Xem mẫu

Hiến pháp năm 2013...

HIẾN PHÁP NĂM 2013
HIẾN ĐỊNH NHIỆM VỤ QUỐC PHÒNG, AN NINH,
BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG MỚI
NGUYỄN HUY HIỆU *

Tóm tắt: Hiến pháp không chỉ là một luật cơ bản của một quốc gia, mà còn
là sự kết tinh sâu lắng của tinh hoa văn hóa, trình độ phát triển của tiến bộ xã
hội, dân chủ và văn minh của quốc gia, dân tộc. Hiến pháp nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam xác lập các nguyên tắc nền tảng cho việc thiết kế chế
độ chính trị, hiến định nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ
quốc; bảo vệ các quyền lợi, lợi ích hợp pháp của công dân và tất cả mọi người.
Trong xã hội hiện đại, không có một quốc gia - dân tộc nào tồn tại và phát triển
được nếu thiếu vắng nền tảng pháp lý cao nhất, thiêng liêng nhất và quan trọng
nhất là Hiến pháp.
Từ khóa: Hiến pháp năm 2013, hiến định, quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ
quốc, Việt Nam.

Mở đầu
Hiến pháp mới năm 2013 được Quốc
hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua
ngày 28 tháng 11 năm 2013 và có hiệu
lực từ ngày 01 tháng 1 năm 2014. Hiến
pháp 2013 với nhiều nội dung mới, chứa
đựng hàm lượng khoa học sâu sắc, tính
chân thực, chính xác, rõ ràng, phản ánh
đúng đắn tình hình thực tiễn công cuộc
đổi mới toàn diện đất nước gần 30 năm
qua do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
Nội dung Chương IV về bảo vệ Tổ quốc
và một số điều khoản khác trong bản
Hiến pháp năm 2013 có quan hệ mật
thiết với các nội dung của nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc. Đó là một trong những nội

dung mang tính thời sự nóng bỏng, thu
hút sự quan tâm theo dõi, bàn luận của
nhiều người trong nước và bạn bè quốc
tế, thậm chí cả các thế lực thù địch, bởi
vì nó liên quan trực tiếp đến sinh mệnh,
sự sống còn của quốc gia, dân tộc Việt
Nam trong bối cảnh phức tạp hiện nay.
1. Hiến pháp năm 2013 thể chế hóa
quan điểm, đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước về
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc(*)
Điều 1 của bản Hiến pháp năm 2013
khẳng định rõ: Nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc
Thượng tướng, Viện sĩ, tiến sĩ khoa học quân sự,
Bộ Quốc phòng.
(*)

3

Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6(79) - 2014

lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo,
vùng biển và vùng trời. Vì vậy, mọi
hành vi chống lại độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống
lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đều bị
nghiêm trị. Đối với mỗi người Việt Nam
yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, Tổ quốc
là thiêng liêng, là bất khả xâm phạm và
bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng
và quyền cao quý của công dân. Công
dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ
quốc, thực hiện nghĩa vụ quân sự và
tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn
dân, gắn với xây dựng và củng cố thế
trận an ninh nhân dân vững mạnh; giữ
vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã
hội, tạo môi trường hòa bình để nhân
dân an tâm sản xuất, phát triển kinh tế,
xây dựng đất nước; phấn đấu thực hiện
thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là Văn kiện chính trị
pháp lý cơ bản nhất, thiêng liêng nhất và
quan trọng nhất, đồng thời khẳng định
quyền làm chủ của Nhân dân và Nhân
dân là chủ thể trong nhiệm vụ xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Nội dung chế định nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc được
thể chế hóa tập trung và xuyên suốt về
đường lối chỉ đạo của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về nhiệm vụ
4

bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Như vậy, tư duy mới về nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc được thể hiện trong Hiến
pháp bao hàm những nội dung nhiệm vụ
cụ thể liên quan đến lĩnh vực quốc
phòng, an ninh. Tư duy mới về mục
tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa đã được Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ XI chỉ rõ:
“Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững
chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời;
bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và
chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn
định chính trị, trật tự, an toàn xã hội;
chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi
âm mưu, hoạt động chống phá của các
thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với
các mối đe dọa an ninh phi truyền thống
mang tính toàn cầu, không để bị động,
bất ngờ trong mọi tình huống”(1).
Trong bối cảnh tình hình quốc tế và
khu vực đang diễn ra gay gắt, phức tạp,
việc bảo vệ vững chắc chủ quyền biển
đảo đang đặt ra yêu cầu, mục tiêu,
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ
Tổ quốc cao hơn. Giữ vững chủ quyền
biển đảo, thềm lục địa thiêng liêng của
Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình,
ổn định để phát triển, không để xảy ra
xung đột vũ trang và chiến tranh... là
yêu cầu rất cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, tr. 233.
(1)

Hiến pháp năm 2013...

quốc trong giai đoạn hiện nay. Quan
điểm xuyên suốt trong xử lý các mối
quan hệ quốc tế và khu vực hiện nay là
phải tỉnh táo, bình tĩnh, khôn khéo,
không bị kích động, không bị xúi giục
gây xung đột vũ trang, chiến tranh; giải
quyết mọi vấn đề bằng biện pháp hòa
bình, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản
của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng
xử của khu vực, nhất là của cộng đồng
các nước ASEAN.
Xuất phát từ những tình hình diễn
biến phức tạp trên khu vực và thế giới
hiện nay, Hội nghị Trung ương 8 khóa
XI đã ban hành Nghị quyết 28 – NQ
TW về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới”. Đây là Nghị quyết
chuyên đề về bảo vệ Tổ quốc rất quan
trọng của Đảng; thể hiện sâu sắc tầm
nhìn chiến lược, tư duy mới của Đảng ta
về hai nhiệm vụ chiến lược, trực tiếp là
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Đó còn là sự
kế thừa, vận dụng sáng tạo quan điểm có
tính quy luật “dựng nước đi đôi với giữ
nước” của cha ông ta. Theo đó, Hiến
pháp năm 2013 đã tiếp tục kế thừa và có
những phát triển mới, thể hiện một cách
toàn diện có hệ thống trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội trong toàn văn
bản Hiến pháp; tất nhiên, sức mạnh đặc
trưng của quốc phòng và an ninh mà lực
lượng vũ trang là nòng cốt được thể hiện
rõ nét, tập trung tại Chương IV với sự
thống nhất gắn kết hữu cơ giữa hai
phương diện quốc phòng và an ninh

trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Đây
cũng là nội dung mang đậm nét riêng
của Hiến pháp nước ta so với nhiều bản
Hiến pháp của các nước trên thế giới và
chính là bản sắc văn hóa Việt Nam luôn
được giữ vững và phát huy với truyền
thống “dựng nước đi đôi với giữ nước”.
Chương IV về bảo vệ Tổ quốc trong
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trước hết khẳng định
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa là sự nghiệp của toàn dân. So với
những bản Hiến pháp trước đây, Hiến
pháp năm 2013 có ý nghĩa hết sức quan
trọng trong việc khẳng định hệ thống
các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về xây dựng nền quốc phòng toàn
dân, thế trận quốc phòng toàn dân; xây
dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an
ninh nhân dân; vị trí, vai trò của Nhân
dân, sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân luôn là chủ thể, động lực quyết
định vận mệnh của đất nước. Theo đó,
Hiến pháp tiếp tục xác định trách nhiệm
của Nhà nước trong việc củng cố, tăng
cường nền quốc phòng toàn dân và nền
an ninh nhân dân, của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân, trong đó lực
lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt,
phát huy sức mạnh tổng hợp của đất
nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp bổ
sung mục tiêu “góp phần bảo vệ hòa
bình ở khu vực và trên thế giới”. Sự bổ
sung đó là điều mới so với Hiến pháp
5

Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6(79) - 2014

năm 1992; là sự thể hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự bổ sung
đó cũng khẳng định rằng, Việt Nam tuân
thủ Hiến chương Liên Hợp Quốc và
Điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;
Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và
thành viên có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế, vì lợi ích quốc gia, dân
tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội trên thế giới.
2. Xác định mục tiêu, nhiệm vụ
quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc
Về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, trong
Cương lĩnh 2011 (có bổ sung, phát
triển), Đảng xác định: “Thực hiện tốt
mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh
là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân
và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững
hòa bình, ổn định chính trị và an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; chủ
động đấu tranh, làm thất bại mọi âm
mưu và hành động chống phá của các
thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách
mạng của Nhân dân ta... là nhiệm vụ
trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà
nước và của toàn dân, trong đó Quân đội
nhân dân, Công an nhân dân là lực
lượng nòng cốt”. Đó là niềm vinh dự, tự
hào; là quyền lợi và nghĩa vụ chính đáng
của mỗi công dân. Tại khoản 2, Điều 44
6

của bản Hiến pháp viết: “phản bội Tổ
quốc là tội nặng nhất”. Đây là một trong
những điểm độc đáo, đặc sắc của Hiến
pháp năm 2013, khẳng định rõ ràng,
nhất quán quan điểm của Đảng, Nhà
nước và Nhân dân ta về việc: “Bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là
sự nghiệp của toàn dân”. Giờ đây, trong
nhận thức cũng như trong hành động,
chúng ta hiểu sâu sắc rằng, chủ thể bảo
vệ Tổ quốc là toàn thể Nhân dân ta, là
sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
gắn liền với bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa. Đó là sự tác động biện chứng
giữa bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, tức là bảo vệ
từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc gắn
chặt với bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Nhân
dân và bảo vệ thành quả cách mạng; bảo
vệ nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc,... Điều đó thể hiện rõ sự quyết
tâm của Đảng và Nhân dân ta, của cả hệ
thống chính trị trong việc bảo vệ chủ
quyền biên giới quốc gia, vùng trời, vùng
biển đảo, thềm lục địa của Tổ quốc.
Để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới, trong
Chương 4, Hiến pháp nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, các Điều 64,
66 và 67 nhấn mạnh việc củng cố và
(2)

Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, tr. 44, 45.
(2)

Hiến pháp năm 2013...

tăng cường nền quốc phòng toàn dân và
an ninh nhân dân; trong đó ba lần nhấn
mạnh vai trò nòng cốt của lực lượng vũ
trang nhân dân. Cụ thể, Điều 64 nêu:
Tăng cường nền quốc phòng toàn dân và
an ninh nhân dân mà nòng cốt là lực
lượng vũ trang nhân dân. Điều 66 nêu:
Nhà nước xây dựng Quân đội nhân dân
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại, có lực lượng thường trực
hợp lý, lực lượng dự bị động viên hùng
hậu, lực lượng dân quân tự vệ vững
mạnh và rộng khắp, làm nòng cốt trong
thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. Điều
67 nêu: Nhà nước xây dựng Công an
nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại, làm nòng cốt
trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh
quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã
hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Đây vừa thể hiện tính nhất quán xuyên
suốt vai trò lãnh đạo trực tiếp tuyệt đối
về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng
vũ trang nhân dân, đồng thời khẳng định
bản chất giai cấp của Quân đội nhân dân
và Công an nhân dân từ Nhân dân mà
ra, vì Nhân dân phục vụ, bác bỏ hoàn
toàn luận điệu của các thế lực thù địch
về việc phi chính trị hóa lực lượng vũ
trang, đặc biệt là phi chính trị hóa Quân
đội nhân dân Việt Nam.
Thể chế hóa Cương lĩnh chính trị của
Đảng tại Đại hội toàn quốc lần thứ XI và
từ thực tiễn đổi mới, hội nhập và phát
triển của đất nước, Hiến pháp năm 2013

đã đạt được những bước tiến hết sức cụ
thể trong tư duy lập hiến của Đảng và
Nhà nước ta. Hiến pháp năm 2013 thực
sự phản ánh đầy đủ ý chí và nguyện
vọng của mọi tầng lớp Nhân dân.
Để đáp ứng mục tiêu, yêu cầu nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới,
Hiến pháp khẳng định: “Nhà nước phát
huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh
hùng cách mạng của Nhân dân, giáo dục
quốc phòng và an ninh cho toàn dân”; đẩy
mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng,
an ninh; tăng cường cơ sở vật chất - kỹ
thuật, bảo đảm cho lực lượng vũ trang
từng bước được trang bị hiện đại.
Thể chế hóa Hiến pháp năm 2013,
thời gian qua Quốc hội, Ủy ban Thường
vụ Quốc hội đã xem xét, thông qua
nhiều dự án luật, pháp lệnh quan trọng
về quốc phòng, an ninh, như: Luật Quốc
phòng, Luật An ninh quốc gia, Luật
Công an nhân dân, Luật Sĩ quan Quân
đội nhân dân Việt Nam, Luật Biên giới
quốc gia...; Pháp lệnh Tình trạng khẩn
cấp, Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng, Pháp
lệnh Lực lượng cảnh sát biển Việt Nam,
Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước, Pháp
lệnh Tình báo, Pháp lệnh Cơ yếu, Pháp
lệnh Tổ chức điều tra hình sự,... Ngoài
ra, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội cũng đã ban hành nhiều luật, pháp
lệnh, nghị quyết liên quan đến lĩnh vực
quốc phòng, an ninh. Chính phủ đã ban
hành nhiều nghị định, quyết định; quan
tâm chỉ đạo thể chế hóa các chủ trương,
7

nguon tai.lieu . vn