Xem mẫu

  1. HỆ THỐNG HƯU TRÍ VIỆT NAM: Hiện trạng và những thách thức
  2. HỆ THỐNG HƯU TRÍ VIỆT NAM: Hiện trạng và những thách thức trong điều kiện dân số già hoá GIANG THANH LONG* Tháng 4, 2004 Diễn đàn Phát triển Việt nam * Giang Thanh Long là giảng viên trường ĐH Kinh tế quốc dân, Hà nội; là nghiên cứu viên của Diễn đàn Phát triển Việt nam. Bạn đọc có thể liên lạc với tác giả qua địa chỉ: gtlong@vdf.org.vn.
  3. Tóm tắt Bài viết này đề cập đến hệ thống hưu trí PAYG với mức hưởng được xác định trước (PAYG defined-benefit) của Việt nam và xem xét sự bền vững về mặt tài chính của nó trong điều kiện dân số già hoá và nền kinh tế hiệu quả động. Bằng việc sử dụng các mô hình thống kê của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), bài viết chỉ ra rằng mức nợ lương hưu tiềm ẩn (implicit pension debt - IPD) của hệ thống so với GDP của năm 2000 – năm cơ sở để dự báo – là rất cao. Xét về mặt xã hội, sự tồn tại của nợ lương hưu tiềm ẩn đồng nghĩa với việc gánh nặng nợ sẽ do các thế hệ hiện tại và tương lai chi trả nếu chúng ta tiếp tục duy trì hệ thống hưu trí này. Vì thế, hệ thống hưu trí Việt nam không những bất ổn về mặt tài chính, mà còn dẫn đến sự bất công bằng giữa các thế hệ. Để tránh tình trạng này, hệ thống hưu trí hiện nay cần phải được cải cách. Đặc biệt, Việt nam cần phải cải cách hệ thống hưu trí sang một hệ thống tài khoản cá nhân một phần với mức hưởng được xác định dựa trên mức đóng (partially-funded defined- contribution scheme) với những cân nhắc kỹ lưỡng về tác động kinh tế và xã hội để từ đó có thể tránh được cả sự bất ổn về mặt tài chính của hệ thống và sự bất công bằng giữa các thế hệ.
  4. Thuật ngữ Tỷ lệ thực hiện. Tỷ lệ giữa số người thực sự đóng góp cho hệ thống với số người phải đóng góp theo quy định của pháp luật. Tỷ lệ đóng góp. Tỷ lệ nhất định trong mức thu nhập mà người tham gia phải đóng góp cho hệ thống. Hệ thống có mức hưởng được xác định trước. Là hệ thống mà mức hưởng được xác định theo một công thức cho trước. Công thức này bao gồm số năm đóng góp, thu nhập và các tiêu chuẩn về mặt xã hội, và nó xác định người đóng góp được hưởng lương hưu hay một lần. Người bảo đảm (nhà nước, người thuê lao động, công ty bảo hiểm) phải chịu rủi ro tài chính đối với các khoản tiền phải trả cho người hưởng tính được theo công thức đưa ra. Hệ thống có mức hưởng được xác định theo mức đóng. Là hệ thống mà mức hưởng được xác định dựa trên khoản đóng góp của từng cá nhân theo tài khoản của họ cùng với lợi tức thu được từ khoản đầu tư khi những người này thoả mãn các điều kiện nhất định do hệ thống đưa ra. Người lao động là người chịu rủi ro tài chính. Nợ lương hưu tiềm ẩn (ròng). Chênh lệch giữa tổng mức chi trả với tổng mức dự trữ của quỹ hưu trí. Hệ thống tài khoản cá nhân tượng trưng (NDC). Là hệ thống mà sự tham gia của người lao động được ghi chép lại bằng tài khoản dưới dạng sổ sách (ví dụ như sổ bảo hiểm chẳng hạn), và cuốn sổ đó ghi lại mức đóng góp cùng với mức lãi suất được hưởng do chính phủ quy định, nhưng quỹ hưu trí không bao giờ tích luỹ thực sự trong những tài khoản này. Thay vào đó, tiền đóng góp được sử dụng để chi trả chi những người hưởng hiện tại, và những tài khoản đóng góp là tài khoản không tích luỹ hay tượng trưng mà thôi. Khi người lao động đến tuổi về hưu, tài khoản tượng trưng của anh/chị ta sẽ được chuyển thành khoản tiền hưởng đều hàng năm (nhiều hay ít phụ thuộc vào thời gian nghỉ hưu dự tính và lãi suất) và khoản tiền này được lấy từ khoản đóng góp của người lao động vào thời điểm đó - những người đang đóng góp để tạo dựng cho mình một tài khoản nhất định. Tỷ lệ phụ thuộc người già. Tỷ lệ giữa dân số trên 60 tuổi so với dân số từ 15 đến 60 tuổi. Pay-as-you-go (PAYG). Là hệ thống an sinh xã hội mà khoản tiền thu được hiện tại (hầu hết từ các khoản đóng góp, ví dụ như một phần nhất định trong tổng quỹ lương) được sử dụng để chi trả cho chi phí hiện tại. Tỷ lệ chi phí PAYG. Là tỷ lệ giữa tổng mức chi phí với tổng mức thu từ đóng góp của hệ thống. Nó cho biết tỷ lệ đóng góp cần thiết để đảm bảo quỹ cân bằng. Tỷ lệ thay thế. Tỷ lệ mức hưởng so với mức đóng (tính trung bình). Tổng tỷ suất sinh. Số trẻ em mà một phụ nữ có thể có nếu chị ta sống hết độ tuổi sinh đẻ, và tỷ lệ này được phân chia theo các lứa tuổi khác nhau. Tỷ lệ phụ thuộc trẻ em. Tỷ lệ dân số dưới 15 tuổi so với dân số từ 15 đến 60 tuổi.
  5. I. GIỚI THIỆU Sự thay đổi của dân số có tác động lớn đến hoạt động kinh tế, xã hội của các nước, khu vực và toàn thế giới. Trong thời gian gần đây, sự thay đổi của dân số có thể thấy rõ nhất là hiện tượng dân số già hoá nhanh. Tỷ lệ người già trong tổng dân số tăng lên nhanh chóng do tỷ lệ sinh giảm và tuổi thọ tăng lên. Sự già hoá của dân số đòi hỏi nhà nước phải chi tiêu nhiều cho các khoản hưu trí, chăm sóc sức khỏe và y tế, và vì thế mà tác động đến ngân sách của chính phủ, quỹ hưu trí và sự bền vững tài chính. Vấn đề dân số già hoá trở nên nghiêm trọng khi xét đến hệ thống hưu trí PAYG với mức hưởng được xác định trước. Nhiều nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng hai nhân tố này có tác động tiêu cực đến sự ổn định tài chính của quỹ hưu trí nói riêng và ngân sách nhà nước nói chung ở hầu hết các nước trên thế giới*. Bên cạnh việc có thể gây mất ổn định về mặt tài chính do tác động của sự già hoá dân số, hệ thống PAYG với mức hưởng được xác định trước cũng gây ra sự bất công bằng giữa các thế hệ. Khi dân số già hoá nhanh thì vấn đề này càng nghiêm trọng vì thế hệ người lao động trong tương lai phải đóng góp nhiều hơn mới có thể trang trải chi phí cho những người hưởng lợi hiện tại. Vì thế, hệ thống hưu trí này sẽ sụp đổ nếu được duy trì do các vấn đề như trốn đóng bảo hiểm, mức hưởng quá cao và nợ lương hưu tiềm ẩn lớn. Những khía cạnh có liên quan này đã được đề trong trong các nghiên cứu của Gokhale (1996), Feldstein (1998), Kotlikoff và Leibfritz (1998), Takayama và cộng sự (1998), và Kunieda (2001). Mặc dù Việt nam vẫn là nền kinh tế có dân số trẻ với 7% tổng dân số là người trên 60 tuổi, nhưng trong vòng 50 năm nữa, nó cũng sẽ đối mặt với những vấn đề tương tự phát sinh từ dân số già hoá như các nước khác hiện nay. Nhờ có tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội đầy ấn tượng, mức sống được cải thiện của người dân Việt nam đã dẫn đến tuổi thọ tăng nhanh chóng, từ 40,2 năm vào năm 1950 lên tương ứng 64,8 và 69,2 vào năm 1990 và 2001; và tỷ lệ sinh giảm từ 6 trẻ em/1 phụ nữ vào năm 1960 xuống tương ứng 3,4 and 2,33 vào năm 1990 và 2001 (Tổng cục Thống kê, 2002). Theo dự báo dân số của Liên hợp quốc (2002) cho Việt nam, vào năm 2050, dân số từ 60 tuổi trở lên sẽ chiếm 24% tổng dân số; và tỷ lệ phụ thuộc người già và dân số tương ứng sẽ là 42% và 77%. Bên cạnh đó, hệ thống hưu trí PAYG có mức hưởng được xác định trước do nhà nước quản lý hiện nay của Việt nam thường trong tình trạng không ổn định về mặt tài chính do số người tham gia hệ thống có hạn, mức đóng góp thấp trong khi tỷ lệ thay thế lại khá cao. Sự phức hợp của những nhân tố này sẽ dẫn đến một hậu quả nhãn tiền: sự bất ổn của hệ thống do những tác động tiêu cực về mặt tài chính. Một đánh giá thống kê gần đây đối với hệ thống bảo hiểm xã hội của Việt nam cho thấy rằng quỹ bảo hiểm sẽ cạn kiệt vào năm 2030 nếu như chúng ta không thực hiện chính sách cải cách * Ví dụ, Hagemann và Nicoletti (1989), Auerbach và cộng sự (1989), Holzmann (1997, 1998), và Holzmann và cộng sự (2001). 1
  6. hệ thống (Tổ chức Lao động quốc tế - ILO, 1998). Đây chính là nguy cơ đối với hệ thống hưu trí Việt nam trong tương lai gần, và việc lựa chọn các chính sách nhằm duy trì nó một cách bền vững là điều cần làm ngay. Bài viết này sẽ phân tích sự bền vững về mặt tài chính của hệ thống hưu trí Việt nam cho đến năm 2050. Hai khía cạnh là sự bất ổn định về mặt tài chính và sự bất công bằng giữa các thế hệ tham gia hệ thống sẽ được trình bày cụ thể trong bối cảnh Việt nam vẫn tiếp tục duy trì hệ thống này. Trong phần cuối cùng, bài viết gợi ý một số phương thức chính sách để cải cách hệ thống nhằm ổn định và đảm bảo sự công bằng giữa các thế hệ. II. HỆ THỐNG HƯU TRÍ VIỆT NAM: HIỆN TRẠNG VÀ NHỮNG THÁCH THỨC Hệ thống hưu trí là một bộ phận của hệ thống bảo hiểm xã hội Việt nam - hệ thống bắt đầu hoạt động từ năm 1962. Trước năm 1995, hệ thống hưu trí là hệ thống có mức hưởng được xác định trước và chỉ có lao động của khu vực nhà nước tham gia hệ thống, và nó được nhiều cơ quan chức năng quản lý dưới sự giám sát của chính phủ. Trong hệ thống đó, mức hưởng hưu trí được xác định dựa trên số năm đóng góp và thu nhập cơ sở (thường là mức lương vào thời điểm nghỉ hưu). Khoản hưởng lợi được chi trả từ quỹ bảo hiểm xã hội - quỹ được hình thành từ khoản đóng góp của người sử dụng lao động (một phần của quỹ lương) và từ trợ cấp của chính phủ. Quỹ bảo hiểm do chính phủ quản lý và bảo trợ, và là một bộ phận của ngân sách nhà nước. Trong gần 30 năm, đặc biệt trong những năm chiến tranh khốc liệt, hệ thống này đã đóng góp đáng kể trong việc ổn định thu nhập và đời sống của người tham gia hệ thống. Tuy nhiên, sự phức tạp và những khó khăn nảy sinh từ việc quản lý hành chính và tài chính, cùng với sự lớn mạnh nhanh chóng của thành phần kinh tế tư nhân, đã khiến chính phủ phải cải cách hệ thống đó thành hệ thống hưu trí PAYG có mức hưởng được xác định trước vào năm 1995, và thành lập Bảo hiểm Xã hội Việt nam (VSI) cùng thời điểm đó để quản lý hệ thống dưới sự bảo trợ của chính phủ. 1. Những đặc điểm chính và những bất cập của hệ thống Tỷ lệ tham gia hệ thống và mức hưởng Việc tham gia hệ thống hưu trí hiện tại bắt buộc đối với các đối tượng sau: (i) lao động trong khu vực nhà nước, bao gồm những người làm việc trong chính phủ, các tổ chức của Đảng và lực lượng vũ trang; (ii) lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước (SOEs); và (iii) các doanh nghiệp tư nhân có số lao động trên 10 người, bao gồm các doanh nghiệp nước ngoài, đại diện của các doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp trong các khu công nghiệp và khu chế xuất, và các tổ chức quốc tế. Bên cạnh đó, người 2
  7. Việt nam đang làm việc ở nước ngoài, hoặc người nước ngoài đang làm việc tại Việt nam có thể tham gia vào hệ thống bảo hiểm tự nguyện. Tuy nhiên, trên thực tế, tỷ lệ tham gia hệ thống rất thấp vì số lượng người tham gia chủ yếu từ khu vực nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước, và có rất ít người tham gia vào hệ thống bảo hiểm xã hội tự nguyện. Theo thống kê của Bảo hiểm xã hội Việt nam (2001), tỷ lệ tham gia hệ thống đối với khu vực nhà nước là khoảng 95% đối với công chức và 93% đối với lao động làm việc tại các doanh nghiệp nhà nước. Số lao động khu vực nhà nước tham gia hệ thống chiếm 86%, trong khi khu vực tư nhân chỉ chiếm 14% (Hình 1). Điều này có thể thấy rõ hơn trong Bảng 1. Hình 1. Số lượng người đang trực tiếp tham gia hệ thống phân theo khu vực kinh tế trong năm 2000 (1000 người) (649) 14% (1973) 45% (1854) 41% Công chứ c nhà nước DNNN Khu vự c tư nhân Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt nam (2001) Bảng 1. Tham gia hệ thống hưu trí của các thành phần kinh tế năm 2000 Nhà nước Tư nhân % Lực lượng lao động 10 90 % Số người đang tham gia 86 14 Tỷ lệ thực hiện (%) 95 27 Nguồn: Tổng cục Thống kê (2001), Bảo hiểm xã hội Việt nam (2001) Các loại hình hưởng thụ của hệ thống chủ yếu là các khoản chi trả dài hạn, bao gồm hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động và mất sức lao động. Bên cạnh đó, có một số khoản chi trả một lần như trợ cấp mai táng, thanh toán một lần cho một số đối tượng về hưu và các khoản trợ cấp khác cho tai nạn lao động và mất khả năng lao động ở mức độ thấp. Lương hưu trí được thanh toán cho nam giới và nữ giới ở độ tuổi tương ứng là 60 và 55 với ít nhất 20 năm đóng góp, và mức lương này được xác định bằng công thức 3
  8. tính nhất định. Ví dụ, mức lương hưu được hưởng được tính bằng cách nhân mức lương cơ sở với một hệ số; trong đó, mức lương cơ sở được tính bằng mức lương trung bình của một thời kỳ nhất định, ví dụ như mức lương trung bình của 5 năm cuối đối với lao động trong khu vực nhà nước. Hệ số được tính bằng 3% cho mỗi năm của 15 năm đóng góp đầu tiên, 2% với mỗi năm cho những năm tiếp theo và -1% đối với mỗi năm nghỉ hưu sớm. Tuy vậy, tổng mức hưởng không vượt quá 75% mức lương cơ sở. Các chế độ khác, ví dụ như tử tuất, thương tật và mất sức lao động được chi trả với những quy định khắt khe. Tất cả mức hưởng nêu trên đều được điều chỉnh theo mức lương cơ bản (hay tối thiểu), và mức lương hưu tối thiểu bằng với mức lương tối thiểu. Trong hệ thống hưu trí hiện tại, có hai loại hình thụ hưởng, đó là những người thuộc hệ thống trước năm 1995 và những người thuộc hệ thống sau năm 1995. Những người thuộc hệ thống trước được chi trả bằng ngân sách nhà nước, trong khi những người thuộc hệ thống sau được Bảo hiểm xã hội Việt nam chi trả. Trên thực tế, Bảo hiểm xã hội Việt nam nhận trách nhiệm chi trả toàn bộ cho số người được hưởng lợi của cả hai hệ thống, và sau đó nó nhận khoản thanh toán từ chính phủ thông qua Bộ Tài chính (MoF). Bảng 2. Số người đóng góp và người hưởng năm 2000 Mức lương Số người Khoản mục trung bình (1000 người) (1000 đồng) SỐ LƯỢNG NGƯỜI ĐÓNG GÓP Công chức nhà nước (gồm cả lực lượng 1.973 775 vũ trang) Lao động trong các DN Nhà nước 1.854 775 Lao động khu vực tư nhân 649 1.220 Tổng 4.476 840 SỐ NGƯỜI HƯỞNG 1. Hệ thống trước năm 1995 2.168 539 Hưu trí 1589 625 Mất khả năng lao động 427 356 Tai nạn lao động 8 273 Tử tuất 144 125 2. Hệ thống sau năm 1995 243 475 Hưu trí 141 691 Tai nạn lao động 19 339 Tử tuất 83 138 Tổng 2.411 532 Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt nam (2001) Trong hệ thống mới, mức hưởng trung bình khoảng 475.000 đồng với tỷ lệ thay thế xấp xỉ 56% - một tỷ lệ tương đối cao so với các nước khác. Bên cạnh đó, tỷ lệ phụ 4
  9. thuộc của hệ thống (hay còn gọi là tỷ lệ dân số của hệ thống) năm 2000 chỉ là 5,4% cho biết rằng số người hưởng chỉ bằng 5,4% số người đóng góp và điều này cũng thể hiện sự non trẻ của hệ thống. Vì vậy, tỷ lệ chi phí PAYG của hệ thống - tỷ lệ được tính bằng cách lấy tỷ lệ thay thế nhân với tỷ lệ dân số của hệ thống - chỉ khoảng 3%, ngụ ý rằng tổng mức chi trả của hệ thống này chỉ bằng 3% tổng mức đóng góp. Tỷ lệ này còn được gọi là tỷ lệ đóng góp bền vững, tức là tỷ lệ đóng góp đủ để cân đối quỹ hưu trí. Tổng mức thu của hệ thống chỉ bằng khoảng 10% GDP danh nghĩa năm 2000 do mức lương còn thấp, tỷ lệ tham gia thấp và việc trốn đóng còn phổ biến, đặc biệt là trong khu vực tư nhân. Nguồn tài chính và tình trạng tài chính Nguồn thu của hệ thống bao gồm các khoản đóng góp, hỗ trợ của chính phủ, thu từ đầu tư và các nguồn khác (Điều 149, Luật Lao động sửa đổi (2002): trang 82). Đóng góp cho hệ thống bảo hiểm xã hội bao gồm 5% tiền lương hàng tháng của người lao động và khoản này được dùng cho chi trả hưu trí, tử tuất, trợ cấp mai táng; và 15% tổng quỹ lương của người sử dụng lao động, trong đó 10% dùng cho các khoản chi trả dài hạn, ví dụ như hưu trí, và 5% còn lại dùng cho các khoản chi trả ngắn hạn, ví dụ như ốm đau, thai sản... Phần chi trả và hỗ trợ của chính phủ bao gồm khoản chi trả cho những người thuộc hệ thống trước năm 1995, và hỗ trợ cho các chi phí hoạt động ban đầu của hệ thống, ví dụ như đào tạo, xây dựng cơ sở vật chất và chi phí thanh toán. Hình 2. Cơ cấu đầu tư của phần dự trữ quỹ bảo hiểm xã hội năm 2000 NH NN & NH ĐT & PT PTNT 18% 10% NH Công thương 8% NH Ngoại thương 1% NSNN 13% Quỹ hỗ t rợ phát triển Trái phiếu 40% Chính phủ 6% Trái phiếu CP dài hạn 4% Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt nam (2001) 5
  10. Phần dự trữ sau khi đã cân đối quỹ được đầu tư. Trên thực tế, trong điều kiện các công cụ và tài sản tài chính ở Việt nam của khu vực tài chính còn hạn chế, các khoản đầu tư của quỹ bảo hiểm xã hội tập trung chu yếu vào các nguồn an toàn nhưng lãi suất rất thấp. Các khoản đầu tư này chủ yếu dành cho khu vực nhà nước; ví dụ, trong năm 2000, 52% gửi tại các ngân hàng quốc doanh, 36% cho chính phủ vay trong các dự án nhà nước, và 12% còn lại dùng để mua trái phiếu và thực hiện các khoản đầu tư khác (Bảo hiểm xã hội Việt nam, 2001). Mức lãi suất danh nghĩa trung bình dự tính cho các khoản đầu tư này chỉ là 4,85% (Hình 2). Hình 3. Số lượng và cơ cấu tuổi của những người đang về hưu năm 2000 Số người v ề hưu thuộ c hệ thố ng trước năm 1995 250,000 19 1,4 0 0 200,000 157,4 0180,200 0 172,600 150,000 165,300 Người 148,400 10 9 ,0 0 0 100,000 117,400 55,2 0 0 75,200 4 5,6 0 0 50,000 3 8 ,2 0 0 3 4 ,0 0 0 19 ,10 0 13 ,10 0 25,100 27,400 14,000 0
  11. với nhau nên quỹ hưu trí của thể cạn kiệt trong tương lai. Vấn đề bất ổn về mặt tài chính của quỹ hưu trí Việt nam càng được thấy rõ hơn trong điều kiện số lượng người được phép nghỉ hưu sớm khá nhiều (mà cách này từng được coi là cách giải quyết lao động dư thừa ở các doanh nghiệp nhà nước) và dân số già hoá có thể dự đoán được. Theo báo cáo của Bộ Lao động, Thương binh và xã hội (2001), tuổi về hưu trung bình trong thực tế thấp hơn gần 5 năm so với quy định; 60% số người nghỉ hưu hiện nay đã về hưu sớm, và 12% số người nghỉ hưu hiện nay đã nghỉ hưu khi đang còn ở độ tuổi dưới 45 (Hình 3). Điều này cho thấy rằng thời gian nghỉ hưu của những người này sẽ dài hơn khi tuổi thọ của họ tăng lên, và vì thế mà lượng tiền chi trả cho khoản hưu trí của họ tăng nhanh trong tương lai khi mức hưởng vẫn được chỉ số hoá theo mức lương tối thiểu - mức lương này đương nhiên phải tăng lên theo thời gian khi chi phí sinh hoạt cao hơn. Việc quản lý và khung pháp lý của hệ thống Kể từ năm 1995, Bảo hiểm xã hội Việt nam chịu trách nhiệm thực hiện các chức năng trong ngắn hạn và dài hạn mà trước đây tương ứng thuộc về Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam và Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội. Bảo hiểm xã hội Việt nam được tổ chức theo cơ cấu chiều dọc và nó có các chi nhánh ở cấp huyện, và các chi nhánh ở địa phương chịu trách nhiệm cả thu và chi. Việc phân cấp quản lý theo hình thức này đã tăng hiệu quả quản lý số lượng người tham gia hệ thống thông qua việc cập nhật thông tin về tình hình lao động ở địa phương. Tuy nhiên, hình thức này cũng dẫn đến sự gia tăng chi phí hành chính và có thể dẫn đến những vấn đề tiêu cực như tham nhũng hoặc làm sai nguyên tắc. Hơn nữa, sự hợp tác trong quản lý giữa Bảo hiểm xã hội Việt nam và các Bộ khác, đặc biệt là Bộ Kế hoạch và Đầu tư với chức năng quản lý các loại hình doanh nghiệp của cả nước, vẫn chưa thực sự có hiệu quả nên việc trốn đóng bảo hiểm xã hội vẫn còn phổ biến, đặc biệt là khu vực tư nhân. Cùng với những vấn đề về quản lý, các quy định về thuế đối với hệ thống bảo hiểm xã hội và các loại hình tiết kiệm an sinh khác cũng khiến cho vấn đề trốn đóng bảo hiểm trở nên nghiêm trọng hơn. Ví dụ, các khoản đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động và các khoản lợi nhận được từ hệ thống hưu trí không phải đóng bất kỳ một loại thuế thu nhập nào, trong khi các khoản đóng góp vào hệ thống tiết kiệm an sinh không được miễn thuế. Điều này khiến các doanh nghiệp tìm mọi cách trốn đóng bảo hiểm xã hội như khai giảm số lượng lao động trong doanh nghiệp, ký hợp đồng lao động ngắn hạn với lao động làm việc thường xuyên (hay dài hạn)… 2. Những thách thức đối với hệ thống Xuất phát từ quan điểm kinh tế và xã hội, ta có thể thấy rằng hệ thống hưu trí Việt nam phải đối mặt với hai thách thức. Thứ nhất là các thách thức trong ngắn hạn có liên quan đến tỷ lệ tham gia hệ thống vẫn còn rất thấp và hiệu quả quản lý còn chưa cao. Thứ hai là các thách thức trong dài hạn - được coi là hệ quả của các thách thức trong 7
  12. ngắn hạn – có liên quan đến vấn đề dân số già hoá nhanh, và vì thế mà tỷ lệ phụ thuộc của hệ thống cũng tăng nhanh. Các thách thức trong ngắn hạn Như đã đề cập ở trên, trong năm 2000, số người đóng góp cho hệ thống từ khu vực tư nhân chỉ chiếm 14%, và tỷ lệ thực hiện của khu vực này cũng chỉ đạt 27%. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng này chính là do quy định về việc tham gia hệ thống quá hạn hẹp đối với khu vực tư nhân. Bên cạnh đó, quá trình tái cơ cấu kinh tế gắn với việc giãn thải lao động nên số lượng lao động trong khu vực nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước, đang giảm xuống. Những lao động bị giãn thải lại tham gia hoạt động trong khu vực tư nhân nhưng không tái đăng ký tham gia hệ thống bảo hiểm xã hội nên tỷ lệ tham gia hệ thống giảm xuống. Một điều cũng đáng lưu tâm là số người về hưu thuộc hệ thống trước năm 1995 chiếm tương ứng 66% và 92% tổng số người hưởng chế độ và tổng số người về hưu, và phần lớn những người này đã về hưu sớm; do đó, gánh nặng tài chính để chi trả cho những đối tượng này, thể hiện bằng khoản nợ lương hưu tiềm ẩn (IPD), sẽ tăng lên trong tương lai khi mức lương hưu tối thiểu được điều chỉnh tăng và người hưởng lợi có tuổi thọ cao hơn. Hình 4. Tỷ lệ phụ thuộc dân số của Việt nam, 2000-2050 90 80,000 80 70,000 Tr ục phải 70 Số dân (1000 người) 60,000 Tỷ lệ phụ thuộc (%) 60 Tr ục trái 50,000 50 40,000 40 30,000 Tr ục trái 30 20,000 20 Tr ục phải 10,000 10 0 0 2000 2005 2010 2015 2020 2025 2030 2035 2040 2045 2050 Năm Tỷ lệ phụ thuộc dân s ố Tỷ lệ phụ thuộc người già 15-59 60+ Nguồn: Dự báo dân số của Liên hợp quốc (2002) Các thách thức trong dài hạn Khi xem xét sự bền vững tài chính trong dài hạn thì có thể thấy rằng những thách thức trong ngắn hạn nêu trên trở nên nghiêm trọng hơn trong điều kiện dân số già hoá. 8
  13. Chính sách kế hoạch hoá gia đình trong giai đoạn 1970-1990 và sự gia tăng của tuổi thọ nhờ mức sống được cải thiện là hai nguyên nhân chính làm cho dân số Việt nam trở nên già hơn. Theo dự báo dân số của Liên hợp quốc cho Việt nam, dân số già (từ 60 tuổi trở lên) sẽ chiếm tương ứng 13% và 24% tổng dân số năm 2025 và 2050, tương ứng gấp hai lần và ba lần so với năm 2000. Hơn nữa, tuổi thọ trung bình của dân số Việt nam được dự đoán là sẽ tăng từ 69,2 năm vào năm 2000 lên tương ứng 74,1 và 78,2 vào năm 2025 và 2050. Kết quả là, tỷ lệ phụ thuộc người già và dân số tăng lên nhanh chóng và gây áp lực đối với bộ phận dân số trong độ tuổi lao động. Ví dụ, tỷ lệ phụ thuộc người già và dân số sẽ tăng tương ứng từ 13% và 69% vào năm 2000 lên 42% và 77% vào năm 2050, trong khi dân số trong độ tuổi lao động sẽ giảm nhanh sau khi đạt đến con số cao nhất vào năm 2030. Sự bền vững về mặt tài chính của hệ thống hưu trí Việt nam chịu tác động của rất nhiều nhân tố. Thứ nhất, tỷ lệ phụ thuộc dân số của hệ thống đang có xu hướng gia tăng nhanh. Thứ hai, tỷ lệ đóng góp hiện tại thấp hơn so với tỷ lệ đóng góp bền vững – hay còn gọi là tỷ lệ chi phí PAYG – và vì thế mà quỹ có thể bị cạn kiệt. Thứ ba, tỷ lệ thực hiện có xu hướng giảm xuống do (i) sự thu hẹp của khu vực nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước; (ii) sự dịch chuyển của các đối tượng lao động giãn thải từ khu vực nhà nước sang khu vực tư nhân nhưng lại không đăng ký tham gia vào hệ thống bảo hiểm xã hội, và (iii) tỷ lệ tham gia của khu vực tư nhân còn quá thấp. Thứ tư, mức hưởng được chỉ số hoá theo mức lương tối thiểu vẫn còn lớn, gắn liền với thời gian hưởng dài do người hưởng lợi nghỉ hưu sớm và tuổi thọ có xu hướng tăng lên. Các thách thức trong dài hạn còn có thể nghiêm trọng hơn nữa khi ta xét đến sự công bằng giữa các thế hệ. Như đã đề cập trong rất nhiều nghiên cứu, hệ thống hưu trí PAYG với mức hưởng được xác định trước trong điều kiện dân số già hoá cũng đồng nghĩa với việc các thế hệ trẻ hiện nay và tương lai sẽ phải chịu gánh nặng lớn hơn mới có thể trang trải được chi phí cho hệ thống. Gánh nặng lớn hơn này có thể được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau, ví dụ như tỷ lệ đóng góp tăng lên liên tục, và vì thế mà những người tham gia đóng góp cho hệ thống sẽ tìm cách trốn đóng hoặc nghỉ hưu sớm. Tất cả những nhân tố kể trên khiến cho hệ thống hưu trí đối mặt với nhiều vấn đề, và có thể làm cho hệ thống hưu trí rơi vào khủng hoảng trong tương lai, thể hiện bằng sự bất ổn về mặt tài chính và sự bất công bằng giữa các thế hệ. Việc ổn định tài chính và duy trì sự công bằng giữa các thế hệ trong hệ thống hưu trí PAYG với mức hưởng được xác định trước với dân số già hoá nhanh chóng là những câu hỏi chính sách hóc búa nhất đối với bất kỳ nền kinh tế nào. Do vậy, tìm ra những chính sách có thể áp dụng phù hợp với những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định nhằm hạn chế những vấn đề này và ổn định hệ thống là điều cần phải làm ngay. 9
  14. III. PHƯƠNG PHÁP DỰ BÁO TÀI CHÍNH CHO HỆ THỐNG HƯU TRÍ Phần này sẽ sử dụng các phương pháp dự báo thống kê do Tổ chức Lao động quốc tế xây dựng để đánh giá sự bền vững tài chính của hệ thống hưu trí. Tất nhiên, các phương pháp này được điều chỉnh nhằm thích ứng với những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định của Việt nam nói chung, và hệ thống hưu trí Việt nam nói riêng. Để dự báo tài chính của hệ thống, chúng ta cần ba mô hình, đó là tổng dân số, nền kinh tế vĩ mô và các chỉ số tài chính của hệ thống hưu trí. Có ba bước để đánh giá thực trạng tài chính của hệ thống hưu trí, đó là bước đánh giá nguyên trạng, bước đánh giá độ nhạy của các biến số và bước đề xuất các chính sách cải cách. Bước đầu tiên được thực hiện trong điều kiện giả định rằng việc quản lý và khung pháp lý của hệ thống hưu trí không thay đổi trong bối cảnh nền kinh tế xã hội và dân số thay đổi. Bước thứ hai được thực hiện nhằm kiểm định dự báo nguyên trạng nêu trên với những giả định khác nhau cho các chỉ số, ví dụ như tỷ lệ thực hiện, tỷ lệ đóng góp và thay thế, để xem kết quả thu được có khác hay không và khác như thế nào so với dự báo ban đầu. Bước thứ ba là đưa ra một số đề xuất chính sách nhằm ổn định tài chính cho hệ thống và đảm bảo sự công bằng cho các thế hệ tham gia. 1. Dự báo dân số Dự báo dân số của Việt nam được lấy từ dự báo dân số do Liên hợp quốc thực hiện năm 2002 với giả định tỷ lệ sinh ở mức trung bình. Giả định này được sử dụng vì tổng tỷ suất sinh trung bình của Việt nam đang có xu hướng giảm, nhưng vẫn giữ ở mức 2,1 trẻ em/1 phụ nữ - tỷ lệ đảm bảo sự tái sinh của dân số. 2. Dự báo thị trường lao động Từ tổng dân số ban đầu và các chỉ số dân số khác, ví dụ như tỷ lệ sinh, tỷ lệ chết, tỷ lệ di cư, tổng dân số trong tương lai, bao gồm cả dân số trong độ tuổi lao động (tức là từ 15 đến 59 tuổi), sẽ được dự báo. Bên cạnh đó, ta coi số lượng lao động là một tỷ lệ nào đó của dân số trong độ tuổi lao động và dựa vào những biến đổi của tỷ lệ này trong quá khứ, ta có thể dự đoán được số lượng lao động trong tương lai. Số lượng lao động không có việc làm được tính bằng cách lấy dân số trong độ tuổi lao động trừ đi số lượng lao động có việc làm (Hình 5). 10
  15. Hình 5: Phương pháp dự báo thị trường lao động Dân số trong độ Tổng dân số Tỷ lệ sinh, chết, di Tổng dân số tuổi lao động dự dự báo cư... ban đầu báo Tỷ lệ tham Dân số trong tuổi Số lượng người làm việc (tính bằng % của dân số gia lực lượng lao động ban đầu trong độ tuổi lao động) lao động Số thất nghiệp Số lao động có (dự báo) việc làm (dự báo) Nguồn:Tổ chức Lao động quốc tế (1998) Thông thường, số người đang làm việc bao gồm cả những người ngoài độ tuổi lao động, nhưng sự tham gia lực lượng lao động của họ không đáng kể hoặc không được thống kê đầy đủ nên trong dự báo, ta có thể bỏ qua số lượng người lao động này. Bên cạnh đó, số người lao động cũng có thể được dự báo bằng cách chia kết quả dự báo GDP thực tế cho kết quả dự báo tương ứng về năng suất lao động. Tuy nhiên, năng suất lao động thường không được thống kê chính xác hoặc đầy đủ nên ta không sử dụng phương pháp này. 3. Dự báo kinh tế vĩ mô Tăng trưởng kinh tế và lạm phát Trong ngắn hạn, tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm có thể tính toán dựa trên những dự báo trong ngắn hạn về chiến lược kinh tế quốc gia. Trong dài hạn, tốc độ tăng trưởng GDP được coi là một nhân tố ngoại sinh. Các giả định khi dự báo GDP trong cả ngắn hạn và dài hạn được liên kết với nhau bằng phương pháp nội suy. GDP danh nghĩa được tính bằng cách nhân GDP thực tế với chỉ số điều chỉnh GDP của từng năm. Chỉ số điều chỉnh GDP trong quá khứ được tính bằng cách lấy GDP danh nghĩa chia cho GDP thực tế. Sự thay đổi của chỉ số điều chỉnh GDP thường được dự đoán dựa trên những giả định nào đó về lạm phát trong tương lai. Tỷ lệ lạm phát thể hiện sự gia tăng của mức giá chung trong nền kinh tế và thường được thể hiện bằng Chỉ số giá hàng tiêu dùng (CPI). Giả định về sự thay đổi của lạm phát trong tương lai hết sức quan trọng đối với hoạt động dự báo thống kê của hệ thống hưu trí nếu như tất cả mức hưởng của hệ thống này được chỉ số hoá theo giá cả của nền kinh tế. Dự báo về lạm phát có thể dựa trên chiến lược kinh tế mà quốc gia đang theo 11
  16. đuổi cùng với các chính sách điều chỉnh của nó. Tuy nhiên, một điều cũng nên lưu ý là, trong đánh giá thống kê, tỷ lệ lạm phát cũng là một nhân tố ngoại sinh của mô hình. Lương và Lãi suất Trong dự báo nguyên trạng, mức lương dự báo được dựa trên chính sách của chính phủ, tức là dựa trên tín hiệu của mức lương cơ bản (hay mức lương tối thiểu). Do đó, tiền lương được dự báo dựa trên sự thay đổi trong quá khứ của mức tiền lương cơ bản. Trong ngắn hạn, tiền lương có thể được dự báo dựa trên những thay đổi gần đây nhất của tiền lương cơ bản. Tuy nhiên, trong trung hạn và dài hạn, do tính chất của phương pháp dự báo thống kê nên tốc độ tăng của tiền lương thực tế được coi là xấp xỉ với mức tăng của năng suất lao động - chỉ số được tính bằng cách lấy tốc độ tăng trưởng GDP thực tế trừ đi tốc độ tăng trưởng của số lượng việc làm. Tổng mức lương chi trả được tính bằng cách nhân mức lương trung bình của một lao động với số lao động. Đối với hệ thống hưu trí, tổng mức thu của hệ thống được tính bằng mức đóng trung bình nhân với số lượng người đóng. Mức hưởng trung bình có thể được điều chỉnh theo sự thay đổi của mức đóng. Lãi suất có thể được dự báo dựa trên báo cáo của ngân hàng trung ương. Bên cạnh đó, nếu nền kinh tế thể hiện hiệu quả động, tức là lãi suất cao hơn tốc độ tăng dân số cộng với tốc độ tăng GDP bình quân đầu người tại trạng thái dừng dài hạn, thì mức lãi suất dự báo bình quân cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đối với khoản dự trữ của hệ thống hưu trí, mức lãi bình quân phụ thuộc vào các khoản đầu tư trong quá khứ và sự thay đổi của lãi suất trên thị trường tài chính. 4. Dự báo tài chính của hệ thống hưu trí Việc dự báo tài chính của hệ thống hưu trí phụ thuộc vào các chỉ số như số người đóng góp cho hệ thống (số người thực sự tham gia hệ thống) và mức đóng trung bình của những người này. Tương tự như vậy, quyết định đến dự báo tài chính còn có các chỉ số như số lượng người hưởng, mức hưởng, các chỉ số thu nhập và cách thức chỉ số hoá (theo lạm phát hay theo mức lương cơ bản). Cuối cùng, mức lãi đầu tư của khoản dự trữ từ hệ thống, các khoản thu nhập và chi phí khác. Số lượng người đóng góp Số lượng người buộc phải tham gia vào hệ thống hưu trí theo quy định của chính phủ có thể được dự báo bằng cách tính theo một tỷ lệ nào đó của số người đang lao động đã được dự báo trước đó. Đối với hệ thống hưu trí Việt nam, có ba loại hình mà ta phải dự báo, đó là (i) công chức nhà nước, bao gồm cả lực lượng vũ trang, (ii) lao động làm việc tại các doanh nghiệp nhà nước, và (iii) lao động làm việc trong khu vực tư nhân phù hợp với quy định của chính phủ. Những con số này được dự báo bằng cách tính theo tỷ lệ tương ứng với các đối tượng trong các khu vực kinh tế của nền kinh tế. 12
  17. Dựa trên tính toán về số lượng người có thể tham gia vào hệ thống hưu trí theo quy định của chính phủ, ta có thể tính số lượng người thực sự tham gia vào hệ thống dựa trên dự báo về tỷ lệ thực hiện tương ứng của các khu vực kinh tế. Về nguyên tắc, những con số này phải được cộng thêm với số lượng người mới gia nhập hệ thống và trừ đi số người rời khỏi hệ thống (chết hoặc không tiếp tục được hưởng). Tuy nhiên, trên thực tế, số liệu về sự thay đổi này thường không đầy đủ hoặc không được kịp thời cập nhật nên để đơn giản khi dự báo, chúng ta giả định rằng tốc độ tăng của số người mới tham gia và số người rời khỏi hệ thống khá ổn định. Chênh lệch giữa số người phải tham gia hệ thống theo quy định của chính phủ với số người thực sự tham gia vào hệ thống được gọi là số người không chủ động tham gia hệ thống (Hình 6). Hình 6. Dự báo số người đóng góp cho hệ thống Số lượng Số lượng người thực công chức Số lượng Tỷ lệ thực hiện sự đóng góp (dự báo) công chức Tỷ lệ trong lực vào hệ lượng lao động ban đầu thống Số lượng Số lượng Số lượng lao lao động người thực động trong Tỷ lệ trong l ực trong SOEs Tỷ lệ thực hiện sự đóng SOEs lượng lao động (dự báo) góp vào hệ thống Số lượng Số lượng lao Số lượng người thực động khu vực lao động sự đóng tư nhân Tỷ lệ thực hiện ban đầu Tỷ lệ trong lực góp vào hệ (dự báo) lượng lao động của khu thống vực tư nhân Số lượng người phải tham gia Số lượng người theo quy định thực sự tham gia Số lượng người không chủ động tham gia Nguồn: Tổ chức lao động quốc tế (1998) Số lượng người thụ hưởng Để dự đoán được số lượng người thụ hưởng, thông thường ta sử dụng bảng sống của dân số để dự báo. Bảng sống thể hiện xác suất chết của giới tính và nhóm tuổi khác nhau (xem phần Phụ lục). 13
  18. Đối với hệ thống hưu trí hiện nay của Việt nam, có hai loại đối tượng thụ hưởng là những người thuộc hệ thống trước năm 1995 và những người thuộc hệ thống sau năm 1995. Những người thuộc hệ thống trước hiện chỉ còn người hưởng, và số lượng này sẽ giảm theo thời gian vì không có người mới tham gia hệ thống, số người rời khỏi hệ thống tăng lên. Ngược lại, số lượng người thuộc hệ thống sau có thể tăng lên do có người mới tham gia vào hệ thống. Vì vậy, việc dự báo số người hưởng của hệ thống hưu trí Việt nam cần phải được phân tách cho hai loại đối tượng thụ hưởng này. Số người thuộc hệ thống trước năm 1995 • Số lượng người thụ hưởng từ về hưu, tai nạn lao động và mất sức lao động được dự báo dựa trên bảng sống của tổng dân số. • Số lượng người hưởng tử tuất cũng có thể sử dụng bảng sống để dự đoán. Tuy nhiên, số lượng người rời khỏi hệ thống do không còn thuộc diện được hưởng hoặc chết được coi là thay đổi với tốc độ ổn định. Số người thuộc hệ thống sau năm 1995 Cách dự báo số lượng người hưởng của hệ thống sau năm 1995 dựa trên các công thức tính toán được trình bày ở phần Phụ lục và tính theo từng năm. Cách thức tính toán này cũng có thể áp dụng cho nhóm người tham gia theo nhóm tuổi 5 năm theo các giả định nhất định. Chú ý rằng, người về hưu thuộc cả hệ thống trước và sau năm 1995 đều được chi trả cho các khoản chăm sóc y tế nên những chi phí này có thể dự báo theo tỷ lệ nào đó trong tổng chi tiêu cho hưu trí dựa trên thống kê trong quá khứ. • Số lượng người về hưu (dự báo) bằng tổng của (i) số lượng người dự báo tiếp tục được hưởng chế độ hưu trí và (ii) số lượng người dự báo sẽ được hưởng chế độ hưu trí. • Số lượng người tai nạn lao động và mất sức lao động được dự báo dựa trên bảng sống của tổng dân số và xác suất bị tai nạn và mất sức lao động. Lương trung bình và mức hưởng trung bình Dự báo mức lương trung bình của người đóng góp và mức hưởng trung bình của người hưởng lợi được thực hiện dựa trên thống kê quá khứ của các mức lương này. Trong dự báo nguyên trạng, mức lương và mức hưởng trung bình được điều chỉnh theo sự thay đổi của mức lương cơ bản (lương tối thiểu). Tuy nhiên, trong phần kiểm định độ nhạy, các mức lương và hưởng này được điều chỉnh theo chỉ số lạm phát. Đầu tư của phần dự trữ quỹ Phần dự trữ của quỹ sẽ được đầu tư vào các nguồn khác nhau. Một nhân tố quan trọng tác động và thể hiện hiệu quả của việc đầu tư là lãi suất. Như đã nói ở trên, lãi suất có thể sử dụng từ các dự báo về nền kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, ở Việt nam, các khoản đầu tư phần dự trữ của quỹ hưu trí được quản lý và quy định hết sức chặt chẽ nên 14
  19. mức lãi suất thu được có thể dự đoán dựa trên mức lãi suất của các khoản đầu tư trong quá khứ và theo quy định của chính phủ. Các chi phí và thu nhập khác Các chi phí khác, ví dụ như chi phí hành chính, chi phí chuyển khoản..., và các khoản thu nhập khác, ví dụ như trợ cấp của chính phủ cho đào tạo, xây dựng cơ bản... được dự báo bằng một tỷ lệ nhất định của tổng mức chi phí hoặc thu nhập. Các chỉ số tài chính của hệ thống Có rất nhiều chỉ số tài chính của hệ thống cần phải được xem xét vì chúng cho ta biết trạng thái tài chính của hệ thống trong suốt thời kỳ dự báo. Tỷ lệ chi phí PAYG: còn gọi là tỷ lệ đóng góp bền vững và được tính bằng cách lấy tổng mức chi tiêu của hệ thống chia cho tổng mức thu của hệ thống. Kết quả của mối quan hệ này là một tỷ lệ đóng góp cần thiết để duy trì quỹ ở trạng thái cân bằng theo thời gian. Tỷ lệ đóng góp này bao gồm hai cấu thành, đó là tỷ lệ phụ thuộc của hệ thống – là tỷ lệ giữa số người thụ hưởng và số người đóng góp – và tỷ lệ thay thế - tỷ lệ giữa mức hưởng với mức lương cơ sở. Tỷ lệ đóng góp trung bình (GAP): chỉ số này thể hiện mức đóng góp cần thiết để duy trì sự cân bằng của quỹ trong một khoảng thời gian nhất định nào đó, ví dụ như 10 năm chẳng hạn. Chỉ số này rất tiện dụng khi chúng ta so sánh các cách thức điều chỉnh khác nhau của hệ thống. Tuy nhiên, tỷ lệ đóng góp trung bình đòi hỏi một thị trường tài chính ổn định và triển vọng. Nói cách khác, nó đòi hỏi phải có một môi trường kinh tế khá vững mạnh thì mới có thể dự báo chính xác được. 5. Kiểm tra độ nhạy Các kết quả dự báo thống kê đối với hệ thống hưu trí không thể cho ta kết quả thực sự chính xác được vì có thể có quá nhiều giả định đơn giản hoá vấn đề hoặc mô hình sử dụng không chính xác hoặc phù hợp, và các biến số sử dụng có thể là kết quả của những nhân tố không thể dự báo được. Có nhiều khả năng dẫn đến các kết quả không chính xác, ví dụ như thiếu số liệu hoặc số liệu đầy đủ nhưng không tin cậy. Vì vậy, kiểm tra độ nhạy có thể cho ta biết được những khác biệt giữa dự báo với thực tế có thể phát sinh. Việc kiểm tra độ nhạy trong mô hình thống kê của hệ thống hưu trí thường là công việc tính toán lại các biến số quan trọng, ví dụ như tốc độ tăng trưởng kinh tế, số lượng lao động, tốc độ tăng giá và lương thực tế, lãi suất của các khoản đầu tư... 15
  20. Đối với tình trạng tài chính của hệ thống hưu trí Việt nam, bài viết này thực hiện việc kiểm tra độ nhạy của tỷ lệ tham gia lực lượng lao động, tỷ lệ thực hiện tham gia hệ thống hưu trí, cách thức chỉ số hoá lương và lãi suất của các khoản đầu tư phần dự trữ. IV. KẾT QUẢ DỰ BÁO THỐNG KÊ Bằng việc sử dụng mô hình nêu trên, bài viết tìm ra một số kết quả sau đây. Thứ nhất, số người hưởng của hệ thống trước năm 1995 giảm từ 2,2 triệu người vào năm 2000 xuống 713.000 người vào năm 2025 và 32.000 vào năm 2050. Với dự báo đó, tổng chi tiêu của hệ thống này tương ứng là 13.980 tỷ đồng vào năm 2000, 15.272 tỷ đồng vào năm 2025, và sau đó giảm rất nhanh xuống mức 1.906 tỷ đồng vào năm 2050. Thứ hai, đối với hệ thống sau năm 1995, số lượng người thực sự đóng góp cho hệ thống tăng từ 4,5 triệu người vào năm 2000 lên 7,6 triệu người vào năm 2025 và 10,3 triệu người vào năm 2050. Tương tự, số lượng người hưởng tăng từ 243.000 người vào năm 2000 lên 1,7 triệu người vào năm 2025 và 4,1 triệu người vào năm 2050. Do đó, tỷ lệ phụ thuộc của hệ thống tăng từ 5,4% vào năm 2000 lên 23% vào năm 2025 và 45% vào năm 2050. Hơn nữa, tỷ lệ thay thế sẽ tăng từ 56,5% vào năm 2000 lên tương ứng 57,7% và 59,3% vào năm 2025 và 2050. Thứ ba, kiểm tra độ nhạy được thực hiện với các viễn cảnh khác nhau, tức là điều kiện kinh tế có triển vọng và không có triển vọng. Sau đây là kết quả dự báo của những viễn cảnh đó xét dưới góc độ tài chính của hệ thống. Bảng 3 cho thấy mức nợ lương hưu tiềm ẩn của cả hai hệ thống khi so sánh với GDP năm 2000 đều rất cao với những mức chiết khấu khác nhau. Kết quả dự báo mức nợ lượng hưu tiềm ẩn này ngụ ý rằng nếu Việt nam tiếp tục duy trì hệ thống hưu trí PAYG với mức hưởng được xác định trước thì việc đó đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ phải chơi “trò chơi Ponzi” tốn kém và đầy nguy hiểm, đặc biệt khi xét trên quan điểm tài chính. Xét trên quan điểm xã hội, các khoản nợ lương hưu tiềm ẩn này sẽ do thế hệ lao động hiện tại và tương lai ánh chịu, và vì thế mà sự bất công bằng giữa các thế hệ khó tránh khỏi. Bảng 3. Nợ lương hưu tiềm ẩn (IPD) của hệ thống hưu trí, 2000-2050 Tỷ lệ chiết khấu IPD so với GDP năm 2000 Hệ thống trước 1995 Hệ thống sau 1995 3% 87 108 5% 66 63 6% 59 50 Nguồn:Tính toán của tác giả 16
nguon tai.lieu . vn