao khuya/ Soi vào trong giấc ngủ/ Ngọn đèn khuya bóng mẹ/ Sáng một vầng trên sân.” hoặc “Dù ai nói ngả nói nghiêng/ Lòng ta vẫn vững nhƣ kiềng ba chân”, liệu HS lớp1 có hiểu hết ý nghĩa? Vậy tại sao những bài đồng dao dễ nhớ, dễ thuộc, gần gũi, rất phù hợp với trẻ lại chỉ vẻn vẹn có một bài duy nhất trong chƣơng trình? Môn học bị cắt khúc do ngữ liệu SGK đƣa ra là quá dài. Văn bản Dế Mèn bênh vực kẻ yếu (Tiếng Việt 4, tập 1) đƣợc dạy ở tuần 1 và đến tuần 2 lại đƣợc dạy tiếp theo; Bốn anh tài (Tiếng Việt 4, tập 2) đƣợc dạy ở tuần 19 và tiếp tục sang tuần 20; Ngƣời công dân số Một (Tiếng Việt 5, tập 2) cũng thế, đƣợc dạy ở tuần 19 và tuần 20. Chúng ta không thiếu những ngữ liệu vừa đủ trong một đơn vị bài học. Điều đó khiến giờ học 416
  3. văn của HS bị gián đoạn, tƣ duy hình tƣợng không theo dòng chảy cảm xúc sẽ ảnh hƣởng ít nhiều đến việc cảm thụ trong dạy học văn cho ngƣời học. Tuy nhiên, dù có ngữ liệu không kéo dài từ tuần trƣớc đến tuần sau khiến môn học bị cắt khúc nhƣng ngữ liệu quá dài trong một tiết khó đạt đƣợc mục tiêu dạy học nhƣ Sáng kiến của bé Hà, Chiếc bút mực (Tiếng Việt 2, tập 1), Ngƣời mẹ, Hũ bạc của ngƣời cha (Tiếng Việt 3, tập 1), Chú đi tuần, Một vụ đắm tàu (Tiếng Việt 5, tập 2), v.v. Một điều nữa mà ai cũng nhận thấy là những sáng tác của một số tác giả nhƣ Trần Đăng Khoa, Tô Hoài, Tố Hữu đƣợc chọn lựa và đƣa vào SGK khá nhiều – nhƣng nhiều nhất vẫn là Trần Đăng Khoa. Dẫu biết rằng thơ của tác giả “Góc sân và khoảng trời” hay và phù hợp với tâm lí trẻ con nhƣng cả chƣơng trình Tiếng Việt tiểu học có đến 12 bài thơ lẫn đoạn trích là của tác giả này. Điều đáng nói là các nhà biên soạn đƣa cả những bài chƣa hay vào chƣơng trình. Bài thơ Khi mẹ vắng nhà (Tiếng Việt 3, tập 1) chƣa hay vì thiếu chất thơ (bài thơ có 12 dòng nhƣng 8 dòng đầu là kể việc, nặng tính văn xuôi). Đã thế, phần Tìm hiểu bài, trong SKG yêu cầu HS học thuộc lòng cả bài. Chắc chắn trẻ nhỏ sẽ khó thuộc và cũng khó lòng cảm thụ thẩm mĩ từ bài thơ nặng tính văn xuôi này. 2.1.2. Các phân môn trùng lặp ngữ liệu Tích hợp là cần thiết trong dạy học. Vì thế, các nhà biên soạn SGK đã tích hợp các phân môn trong cùng một chủ điểm. Nhƣng điều đó lại vô tình làm cho cả ngƣời dạy và ngƣời học giảm đi sự hứng thú. Điều này có thể nhận thấy khá rõ ở SGK lớp 2 và lớp 3. Các phân môn trùng lặp về ngữ liệu. Từ phân môn Tập đọc đến Kể chuyện rồi Chính tả cũng chỉ một ngữ liệu ở một văn bản duy nhất. Chẳng hạn, ngữ liệu Câu chuyện bó đũa (Tiếng Việt 2, tập 1) HS đƣợc học trong giờ Tập đọc, rồi giờ Kể chuyện HS cũng kể lại văn bản đó, đến sang Chính tả cũng viết thế. Hay văn bản Ngƣời liên lạc nhỏ (Tiếng Việt 3, tập 1), phân môn Tập đọc – Kể chuyện – Chính tả cũng một ngữ liệu nhƣ nhau. Một món ăn dù ngon đến đâu nhƣng ăn mãi cũng gây cảm giác ngấy. Một ngữ liệu dù hay thế nào nhƣng cứ lặp đi lặp lại một bài sẽ tạo cho GV và HS cảm giác đơn điệu, tẻ nhạt, không thú vị và hứng thú trong dạy và học. 2.1.3. Tranh vẽ chƣa phù hợp Tƣ duy của trẻ là tƣ duy trực quan hình ảnh. Tính chất có hình ảnh cụ thể của tƣ duy đặc trƣng cho trẻ mẫu giáo còn giữ lại rất lâu ở HS tiểu học. Đối với HS lớp 1, khi minh họa tranh cần chính xác và sinh động. Ở bài 19, phần Tập đọc có nội dung “bé tô cho rõ chữ và số” (Tiếng Việt 1, tập 1) nhƣng phần tranh chỉ minh họa phần tô số mà không có chữ. Cũng ở bài này, phần Luyện nói về chủ đề rổ, rá, tranh vẽ cũng chƣa 417
  4. đúng. Rổ là đồ đựng đan thƣa bằng tre hay bằng nhựa, nhôm…, hình dạng tròn và sâu lòng, có nhiều lỗ thƣa để thoát nƣớc, thƣờng dùng đựng rau; còn rá chất liệu cũng thế nhƣng khác với rổ là rá có nhiều lỗ nhỏ thoát nƣớc, thƣờng dùng để vo gạo. Theo nghĩa của 2 từ nhƣ thế, tranh vẽ lại minh họa ngƣợc lại (rổ là rá, rá là rổ!) khiến trẻ con hiểu chƣa đúng về các vật dụng trong gia đình. Một ví dụ nữa, Ở bài 102, phần Luyện nói, có nội dung về “Đèn dầu, đèn điện, đèn huỳnh quang” (Tiếng Việt 1, tập 2) nhƣng phần tranh minh họa cho hình ảnh hoàn toàn không tƣơng ứng! Đèn dầu mà tranh vẽ lại thể hiện đèn điện, đèn điện thì lại vẽ đèn huỳnh quang, đèn huỳnh quang lại minh họa… đèn dầu! Tƣởng rằng sai sót từ tranh vẽ minh họa là chuyện nhỏ nhƣng tác động rất lớn đến nhận thức của trẻ trong việc khám phá thế giới môi trƣờng xung quanh. 2.1.4. Chú thích, giải nghĩa từ không chuẩn xác và sai về quy tắc chính tả Chú thích, giải nghĩa từ có tác dụng cho HS hiểu đúng nghĩa của từ và từ đó biết sử dụng từ trong hoạt động học tập và giao tiếp. Thế nhƣng có những từ ngữ chú thích, giải nghĩa không sát. Ví nhƣ từ “ghé” trong hai dòng thơ “Nắng ghé vào cửa lớp/ Xem chúng em học bài” (Tiếng Việt 2, tập 1) đƣợc chú thích nghĩa nhƣ là ghé mắt và giải thích là “nhìn, ngó”. Nếu đặt từ trong văn cảnh của văn bản (Cô giáo lớp em) thì ta nên hiểu từ “ghé” có nghĩa là tạm dừng lại bên ngoài cửa lớp để xem các bạn nhỏ học bài (mƣợn ý của tác giả Bùi Thanh Truyền) [5, tr.79]. Các bạn nhỏ đáng yêu, thơ ngây, chăm chỉ đã khiến nắng không cƣỡng nổi sức hút mà tạm dừng chân để thích thú ngắm nhìn. Giải thích nhƣ trong SGK thì tính liên tƣởng, giá trị thẩm mĩ của hình tƣợng văn chƣơng bị phá vỡ ngay. Riêng ở phân môn Tập đọc, ở phần Chú thích và giải nghĩa, SGK Tiếng Việt (từ lớp 2 - 5) đều viết hoa chữ cái đầu của các tiếng. Nhƣ chúng ta đều biết, viết hoa là một quy định về chính tả với các chức năng sau: viết hoa để đánh dấu sự bắt đầu của một câu (chức năng ngữ pháp), viết hoa để biểu thị sự tôn kính, trân trọng (chức năng tu từ), viết hoa để biểu thị tên riêng (chức năng từ vựng – ngữ pháp). Vì thế, SGK trong phần Chú thích và giải nghĩa đều viết hoa chữ cái đầu của các tiếng là không đúng quy tắc chính tả tiếng Việt. Chúng tôi đơn cử một ví dụ, ở bài Tập đọc Đàn gà mới nở (tuần 16, Tiếng Việt 2, tập 1), SGK đƣa ra 3 từ ngữ cần giải thích: - Líu ríu chạy: chạy nhƣ dính chân vào nhau. - Hòn tơ: cuộn tơ (tơ: sợi mảnh, màu vàng, để dệt vải). - Dập dờn: chuyển động lúc lên lúc xuống nhẹ nhàng. 418
  5. Cách viết hoa tùy tiện nhƣ thế cần phải xem lại tránh gây cho HS hiểu sai quy tắc chính tả về cách viết hoa trong tiếng Việt. 2.1.4. Hệ thống câu hỏi hạn chế sự phát triển tƣ duy của ngƣời học Nhìn chung hệ thống câu hỏi ở phần Tìm hiểu bài trong phân môn Tập đọc đa phần chƣa phát huy năng lực tƣ duy của HS theo bậc thang nhận thức. Nhƣ chúng ta đều biết, Benjamin Bloom là ngƣời đề xuất ra bậc thang tƣ duy trong lĩnh vực nhận thức (1956) [5]. Theo tác giả, thang nhận thức gồm 6 cấp độ: Biết, hiểu, vận dụng, phân tích, tổng hợp và đánh giá. Để hoàn thiện hơn, Lorin Anderson (1991) [6] đã đƣa ra ý tƣởng mới trên cơ sở kế thừa và phát huy bậc thang nhận thức Bloom: Nhớ, hiểu, vận dụng, phân tích, đánh giá và sáng tạo. Tác giả đặc biệt chú trọng đến cấp độ Sáng tạo. Từ bậc thang nhận thức của hai nhà giáo dục, ta thấy việc đặt câu hỏi trong dạy học rất quan trọng, góp phần thành công trong học tập của HS. Chúng tôi trở lại vấn đề về hệ thống câu hỏi ở phần Tìm hiểu bài ở phân môn Tập đọc, nếu câu hỏi ở SGK chỉ dừng lại ở mức độ: Biết, hiểu khá dễ khi tái hiện, nhắc lại nội dung văn bản thì sẽ khiến ngƣời học không hứng thú bởi câu hỏi đặt ra đƣợc HS trả lời dễ dàng, không phải động não nhiều. Điều đó ảnh hƣởng không nhỏ đến sự phát triển năng lực đánh giá và sáng tạo của HS trong học văn. Câu hỏi tái tạo khơi gợi trí tƣởng tƣợng, đánh giá, nêu chính kiến của ngƣời học là trọng yếu trong việc cảm thụ và yêu thích học văn của các em. Mặt khác, câu hỏi thiết kế ở một số bài trong SGK cũng chƣa thật hay. Theo Bùi Thanh Truyền [4, tr.80] ở ví dụ câu: “Mỗi năm tết đến Trung thu, Bác càng nhớ các cháu” (trong bài Thƣ Trung thu, Tiếng Việt 2, tập 2), SGK nêu câu hỏi: “Mỗi tết Trung thu, Bác Hồ nhớ tới ai ?”. Câu hỏi chứng tỏ ngƣời biên soạn SGK chƣa nhận ra nhãn tự “càng”, Bác bao giờ cũng nhớ thƣơng và luôn nghĩ về các cháu thiếu nhi chứ không phải chỉ Tết Trung thu Bác mới nhớ các cháu! Cách thiết kế câu hỏi nhƣ trong bài chƣa thể giúp GV và HS cảm nhận đƣợc tình cảm và sự độc đáo trong cách dùng từ của Bác. 2.2. Một số đề xuất về đổi mới nội dung chương trình Tiếng Việt Tiểu học sau 2015 Theo Hoàng Thị Tuyết [2, tr.161], tập hợp những tiêu chuẩn của một SGK dạy tiếng mẹ đẻ tốt đƣợc cộng đồng các nhà nghiên cứu chƣơng trình và biên soạn SGK ngôn ngữ trên thế giới thống nhất và công nhận gồm những tiêu chuẩn theo các góc độ khác nhau: xã hội, HS, GV, ngƣời quản lí, phụ huynh HS,… Từ những thực trạng về nội dung chƣơng trình Tiếng Việt ở tiểu học năm 2000 nhƣ trên cùng với việc nhận thấy ƣu điểm của tài liệu hƣớng dẫn học theo mô hình trƣờng tiểu học mới [1], chúng tôi đƣa ra những đề xuất nhỏ về đổi mới nội dung chƣơng trình Tiếng Việt ở tiểu học sau năm 419
  6. 2015 nhằm mong muốn hƣớng đến mục tiêu chƣơng trình SGK của ta mang tính toàn diện, phù hợp và hiện đại hơn. Dƣới đây là một số đề xuất mang tính xây dựng: 2.2.1. Bài dạy học cần có mục tiêu cần đạt, chủ điểm hấp dẫn Mục tiêu cần đạt trong mỗi bài cần đƣợc trình bày rõ ràng trƣớc nội dung dạy học sẽ giúp GV và HS nỗ lực nhằm đạt đƣợc mục tiêu đặt ra. Nếu HS tự mình thấy chƣa đạt mục tiêu trong bài học sẽ tự điều chỉnh cách học hoặc xem lại thêm ở nhà để hoàn thiện việc học của bản thân. Chủ điểm dạy học cần phong phú, đa dạng để GV và HS thích thú khám phá hơn. Riêng ở nội dung chủ đề nói hoặc viết ở phân môn Tập làm văn, ngƣời biên soạn SGK cần thiết kế linh hoạt “mềm hóa” tính đến đặc điểm đối tƣợng, địa phƣơng,…để mỗi GV ở mỗi nơi có thể điều chỉnh cho phù hợp. 2.2.2. Ngữ liệu cần có sự chọn lọc Chƣơng trình Tiếng Việt tiểu học cần có nội dung ngữ liệu phù hợp với tƣ duy của HS. Riêng chƣơng trình Tiếng Việt 1, SGK nên có nhiều bài đồng dao để các em dễ nhớ, dễ thuộc vì chúng gần gũi và phù hợp với trẻ nhƣ chúng tôi đã trình bày ở trên. Để tránh môn học không bị cắt khúc do ngữ liệu SGK đƣa ra là quá dài, ngƣời biên soạn SGK cần chọn lựa bài có dung lƣợng vừa đủ trong một đơn vị bài học. Điều đó khiến giờ học văn của HS không bị gián đoạn, tƣ duy hình tƣợng đƣợc phát triển theo dòng chảy cảm xúc. Chúng ta không thiếu những tác phẩm hay của nhiều nhà văn đƣơng đại. Vì thế, ngoài những tác giả quá quen thuộc nhƣ Trần Đăng Khoa, Tố Hoài, Tố Hữu,.. nhà biên soạn SGK cần thêm những tác giả khác. Chúng tôi nhận thấy, nhiều em HS hiện nay tích cực tham gia viết văn trên các báo Tiền Phong, Nhi đồng,… Nên chăng ta chọn lọc kĩ những bài viết hay của chính lứa tuổi của các em để đƣa vào chƣơng trình? Dĩ nhiên, những bài viết đó cần mang tính nhận thức, tính thẩm mĩ và tính giáo dục. Đôi điều cần nói thêm, khi chọn lựa văn bản đƣa vào chƣơng trình SGK, ta cũng tính đến ngôn từ trên phƣơng diện ngữ âm, văn phong ở mỗi vùng miền sao cho cân đối và phù hợp. Trên thực tế, số lƣợng tác phẩm ở phân môn Tập đọc, Chính tả rất ít ỏi những nhà văn trong Nam. 2.2.3. Các phân môn tránh trùng lặp ngữ liệu và tranh vẽ minh họa phù hợp 420
  7. Chủ điểm tích hợp cần tạo cho GV và HS sự hứng thú trong dạy và học, tránh trùng lặp về ngữ liệu ở các phân môn: Tập đọc – Kể chuyện – Chính tả. Tƣ duy của trẻ là tƣ duy trực quan hình ảnh, vì thế, khi minh họa tranh cần chính xác và sinh động kích thích ngƣời học khám phá thế giới xung quanh. 2.2.4. Chú thích, giải nghĩa từ cần chuẩn xác Ngôn ngữ và tƣ duy là hai mặt của một tờ giấy. Vì thế, chú thích, giải nghĩa từ có tác dụng cho HS hiểu nghĩa của từ và từ đó biết cách sử dụng đúng từ trong hoạt động học tập và giao tiếp. Ở phân môn Tập đọc, phần Chú thích và giải nghĩa, SGK Tiếng Việt (từ lớp 2 - 5) đều viết hoa chữ cái đầu của các tiếng – nhƣ đã nói ở trên. Vì thế, chúng tôi đề nghị SGK khi Chú thích và giải nghĩa từ ngữ tránh viết hoa. Chúng tôi đơn cử một ví dụ đã có sự điều chỉnh viết hoa tùy tiện, ở bài Tập đọc Đàn gà mới nở (tuần 16, Tiếng Việt 2, tập 1) tránh cho HS hiểu sai quy tắc chính tả tiếng Việt về viết hoa nhƣ sau: - líu ríu chạy: chạy nhƣ dính chân vào nhau. - hòn tơ: cuộn tơ (tơ: sợi mảnh, màu vàng, để dệt vải). - dập dờn: chuyển động lúc lên lúc xuống nhẹ nhàng. Ngoài ra, ở phân môn Luyện từ và câu, Tập đọc, ngƣời biên soạn không nhất thiết giải nghĩa đầy đủ tất cả các từ mà một số từ ngữ nên để khuyết và yêu cầu HS làm việc ở nhà với Từ điển bằng cách tra cứu từ nhằm nâng cao tính tích cực cho ngƣời học. Trên thực tế, HS tiểu học rất ít sử dụng từ điển để hiểu nghĩa từ, mở rộng vốn từ mà phần nhiều chỉ là đối tƣợng GV và phụ huynh HS – mà HS lại là chủ thể của hoạt động dạy học. 2.2.5. Hệ thống câu hỏi hƣớng đến sự phát triển tƣ duy cho ngƣời học Hệ thống câu hỏi ở phần Tìm hiểu bài trong phân môn Tập đọc cần phát huy khả năng tƣ duy của HS theo bậc thang nhận thức. Câu hỏi trong thiết kế cần đảm bảo ở hai mức độ: tái hiện và đánh giá/ sáng tạo để phát huy năng lực tƣ duy cảm thụ, sáng tạo trong học văn của HS. Bên cạnh đó, câu hỏi thiết kế cần hay và phù hợp, tránh đánh đố, không quá dễ mà cũng không quá khó. Cách thiết kế câu hỏi trong bài học nhƣ đề nghị sẽ giúp HS phát huy tốt nhất kĩ năng đọc hiểu, cảm thụ trong học giờ Tập đọc. 3. Kết luận 421
  8. Trở lên trên, bài viết đề cập đến hiện trạng chƣơng trình Tiếng Việt tiểu học năm 2000 và đƣa ra những đề xuất đổi mới nội dung chƣơng trình Tiếng Việt ở tiểu học sau năm 2015. Chặng đƣờng nhìn lại và hƣớng tới chƣơng trình Tiếng Việt tiểu học sau 2015 là một việc làm tất yếu của mỗi ngƣời làm công tác giáo dục. Với mong muốn hƣớng đến mục tiêu chƣơng trình mang tính toàn diện, căn bản, phù hợp và hiện đại, chúng tôi hi vọng một chƣơng trình Tiếng Việt tiểu học sau 2015 sẽ tốt hơn, hoàn chỉnh hơn nâng cao chất lƣợng giáo dục cho nƣớc nhà trong xu thế hội nhập hiện nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Vụ Giáo dục Tiểu học, Dự án Mô hình trƣờng học mới Việt Nam – VNEN (2012), Dạy học theo Mô hình trƣờng học mới VNEN và nhiệm vụ đào tạo GVTH trong các trƣờng sƣ phạm (Lƣu hành nội bộ tài liệu tập huấn đợi 1 cho các trƣờng sƣ phạm). 2. Hoàng Thị Tuyết (2012), Lí luận dạy học Tiếng Việt ở tiểu học, tập 1, Nxb Thời đại. 3. Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên), (2012), Bộ SGK Tiếng Việt tiểu học (lớp 1-5), Nxb Giáo dục Việt Nam. 4. Bùi Thanh Truyền (2012), “Chất lƣợng dạy học văn”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Dạy học tích hợp ở tiểu học: Hiện tại và tƣơng lai”, Đại học Sƣ phạm Thành phố Hồ Chí Minh. 5. Bloom, B. S (1964), Phân loại tƣ duy cho các mục tiêu giáo dục (phần 1), New York: Longman. 6. http://www. Societys Breakthrough.com 422
nguon tai.lieu . vn