Xem mẫu

Xã hội học, số 3 - 1990 Hệ thống các phạm trù nghiên cứu xã hội học gia đinh1 M.S. MATXKOVSKIJ Trình độ thiết chế hóa một khoa học được xác định chủ yếu bằng sự đầy đủ, sự "trưởng thành" của bản thân bộ máy khái niệm của nó. Xã hội học Xô Viết đang ngày càng được định hướng vào việc giải quyết những vấn đề thực tiễn gay cấn và vi thế sự quan tâm đặc biệt của nó ngày càng được "giao thon" với sự quan tâm của môn khoa học khác (kinh tế học, sư phạm học, luật học v. v… ) Trong những điều kiện như vậy, việc hình thành một ngôn ngữ xã hội học nghiêm ngặt được quy đinh không phải bởi những đòi hỏi của Bự biệt lập cũng không phải bởi ý đồ muốn xây dựng một chiếc " tháp ngà " xã hội học mà là bởi logic của sự phát triển nhận thức khoa học. Sự thâm nhập rộng rãi hệ tự vựng của các bộ môn khoa học khác (trước hết là của kinh tế học và tâm lý học ) vào ngôn ngữ xã hội học - điều này vẫn thường thấy hiện nay, và cả việc làm thích ứng không phải lúc nào cũng đúng những từ vựng của ngôn ngữ thường ngày đang dẫn đến những hậu quả rất nghiêm trọng. Ở đây phải kể đến việc sử dụng các thuật ngữ khác nhau để biểu thị cùng một hiện tượng (hoặc gần như cùng một hiện tượng), chẳng hạn : chất lượng của hôn nhân, sự thành đạt của hôn nhân, hạnh phúc gia đình, thành quả của đời sống vợ chồng, mức độ cố kết của gia đình, sự ổn định của hôn nhân, mức độ hài lòng với các quan hệ gia đình. Còn phải kể đến cả việc chưa được nghiên cứu những sự phân loại lý thuyết, thứ bậc các khái niệm trong mối tương quan của chúng với các phạm trù khởi đầu. Bộ máy khái niệm của Xã hội học gia đình, cũng như đối với mọi lĩnh vực tri thức Xã hội học khác, bao gồm một phạm vì rộng rãi các khái niệm. Trong số các khái niệm đó, cần đặc biệt tách ra các phạm trù phản ánh những mặt chủ yếu trong sự vận động của gia đình. Còn các khái niệm phải " phục tùng" các phạm trù này có thể được xây dựng hoặc là trong quá trình quy giản các phạm trù then chốt hoặc là có tương quan với chúng nếu như các khái niệm này xuất hiện và được chính xác hóa nhờ việc mở rộng và đào sâu tri thức xã hội học. Theo chúng tôi, các phạm trù và khái niệm nêu sau đây là thuộc vào số các phạm trù của lý thuyết các quan hệ hôn nhân - gia đình. - Những điều kiện sống của gia đình, - Cơ cấu của gia đình. - Những chức năng của gia đình - I ối sống của gia đình - Kiểu tư tưởng của gia đinh ( hệ tư tưởng gia đình ) - Sự thành đạt trong hoạt động của gia đình - Các giai đoạn trong chu trình sống của gia đình Các phạm trù này phản ánh những khía cạnh bản chất của hôn nhân và gia đình. Chúng có liên hệ chặt chẽ với những vấn đề cơ bản mà không một nhà xã hội học nào khi nghiên cứu các quan hệ hôn nhân - gia đình lại có thể bỏ qua. Dời sống gia đình đang diễn ra trong những điều kiện nào ? (ở cấp độ xã hội nói chung và trong phạm vi môi trường xã hội gần nhất ). Những đặc trưng về vai trò, nhân cách và địa vị của các thành viên trong gia đình là gì, cơ cấu của những mối quan hệ giữa họ ra sao ? Những chức năng của gia đình trong quan hệ với xã hội và với cá nhân là như thế nào và gia đình giúp cho việc thực hiện những nhu cầu cá nhân và nhu cầu xã 1 Matxkovskij M.S. Xã hội học gia đình : Những vấn đề lý luận phương pháp luận và phương pháp hệ M.l989, trang 35 - 52. Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn Xã hội học, số 3 - 1990 hội nào ? Đặc thù hoạt động sống của các nhóm gia đình, các kiểu gia đình khác nhau là gì ? Toàn bộ các quan điểm, tâm thế, quan niệm của các tầng lớp và các nhóm xã hội khác nhau về những lĩnh vực hoạt động sống của gia đình gồm những gì và làm thế nào mà các quan điểm, tâm thế và quan niệm này ngư trị trong gia đình? Một kiểu gia đình nhất định xét từ các tiêu chuẩn có ý nghĩa xã hội sẽ đạt tới hiệu quả ở mức độ nào ? Và sau cùng, một câu hỏi chung nhất: những điều kiện cơ cấu, chức năng lối sống, hệ tư tưởng gia đình và mức độ thành đạt của đời sống gia đình sẽ biến đổi như thế nào cùng với thời gian ? Chúng ta sẽ xem xét chi tiết hơn từng phạm trù đã nêu trên trong xã hội học gia đình. Điều kiện sống của gia đình là tập hợp các nhân tố của môi trường vĩ mô (những điều kiện xã hội chung ) và của môi trường vi mô (môi trường xã hội gần nhất). Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã nhấn mạnh sự Cần thiết phải nghiên cứu gia đình trong mối liên hệ chặt chẽ với sự phát triển của xã hội và với những quan hệ kinh tế xã hội đang tồn tại trong xã hội. Việc phân tích những điều kiện chung của sự vận hành của xã hội, mà trước hết là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất như là những cơ sở cho việc nghiên cứu hoạt động sống của các phân hệ xã hội là cách tiếp cận đã được hình thành khá vững chắc trong xã hội học Mác-xít. V. I. Iadov trong khái niệm " những điều kiện xã hội chung" tách ra 4 thành tố quan trọng nhất là : - Các quan hệ kinh tế do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất chế định - Cơ cầu xã hội của xã hội - tức là sự phân chia thành các tầng--lớp xã hội, các giai cấp, sự định hình về mặt xã hội của phân công lao động xã hội đo tình trạng của lực lượng sản xuất của xã hội quy định. . . " - Các quan hệ tư tưởng - Các thiết chế xã hội 2 Cơ cấu phạm trù này đã được bổ sung và chính xác hóa trong các công trình nghiên cứu của các tác giả Xô Viết bàn về các vấn đề của lối sống. Không muốn đưa ra một tổng quan chi tiết về các công trình nghiên cứu này, chúng tôi chi dừng lại ở cách tiếp cận đối với một định nghĩa được một nhóm tác giả nêu ra 3. Dựa trên sự phân loại các điều kiện do các tác giả này đưa ra, chúng tôi sẽ chính xác hóa sự phân loại đối với Bự vận động của gia đình. Nếu chia ra các điều kiện khách quan và điều kiện chủ quan (hay là nhân tố), thì nhóm các điều kiện khách quan sẽ bao gồm : 1. Các điều kiện kinh tế -xã hội, đặc trưng cho cơ sở vật chất kỹ thuật của giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay. Mặc dù cần phải có sự nghiên cứu chuyên sâu về tham số này khi phân tích gia đình, xong có thể thấy là, trong số các điều kiện như thế cần tách riêng ra mức độ phát triển của lĩnh vực phục vụ nói chung trong toàn quốc và trong các vùng riêng biệt; mức độ phát triển của các cơ sở nuôi dậy trẻ mức độ xây dựng nhà ở; khối lượng và cơ cấu lưu chuyển hàng hóa; mức thu nhập thực tế của dân cư; trình độ phát triển của ngành y tế và bào vệ sức khỏe, số chỗ làm việc được phép xử dụng lao động nữ v. v.. . 2. Những điều kiện chính trị xã hội, đặc trưng cho hoạt động của hệ thống chính trị của xã hội xã hội chủ nghĩa. Trong văn cảnh của vấn đề đang được nghiên cứu, giữ vai trò đặc biệt là các chính sách của Đảng và cơ quan nhà nước, hoạt động của các công đoàn, đoàn thanh niên và các tổ chức xã hội khác cố liên quan đến gia đình với mục đích làm ổn định và nâng cao tiềm năng giáo dục cửa gia đình v. v.. . 3. Những diều kiện văn hóa xã hội và hệ tư tưởng đặc trưng cho : a) Hệ thống các chuẩn mực pháp lý, luân lý đạo đức đang hoạt động trong xã hội. Các giá trị, lý tưởng, các kiểu mẫu hoạt động và ứng xử vốn có đối với lối sống xã hội chủ nghĩa, tức là có tính chất chuẩn mực đối với gia đình. Ở đây có thể nói tới tập hợp các giá tri và các chuẩn mực ứng xử và quan hệ gia đình được xã hội tán đồng hoặc ít ra là chấp nhận được về mặt xã hội. 2 Xem : ladow V. 1 Nghiên cứu Xỡ hội học. Phương pháp luận, chương trình, các thủ pháp. M. 1972, tr. 36 - 37 3. Xem Levukin I. T, Dnzde T. M, Orlova E. A, Rejzema la. V. Những vấn đề nghiên cứu xã hội học cụ thể về những xu hướng chủ yếu phát triển lồi sồng xã hội xã hội chủ nghĩa (Quan niệm. bộ máy khái niệm, các phương pháp nghiên cứu ) Trong thời và những xu hướng chủ yếu và sự phát triển lối sống Xô Viết. 1980. Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn Xã hội học, số 3 - 1990 Cần phải xem xét những quan điểm bảo thủ và thậm chí cả những quan điểm phản động vẫn còn tồn tại ở cấp độ môi trường vi mô, bởi vì các quan điểm này không phải là vốn có đối với toàn xã hội mà chỉ cổ ở những nhóm hoặc cá nhân riêng biệt. Mặt khác, khi phân tích gia đình cũng cần tính đến đặc thù của các chuẩn mực và giá trị được xã hội tán đồng trong các cộng đồng văn hóa xã hội khác nhau và ở những vùng khác nhau của đất nước, b) Các phương thức lưu giữ và phân bố thông tin xã hội, tri thức xã hội, số lượng và mức tiếp cận được của các cơ sở văn hóa và các giá trị văn hóa. ò đây trong các nghiên cứu về gia đình, điều quan trọng là phải tính đến các yếu tố như : việc đưa vào trường-phổ thông các môn đạo đức học và tâm lý học gia đình; tần số, khối lượng và nội dung các buổi phát thanh và truyền hình về đề tài gia đình, các tài liệu về đề tài này trên các báo và tạp chí, trong hệ thống tuyên truyền và cổ động miệng, số lượng và nội dung các cuốn sách, các vở kịch đề cập đến những vấn đề của gia đình v. v.. . 4. Những điều kiện có liên quan tới sự phân bố dân cư theo các dấu hiệu nhân khẩu học, dân tộc học, giai cấp xã hội, nghề nghiệp học vần, các nhóm xã hội. Trong nhóm các điều kiện này có ý nghĩa đặc biệt là các chỉ báo : số lượng và nhịp độ tăng dân cư ( ít ra là để xác định các mục tiêu chủ yếu của chính sách gia đỉnh ), thành phần giới tính, độ tuổi và phân bố dân cư theo các vùng và các kiểu khu cư trú và đặc biệt là các quá trình di cư, sự phân bố dân cư theo các cộng đồng lãnh thổ và các cộng đồng dân tộc v. v.. Trong một ý nghĩa nhất định, nhóm các điều kiện này đồng nhất với các quan hệ nhân khẩu học hiện có trong xã hội tại một giai đoạn phát triền nhất định của nó. 5. Những diều kiện sinh thái, đặc trưng cho những đặc điểm địa lý- tự nhiên ( trong số đó có các điều kiện khí hậu ) của môi trường cư trú, mức độ đô thị hóa và những điều kiện vệ sinh của hoạt động sống sự bão hòa số dân của môi trường. Các điều kiện tám lý xã hội, đặc trưng cho tình trạng chung của ý thức con người, quan hệ của họ đối với thế giới và môi trường trực tiếp bao quanh được các tác giả trên sắp xếp vào nhóm các điều kiện chủ quan của hoạt động sống. Ở đây chúng bao gồm những tâm thế xã hội, những lợi ích và các định hướng giá trị quy định nguyên tắc sống và hành vi của con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Nhưng tâm thế, lợi ích và định hướng giá trị trong lĩch vực các quan hệ hôn nhân-gia đình cần phải giữ một vai trò đặc biệt. Đan bện vào tấm lưới lớn của ý thức xã hội, trong khuôn khổ của nghiên cứu gia đình, những điều kiện nói trên đóng vai trò một khách thể nghiên cứu độc lập, mà người ta tách chúng ra thành một phạm trù độc lập : " Kiểu tư tưởng của gia đình". Sự phân loại như trên hằn là chưa thật ổn (ít ra là đối với các nghiên cứu về gia đình). Phần nào nó có những điểm giao chéo nhau (Ví dụ, những điều kiện kinh tế - xã hội và những điều kiện thuộc hệ tư tưởng). Đáng hoài nghi cả việc hệt trình độ đô thị hóa vào nhóm các điều kiện sinh thái chứ không phải những nhân tố văn hoá xã hội v. v.. Vì thế, đòi hỏi phải có sự chính xác hóa và xử lý thêm đối với sự phân loại này. Tuy nhiên việc sử dụng nó dưới một dạng nào đó là bổ ích đối với việc nghiên cứu phức hợp về gia đình. Những điều kiện xã hội chung tác động lên hoạt động sống của gia đình thường phải thông qua các nhân tố của môi trường vi mô - những điều kiện sổng ở cấp độ môi trường quần cư (điểm dân cư cụ thể mà gia đình đang sống) và môi trường xã hội gần nhất bao quanh. Gia đinh hoạt động không phải chỉ trong những điều kiện vật chất nhất định, không chỉ tham gia vào các mối quan hệ qua lại với các thiết chế và tổ chức khác nhau, mà còn thực hiện các tiếp xúc với bà con họ hàng, hàng xóm, bạn bè. Trong sự hoạt động cửa gia đình, những đặc trưng nhân khẩu của môi trường quần cư ( thành phần giới tính, độ tuổi ), mức độ đô thi hóa của nó v. v.. là cực kỳ quan trọng. Những đặc trưng cụ thể của môi trường vi mô bao gồm : - Mức độ đô thị hóa môi trường cư trú của gia đình ( kiểu điểm cư trú - thành thị, nông thôn, số dân v. v.. ). Những đặc trưng về khả năng công ăn việc làm của dân cư ( kiểu loại các xí nghiệp của nền kinh tế quốc dân, trình độ chuyên môn và học vấn cần có của người lao động, việc sử dụng chủ yếu là lao động nam hay nữ, sự thiếu hụt hay dư thừa sức lao động ). - Cơ cấu nhân khẩu của môi trường cư trú; Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn Xã hội học, số 3 - 1990 - Những đặc trưng về số lượng và chất lượng của lĩnh vực phục vụ. Khoảng cách chấp nhận được của các cơ sở nuôi dạy trẻ Khi phân tích khái niệm "môi trường xã hội gần nhất", có thể tách ra những đặc xã hội chủ yếu (trong đó có các đặc trưng dân tộc), các đặc trưng nghề nghiệp - xã hội và nhân khẩu - xã hội cửa những bạn bè, người quen, bà con họ hàng và đại diện của các nhóm chuyên viên cũng như các chuẩn mực và giá trị của họ trong lĩnh vực quan hệ hôn nhân gia đình, về hoạt động nghề nghiệp của phụ nữ, tính chất của sự nghỉ ngơi gia đình, tính chất của nhu cầu gia đình Đến lượt nó, những yếu tố của môi trường vi mô lại ảnh hướng tới những điều kiện hoạt động sống của gia đình trong khuôn khổ điều kiện ở của nó. Kiểu điều kiện ở (thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi ở nước ngoài và gần đây cả trong sách báo Xô Viết) được định hình về mặt thực nghiệm nhờ các câu hỏi sau: "Gia đình đang sống trong một nơi ở biệt lập - ngôi nhà căn hộ, căn phòng - gồm những ai? "và" Gia đình đang sống trong những điều kiện sinh hoạt - nhà ở như thế nào? "Kiểu điều kiện ở được xác định thông qua các đặc trưng sau: Thành phần và cơ cấu thân tộc của gia đình Những đặc trưng về nhà ở (diện tích ở, số phòng, các tiện nghi sinh hoạt.. . ) Các thành phần, các tham số, thuộc tính, yếu tố của môi trường vật thể "của gia đình, hiện có trong khuôn khổ của điều kiện ở: Các đồ dùng sinh hoạt và vãn hóa, phần đất riêng của gia đình. Cơ cấu của gia đình là toàn bộ các quan hệ giữa các thành viên của gia đình hao gồm từ quan hệ ruột thịt cho tới hệ thống các quan hệ tinh thần, đạo đức, trong đó có các quan hệ quyền lực và uy tín v. v. Bên cạnh cơ cấu thân tộc (ruột thịt) của gia đình, còn có những "nhát cắt" chủ yếu sau đây của cơ cấu gia đình. a) Cơ cấu quyền lực, bao gồm tương quan giữa quyền lực hình thức và sự đứng đầu không hình thức; b) cơ cấu giao tiếp mà khi nghiên cứu nó, quan trọng nhất là việc xác lập những kênh giao tiếp giữa các cá nhân và tính chất hoạt động của các kênh này; c) cơ cấu vai trò có liên quan tới việc mỗi thành viên trong gia đình phải thực hiện một nhóm các vai trò xác đinh và hệ thống các kỳ vọng vai trò của họ. Việc phân tích cơ cấu quyền lực đòi hỏi phải xem xét tính chất của các quyết định chủ yếu trong gia đình, đặc biệt cần làm rõ xem các quyết định này mang tính chất dân chủ hay quyền uy độc đoán. Vì thế, cần tách ra cái gọi là cơ cấu quyền uy, và tương ứng có các gia đình mang tỉnh chất quyền uy, trong đó có điều đặc trưng là vợ phải phục tùng chồng tuyệt đối và thông thường có một kỷ luật nghiêm ngặt trong quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Các gia đình dân chủ thì khác. Nổ dựa trên cơ sở phân phối các vai trò, trước hết lâm sao cho phù hợp với những phẩm chất cá nhân và năng lực của vợ và chồng trong việc tham gia của mỗi người vào việc thông qua các quyết định, phân chia trách nhiệm, chú trọng tới giáo dục con cái bằng cách thuyết phục chứ không phải cưỡng bức. Cơ cấu quyền lực cổ ảnh hưởng lớn tới sự phân chia các chức năng trong gia đình, tới việc thực hiện các vai trò gia đình đối với mỗi thành viên trong gia đình cũng như cổ ảnh hưởng tới khả năng xảy ra xung đột giữa vợ và chồng. Cơ cấu giao tiếp cũng có ảnh hưởng quan trọng tới tất cả các mặt hoạt động của gia đình bởi vì tính chất của các vấn đề được bàn bạc, trình độ phát triển và cường độ của những giao tiếp tinh thần giữa hai vợ chồng cố trong giai đoạn hình thành gia đình lẫn ở những giai đoạn sau này của các quan hệ hôn nhân - gia đình đều ảnh hưởng đến mức độ bền vững của nhóm gia đình và sự hài lòng với cuộc hôn nhân. Một cơ cấu thích hợp các quan hệ giao tiếp giữa bố mẹ và con cái sẽ là tiền đề quan trọng để gia đình thực hiện thành công chức năng giáo dục của nó. Cơ cấu vai trò nói lên đặc trưng của hệ thống tác động qua lại và các quan hệ của các thành viên gia đình tương ứng với các chỉ thị vai trò dựa trên các truyền thống và phong tục hiện có trong xã hội nói chung. trong môi trường xã hội gần nhất và được củng cố nhờ kinh nghiệm cá nhân của các thành viên gia đình. Nhiều khi các chỉ thị vai trò cũng cố căn cứ là các chuẩn mực pháp lý qui đinh những quyền và nghĩa vụ qua lại giữa cặp vợ chồng, của cha mẹ và con cái. Những quan hệ vai trò chủ yếu trong gia đình - chồng và vợ, cha Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn Xã hội học, số 3 - 1990 (mẹ) và con cái, anh em trai và chị em gái, bố chồng (mẹ chồng), bố vợ (mẹ vợ) và nàng dâu (con rể). . . được đặc trưng bởi những đặc điểm của các quan hệ qua lại tùy thuộc vào kiểu gia đình (truyền thống hay hiện đại). Các vai trò truyền thống, theo đó người phụ nữ chăm nom nhà cửa, sinh đẻ và nuôi dưỡng con cái, còn người chồng thì là chủ gia đình, thường là người sở hữu cá thể về ruộng đất và tài sản, bảo đảm sự độc lập về kinh tế gia đình - những vai trò như vậy thường xuyên bị chuyển thể. ngày nay tuyệt đại đa số phụ nữ ở một số nước và một phần đáng kể phụ nữ trong một số nước khác đang tham gia vào hoạt động sản xuất, đăm bảo cho gia đình về phương diện kinh tế và tham gia các quyết định chung của gia đình. Điều này đã có ảnh hưởng tới tất cả các mặt hoạt động của gia đình, góp phần giải phóng và phát triển cá nhân người phụ nữ - người mẹ ảnh tới sự bình đảng các quan hệ vợ chồng, song đồng thời cũng có tác động tới hành vi nhân khẩu, dẫn. đến sút giâm về tỷ lệ sinh và tăng tỷ lệ ly hôn. Theo chúng tôi, trong việc nghiên cứu hệ vấn đề hôn nhân - gia đình, cần tách ra 4 vai trò chính của cánh.ân: đối với xã hội nói chung (vai trò thành viên của xã hội), đối với hoạt động sản xuất (vai trò người sản xuất), đối với các tiếp súc không hình thức của anh ta: với bạn bè người quen, hàng xóm ( vai trò đồng chí) và với những người thân thuộc (vai trò gia đình)4. Đương nhiên là đây chưa phải là tập hợp đầy đủ các vai trò. Sự phân chia vừa nói cần phải có một sự phân loại bổ sung (chẳng hạn, vai trò thành viên xã hội có thể lại được chia thành vai trò của người tiêu dùng của cải vật chất, vai trò người tiêu dùng văn hóa tinh thần v. v., vai trò người sản xuất tách ra thành vai trò người lao động thành viên của một tập thể sản xuất, vai trò gia đình thì có thể gồm vai trò thành viên trong gia đình của cha mẹ hay chỉ là thành viên của chính gia đình mình ). Vì thế ở đây xuất hiện vấn đề lựa chọn những đặc trưng cụ thể, mô tả tính chất của việc hoàn thành những vai trò nào đó. Chẳng hạn, một trong số những chi báo nói lên việc một cá nhân thực hiện vai trò thành viên của xã hội là tính tích cực xã hội của anh ta, còn vai trò của người sản xuất - đó là năng suất lao động hay là chất lượng sản phẩm do anh ta làm ra. Xã hội đưa ra những đòi hỏi nhất định - những kỳ vọng có liên quan tới việc thực hiện những vai trò nào đó, và sự tương ứng của những kỳ vọng này với hành vi hiện thực là một trong những vấn đề quan trọng nhất cần được nghiên cứu. Trong việc nghiên cứu các quan hệ hôn nhân gia đình, rất cố ý nghĩa là việc cụ thể hóa các vai trò của các thành viên gia đình và xem xét mối liên hệ của chúng với các vai trò khác, ở bên ngoài gia đình. 4 Xem: Khanrev A. G., Matxkovskij M. S Gia định như lỡ nhân tố tái tạo cơ cấu xã hội của xã hội xã hội chú nghĩa M. 1986. tr. 35-42. Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn