Xem mẫu

  1. MỤC LỤC I. Tổng quan về thời bao cấp____________________2 1.Khái lược về thời bao cấp_____________________2 2.Thời bao cấp ở Hà Nội _______________________3 II. Đời sống của cán bộ công nhân viên chức tại Hà Nội.__________________________________________3 1. Đời sống vật chất.___________________________3 1.1 Bộ phận cán bộ công nhân viên chức sống nhờ lương. ...............................................................................3 1.2 Bộ phận cán bộ công nhân viên chức sống nhờ lương và nhờ lợi ích khác..............................................18 2. Đời sống tinh thần.__________________________23 III. Những kết quả nghiên cứu,ý kiến đánh giá, bình luận____________________________________25 Tư liệu tham khảo____________________________29 Sách tham khảo_______________________________29 Website______________________________________29 1
  2. I. Tổng quan về thời bao cấp 1.Khái lược về thời bao cấp Thời bao cấp là tên gọi được sử dụng tại Việt Nam (Cụm từ này trong tiếng Anh có nghĩa là “ SUBSIDY ECONOMIC” có nghĩa là trợ cấp, phụ cấp kinh tế) để chỉ một thời kì mà hầu hết các sinh hoạt kinh tế diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch – một đặc điểm của nền kinh tế theo chủ nghĩa cộng sản. Hàng hoá được nhà nước phân phối theo chế độ tem phiếu, hàng hóa không được mua bán tự do trên thị trường, không được phép vận chuyển tự do hàng hoá từ địa phương này sang địa phương khác. Phân phối hàng hoá hạn chế trao đổi bằng tiền mặt. Chế độ hộ khẩu được thiết lập theo thời kì này để phân phối lương thực, thực phẩm theo đầu người. 1 Lương đôi khi cũng trả bằng hiện vật. Thời kì này, nhà nước thực hiện bao cấp trong cả nước ở 7 lĩnh vực: việc làm, nhà cửa, ăn ở, sinh đẻ, học tập, ăn mặc, đi lại. Mặc dù chế độ bao cấp đã tồn tại ở miền Bắc trước năm 1975, song thời bao cấp thường được dùng để chỉ sinh hoạt kinh tế của nước Việt Nam ở giai đoạn từ đầu 1976 đến năm 1986, tức là trước thời kì đổi mới. Đây đ ược coi là giai đoạn th ất bại và tù đọng nhất của nền kinh tế Việt Nam trong thế kỷ 20. Nguyên nhân dẫn đến thời bao cấp: Việt Nam thế kỷ XX Chiến Tiền Chiến tranh Thời Đổi tranh Việt- chiến Việt Nam bao cấp mới Pháp Theo sơ đồ trên, ta có thể thấy: bao cấp có xuất phát điểm là hoàn cảnh th ời chi ến, một cuộc chiến tranh chúng ta luôn luôn ở thế yếu và phải có những nỗ lực vượt bậc. “ Tất cả cho tiền tuyến”.” Thóc không thiếu một cân – Quân không thiếu một người”. Và dường như để tiến hành chiến tranh, xã hội cần phải kết lại thành một khối rắn chắc, mà muốn thế, cần ghép cho mọi người vào tổ chức, nói theo một danh t ừ c ủa lịch sử là “đoàn ngũ hoá” họ. Việc phân phối theo kiểu bao cấp chỉ là kết quả của một 1 http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%9Di_bao_c%E1%BA%A5p 2
  3. quá trình lớn lao. Tất cả những gì thuộc về con người phải được quản lý. Sau này, khi chiến tranh kết thúc, nhà nước vẫn chủ trương, giữ cơ chế bao cấp này. Như vậy, ta thấy được những năm của thời kì bao cấp cũng là những năm chúng ta phải khắc phục hậu quả của 30 năm chiến tranh ác liệt, cũng là thời kì chúng ta phải gồng mình lên tiến hành cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam và phía Bắc của Tổ quốc. Do vậy, ta gặp khó khăn về nhiều mặt: kinh tế - xã hội, giáo dục, quốc phòng…Và những khó khăn này đã tác động trực tiếp đến đời sống của người dân Việt Nam thời đó. 2.Thời bao cấp ở Hà Nội Hà Nội là một góc của đất nước nhưng lại là một góc tinh tuý nên từ đây, ta có thể phần nào soi chiếu ra rộng hơn về cuộc sống chung của đất nước ngày ấy. Như chúng ta đã biết, Hà Nội là một đô thị lớn tập trung nhiều thành phần dân c ư như tiểu thương, người lao động, công nhân viên chức…trong đó thành phần là cán b ộ công nhân viên chức chiếm số đông. Nhân lực của lực lượng cán bộ công nhân viên chức bao gồm 2 bộ phận. Một là từ đội ngũ cán bộ công nhân viên chức ra đời sau cách m ạng tháng 8. Hai là b ộ phận công chức cũ từng làm việc trong vùng tạm chi ến trước đây, sau đó tiếp qu ản mi ền Bắc, được lưu dụng.2 Cuộc sống của những cán bộ công nhân viên chức ở Hà Nội thời bấy giờ có nhiều nét tương đồng với cuộc sống của những người dân trên c ả n ước. Tuy nhiên, cuộc sống của họ cũng có nhiều nét khác biệt với cuộc sống c ủa ng ười dân bình th ường không làm việc cho các cơ quan nhà nước. Nét khác biệt này thường là do đặc thù công vi ệc tạo nên nhưng nhìn chung cuộc sống của họ khá vất vả. Đa phần là sống thi ếu th ốn, gặp nhiều khó khăn. Chỉ có một bộ phận là cán bộ cấp cao hay là những công nhân viên ch ức có công việc “ thời thượng” thì sống thoải mái, đầy đủ và có nhi ều quyền lợi. Họ sống t ập trung chủ yếu ở 4 quận nội thành là ; quận Hoàn Kiếm, quận Đống Đa, qu ận Hai Bà Tr ưng và quận Ba Đình. Trong đó tập trung đông nhất ở qu ận Ba Đình. Ngoài ra m ột s ố ng ười sống ở các huyện ngoại thành. II. Đời sống của cán bộ công nhân viên chức tại Hà Nội. 1. Đời sống vật chất. 1.1 Bộ phận cán bộ công nhân viên chức sống nhờ lương. Ở thời đó, công nhân viên chức là bộ phận chiếm số đông ở Hà Nội. Tuy họ làm việc cho các cơ quan nhà nước, hàng tháng được trả lương ( thường là bằng tem Biến đổi cơ cấu giai cấp xã hội miền Bắc thời kỳ 1954 – 1975, Nguyễn Đình Lê, Trang 15 2 3
  4. phiếu) nhưng cuộc sống của họ nhìn chung vẫn vất vả không kém gì những người dân gắn liền cuộc sống của mình với đồng ruộng, với luỹ tre làng…Có biết bao nhiêu câu chuyện xoay quang cuộc sống thường ngày của những cán bộ công nhân viên chức thời đó mà đến giờ kể lại có vẫn khiến con người ta cười ra nước mắt. Hôm nay gạo hết con đang ốm Đã quá trưa rồi, bếp lạnh tanh Lợn réo gà kêu thùng sạch cám Dầu muối chửa mua túi chờ lương…3 Ảnh: Nhà ở thời bao cấp Bốn câu thơ có thể nói đã mô tả khá rõ nét cuộc sống của những cán bộ công nhân viên chức sống nhờ lương, không có thêm bổng lộc nào kh ác do công việc của họ mang lại. Cuộc sống của họ hầu hết đều vất vả. Họ thường sống trong các nhà tập thể của cơ quan phân cho. Nhưng căn nhà được phân đó hầu hết đều nhỏ, có cái chỉ 9m2, nhiều là 28m2 hoặc có thể hơn một chút. Căn nhà như vậy chính là nơi cư trú của một gia đình nhiều thế hệ: ông bà, bố mẹ, con cái. Có khi còn cả 4 thế hệ cùng chung sống. Mỗi căn hộ thường có 2 phòng cùng một khu phụ ( bếp, nhà xí, nhà tắm). Khu phụ thường là nơi các gia đình nuôi lợn, gà, chim… để tăng gia sản xuất. Thời ấy Ảnh: Khu phụ (bếp) có rất nhiều những câu chuyện bi hài về 4 thế hệ cộng sinh với các vật nuôi trong một không gian chật hẹp. Bà Đặng Thị Kim Sơn, bác sĩ ở Bệnh viện Việt - Xô kể lại: “ Có một lần buổi sáng đi làm, đóng cửa chuồng lợn không kĩ, lợn vào buồng ngủ phá 3 http://tran.quangkhoi.net/index.php?option=com_content&task=view&id=1623&Itemid=64 4
  5. phách, ỉa đái hết cả ra nhà…Bực thì bực nhưng sợ nhất “ thủ trưởng” lợn ốm. Chồng ốm, con ốm còn tống cho mấy viên thuốc chứ “thủ trưởng” đã ốm thì thiệt hại về kinh tế, là dở khóc dở cười”. 4 Còn ông Phạm Trạng, nay đã 80 tuổi thì nói : “ Người ở chung với súc vật, phân gà phân lợn, hôi thối kinh khủng. Mình là bác sĩ, mình biết điều đó là mất vệ sinh nhưng vì cuộc sống nên phải chấp nhận”. Chúng tôi cũng đã may mắn có dịp đ ược người dân tiểu khu Trung Tự và Kim Liên cho phép vào tham quan khu nhà của họ. Dù đã trải qua hơn 20 năm nhưng có nhiều ngôi nhà cho đến nay vẫn “ giữ nguyên và chưa từng thay đổi gì” – theo lời của người dân ở đây.5 Diện tích nhà riêng được tận dụng một cách triệt để như vậy chính là nguyên nhân dẫn đến sự phát triển của nhà xí công cộng. Đến nay người ta vẫn đùa: nhà xí công cộng là một mảng lớn của xã hội và cuộc sống thời bao cấp. Có tận 1001 kiểu nhà xí và các câu chuyện xoay quanh nó. Ảnh: Nhà công cộng xí còn sót lại từ thời bao cấp ở phố Thuỵ Khê Hồi ấy, nhà nào may mắn tức là ấy nhà không ở cạnh nhà xí, không thì ám ảnh cả đời. Có người đã ngậm ngùi nhớ về một thời nhà xí công cộng rồi kể lại chuyện nhà xí ở phố Quán Sứ, về chuyện một l ần đi vệ sinh, tức thở quá anh đành đốt chỗ giấy báo mang theo thì bất ngờ bùng lên một ngọn lửa xanh từ phía bể phốt bốc thẳng lên chỗ 2 hòn gạch hình chữ V, và thế là alê hấp, ba chân bốn cẳng anh chạy bật ra khỏi nơi…rùng rợn ấy. Người khác thì kể: mỗi lần đi phải lấy tay bịt chặt miệng, nhón chân đi theo kiểu chiến thuật bởi sơ sẩy một tí là thôi rồi , đã dính “ chưởng”. Chỗ nào cũng có người chồm hỗm, cái có cửa cái không. Nếu đi chung, có một chỗ tàm tạm thì nhường cho 4 http://www.tienphong.vn/hoahau/Index.aspx?ArticleID=50476&ChannelID=2 5 http://www.tienphong.vn/hoahau/Index.aspx?ArticleID=50476&ChannelID=2 5
  6. người mót hơn ( mà phải là người thân). Chỗ chưa có ai thì bẩn quá. Không thể duyệt được, đành phải chạy theo kiểu chiến thuật tót ra ngoài chờ người kia ra. Rồi không dám đi đâu xa bởi hở ra là có người mới chiếm chỗ như chơi…Người ở ngoài thì chờ trong tâm trạng vậy, người ở trong thì cũng…trần gian lắm nỗi éo le. Ngồi thì ph ải rung mông…bởi các loại côn trùng ở đây thuộc loại nhìn thấy là phải rú lên rồi…. Từ những câu chuyện nhỏ ấy, ta phần nào hình dung được cuộc sống khổ cực, thiếu thốn của người dân. Nhưng “ Cái khó ló cái khôn” – Cuộc sống của người Hà Nội lúc đó thật đúng với câu thành ngữ này. Người ta luôn biết xoay sở và tìm đủ mọi cách phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của mình cốt để làm sao tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống. Họ không chỉ chăn nuôi lợn, gà, trồng rau mà còn làm thêm nhiều nghề nữa. Những nghề đó có một số có thể liệt vào loại “xưa nay hiếm”. Số nghề này nhiều, đến nỗi có thể sắp xếp theo vần ABC. Một số nghề tiêu biểu như: đan, móc. “ Với mức lương giáo viên ít ỏi, tôi vẫn thường phải bấu víu vào nghề đan móc. Tôi thường nghĩ ra kiểu nọ kiểu kia, có lần nhìn thấy ảnh cô gái Nhật khoác một cái túi tròn, tôi liền về móc luôn một chiếc giống như thế để dùng, vậy là có nhiều người thích và đặt mua…” bà Lê Thị Mai, 61 tuổi, giáo viên, nghỉ hưu, số 20, ngõ 189/2, Giảng Võ kể lại. Ảnh: Áo mút bà Hà Thị Kiệm đan từ những mẩu mút thừa Hay như bà Hà Thị Kiệm, 85 tuổi, kế toán, ngách 93/19, đường Vương Thừa Vũ thì lại mua những mẩu mút thừa , tháo rời ra từng đoạn nhỏ rồi nối l ại, đan thành áo. 6
  7. Chiếc áo mút đan bằng tay có đầy mối nối nhưng lại là chiếc áo ấm, diện duy nhất của chồng bà trong hơn 10 năm. Ngoài ra ta còn phải kể tới một số nghề phổ biến khác như nghề cuộn thuốc lá, bơm mực bút bi, dán túi nilon… Ảnh: Dụng cụ làm nghề cuộn thuốc lá Không chỉ vậy, người dân thời ấy còn nhiều biện pháp khắc phục về tình trạng thấp kém về điều kiện sinh hoạt, thiếu thốn về hàng hoá tiêu dùng như: lộn cổ áo sơ mi, píc – kê, đổi ống quần trước ra sau, lộn xích xe đạp, quấn lốp xe mòn bằng dây cao su, chế tạo máy phát điện bằng rô – to quay tay, máy tăng điện áp… Ảnh: Quần áo được vá tíc – kê và lộn cổ Có thể nói, con người thời bao cấp rất đa năng. Một người thường làm rất nhiều công việc để có thêm thu nhập, khắc phục những khó khăn trong cuộc sống. Họ vừa 7
  8. làm việc nhà nước, vừa làm thêm bên ngoài. Mà làm thêm bên ngoài lại thường cho thu nhập cao hơn. Bà Thanh Mai (Phúc Xá – Ba Đình) kể lại: lương của cả 2 vợ chồng bà đ ược 109đ/tháng nhưng thu nhập từ máy dệt – công việc làm thêm của gia đình bà là 200đ/tháng.6 Đó là với gia đình bà Thanh Mai còn có nhiều gia đình khác thu nhập ngoài còn chênh lệch rất nhiều so với lương nhà nước trả cho. Bởi vậy dẫn đến tình tr ạng một số công nhân viên chức bỏ nghề. Thời ấy, hàng loạt thầy cô bỏ nghề. Họ chấp nhận xếp giáo án lên đường đi buôn hay đi làm bất kì công việc nào có lợi nhuận hơn để có tiền chi trả cho các nhu cầu của cuộc sống. Hồi đấy, theo như một số người kể lại thì lương dạy một tháng của giáo viên không bằng một ngày đi buôn. Hơn nữa hồi đó người dân ít nhu cầu học tập nên nghề giáo không thịnh. Bởi vậy mà có câu: “ chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm”. Và còn khá nhiều các cán bộ công nhân viên chức ở các ngành nghề khác bỏ nghề, tìm con đường khác để sinh sống. Theo lời kể của ông Đỗ Minh Cao ( khu tậ p thể Viện khoa học xã hội) thì: “nhiều kỹ sư, bác sĩ, cán bộ giảng dạy tại Đại học cố gắng học cấp tốc tiếng Pháp, tiếng Bồ Đào Nha để kiếm 1 suất đi chuyên gia tại Angierie, Ghinê, Ăngola…Không ít người có trình độ Đại học từ bỏ công việc của mình đi quản lý lao động hay xuất khẩu lao động ở Đức, Tiệp Khắc, Liên Xô…Họ chấp nhận hi sinh chỉ với hi vọng kiến được ít tiền gửi về cho gia đình”.7 Ảnh: Ông Đỗ Minh Cao Kiếm tiền đã khó nhưng để sử dụng đồng tiền kiếm được một cách hiệu quả thì lại là một vấn đề nan giải. Thời ấy, cuộc sống của người dân phụ thuộc chủ yếu vào sự phân phối hàng hoá của nhà nước. Chế độ này có từ thời kháng chiến chống Pháp đối với một số nhu cầu như gạo, vải. Từ năm 1960 ở miền Bắc, và từ năm 1975 trên cả nước, chế độ này tiếp tục được áp dụng rộng rãi, với mấy đặc điểm chính sau đây: Đối tượng được hưởng là Cuộc sống ở Hà Nội thời bao cấp, NXB Thế giới, Trang 92 6 Cuộc sống ở Hà Nội thời bao cấp, NXB Thế giới, Trang 99 7 8
  9. những người thuộc diện ăn lương nhà nước và những người ăn theo (con cái, cha mẹ) Diện mặt hàng là những nhu yếu phẩm: gạo, thịt, đường, vải, chất đốt. Chế độ bán là có định lượng khác nhau, tuỳ từng đối tượng. Giá bán là giá cố định của nhà nước (có một số trường hợp thì áp dụng chế độ cho không như quần áo khi đi nước ngoài, thuốc men khi ốm đau, sách giáo khoa cho học sinh phổ thông). 8 Ảnh: Cửa hàng bán phụ tùng xe đạp Ngoài những mặt hàng thiết yếu hàng ngày kể trên, tuỳ theo những điều kiện cụ thể, chế độ này còn được áp dụng đối với một số mặt hàng thông dụng khác như nhà ở, xe đạp và phụ tùng xe đạp, radio, quạt, một số đồ dùng gia đình, sữa đối với những bà mẹ thiếu sữa… Đối với những cán bộ công nhân viên chức bình thường, họ không có cửa hàng phục vụ riêng như đối với các cán bộ cấp cao. Những người này thường mua hàng tại các cửa hàng trong thành phố. Hộ khẩu ở đâu thì mua hàng ở cửa hàng thuộc nơi đó quản lý chứ không có chuyện thích mua ở đâu cũng được như bây giờ. Cuộc sống ở Hà Nội thời bao cấp, NXB Thế giới, Trang 41 8 9
  10. Ảnh: Áo len trẻ em được bán trong các cửa hàng thời bao cấp Tem phiếu là bộ phận quan trọng nhất của chế độ phân phối nhà nước. Nó giữ vai trò trung gian. Nó không phải là tiền nhưng lại là tiền. Nó không phải là hàng hoá nhưng nó là một loại vé để lĩnh hàng hoá. Chẳng thế mà thời bao cấp còn có tên gọi khác là “ thời tem phiếu”. Ảnh: Tem phiếu mua thịt Tem phiếu được áp dụng với những nhu yếu phẩm có tính chất thường xuyên và một số nhu yếu phẩm có tính chất nhất thời. Mỗi loại nhu yếu phẩm có một loại tem phiếu riêng: tem phiếu gạo ( sau ổn định thành sổ gạo), phiếu thịt ( đôi khi dùng đ ể mua dầu ăn, cá, đậu phụ nếu không có thịt để bán), vải mặc, chất đốt ( dầu hoả, than, củi…tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể).9 Ngoài ra còn có sổ mua hàng gia đình để mua hàng Tết ( mứt, rượu, đậu xanh, gạo nếp, thuốc lá, chè), sổ mua phụ tùng xe đạp, sổ đăng kí radio để mua pin chạy radio, phiếu mua hàng cho đám cưới, đám tang… Cuộc sống ở Hà Nội thời bao cấp, NXB Thế giới, Trang 47 9 10
  11. Ảnh: một số tem phiếu được sử dụng mua hàng trong thời kỳ bao cấp Sự phân phối hàng hoá cùng với tem phiếu đã gây cho người dân không ít khó khăn trong cuộc sống. Thời nay, nếu như có tiền ta có thể mua một món đồ mà ta ưng ý trong vòng 10 phút nhưng thời bao cấp, việc mua hàng không đơn giản như vậy chút nào.Ngay một việc nhỏ - mua hàng thôi người dân đã phải tốn bao thời gian,công sức. Ảnh: Phiếu mua chất đốt Hầu hết những ai từng sống trong thời bao cấp thì đều biết đến cảnh xếp hàng. Người ta phải dậy từ rất sớm, nhiều người phải ngủ qua đêm ngay trước cửa hàng để giữ chỗ. Mỗi người mang theo một hòn gạch, cái nón hay cái rổ, cái rá để nhận chỗ, thế nhưng cũng cứ phải đứng đấy, chứ đi khỏi là người khác chiếm chỗ mất. Mà thường người đi mua phải là nam giới thì mới đủ sức lực để mà xếp hàng để mà chen lấn, xô đẩy. Một người mà đã từng sống và trải qua cảnh xếp hàng kinh hãi trong thời bao cấp bồi hồi nhớ lại: “ tôi còn nhớ như in hình ảnh người xếp hàng chen nhau trước cửa hàng thực phẩm. Đứa bé còi dí còi dị như tôi phải lấy hết sức bình sinh mà giữ chặt chân xuống đất để không bị xô đẩy cướp mất chỗ”. 11
  12. Ánh: Cảnh xếp hàng thời bao cấp Thế nhưng, dậy sớm xếp hàng, giữ được chỗ cũng chưa chắc đã mua được hàng. Ông Xuân, nhà số 2, ngõ 1, Kim Mã kể lại: “ sáng dậy thật sớm, vợ tôi đi làm ca sáng dặn tôi ở nhà bế con đi gửi và cầm tem phiếu xếp hàng. Gửi đ ược con xong ra đ ến nơi, xếp hàng đến 30 người, mình đứng cuối cùng. Đến 15 người thì hết hàng thế là mọi người lại lục tục ra về. Buổi trưa thì lại xếp hàng mua cá và còn phải nhờ người xếp hàng ở chỗ khác mua hộ ít rau. Tất cả đều phải xếp hàng, từ mua đậu, rau, mỡ, mắm…Cực lắm”.10 Bởi hồi đó hàng hoá khan hiếm, cung luôn nhỏ hơn cầu. Điều này bắt nguồn từ nền kinh tế trì trệ, rồi nạn cửa quyền, gian lận, móc ngoặc giữa một số nhân viên mậu dịch với “con phe”. Do đó, càng ngày định lượng cung cấp cho các cán bộ công nhân viên và nhân dân đều giảm đi, chất lượng các nhu yếu phẩm cũng ngày một kém. Điều đó đ ược thể hiện khá sinh động qua bài vè của những người cán bộ thương nghiệp: “ Nhất gạo nhì rau – Tam dầu tứ muối – Thịt thì đuôi đuối – Cá biển mất mùa – Đậu phụ chua chua – Nước chấm nhạt thếch – Mì chính có đếch – Vải sợi chưa về - Săm l ốp thiếu ghê – Cái gì cũng thiếu”.11 Người chịu khổ trực tiếp từ việc này lúc nào cũng là người dân. Đã mất công xếp hàng, giữ chỗ lại lo chưa chắc đã mua hàng được. Người không mua được lo, những người mua được hàng thì cũng lo. Theo lời kể của ông Lê Đức Thịnh, giáo sư tiến sĩ Dân tộc học, Viện Nghiên cứu văn hoá thì: “mua được gạo, về nhà vội mở ra xem, thấy gạo không có mùi mốc là tôi 10 http://www.doisongphapluat.com.vn/Story/vanhoathethao/2007/7/5942.html 11 http://chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/NgamNghi- VietNam/Con_nguoi_va_tu_tuong_thoi_bao_cap/ 12
  13. lâng lâng sung sướng cả ngày”. Như vậy có nghĩa là, lo mua hàng, người ta còn có thêm nỗi lo về chất lượng hàng. Bởi thế mới có chuyện một chị xếp hàng mãi mới mua được sắn để về độn với cơm thì suýt chết vì sắn mình mua. Bởi bữa ăn độn sắn bị nhiễm độc do bầm vập vì vận chuyển, giẫm đạp, chen lấn trong các kho bãi…Và còn không ít những câu chuyện khác nữa xảy ra xung quang việc xếp hàng và mua hàng này. Có thể nói đây là một trong những đặc điểm tiêu biểu nhất của thời bao cấp. Ảnh: Hòn đá dùng để xếp hàng giữ chỗ mua lương thực Không chỉ khổ về cái ăn, cái mặc, về nhà cửa…các cán bộ công nhân viên chức tại Hà Nội nói chung và toàn thể nhân dân Việt Nam nói riêng còn khổ vì phải s ống trong cơ chế quản lý “ nghẹt thở”, máy móc của nhà nước. Chúng ta thật khó có thể hình dung: “ để mua được chiếc xe đạp thống nhất, tôi phải có thành tích xuất sắc trong lao động sản xuất. sau khi mua xe, tôi phải mang xe, hoá đơn, hộ khẩu, chứng minh thư đến công an khu phố để đăng ký. Sau 1 – 2 ngày họ cấp giấy chứng nhận sở hữu và biển số xe. Lúc đó tôi hay phải làm thêm giờ nên cơ quan còn yêu cầu phải đăng ký số khung xe trên giấy chứng nhận làm ngoài giờ để họ dễ quản lý” (ông Lê Gia Thuỵ, 65 tuổi, trung tá công an, phố Lương Khánh Thiện)12 Cuộc sống ở Hà Nội thời bao cấp, NXB Thế Giới, Trang 61 12 13
  14. Ảnh: xe đạp – tài sản vô giá của người dân thời bao cấp “Xe đạp của tôi đăng ký ở Hải Phòng, khi chuyển công tác về Hà Nội tôi phải làm thủ tục chuyển vùng cho cái xe để công an cấp giấy chứng nhận quy ền sở hữu mới. Nếu không chuyển vùng thì không được cấp sổ mua phụ tùng để thay thế mỗi khi xe hỏng” ( Bà Lê Thị Thắng, 64 tuổi kể lại). 13 Đấy là còn chưa kể đến từ lúc bắt đầu mua xe đến khi được sử dụng hợp pháp cái xe, chủ sở hữu phải đi đến nhiều phòng ban xin giấy xác nhận, làm thủ tục đăng ký rất rườm rà, lâu la rồi mới được sử dụng. Mà mỗi lần đến một phòng ban nào đó để xin được tờ giấy xác nhận đâu phải là chuyện đơn giản, người ta còn hẹn ngày, hẹn giờ gặp. Có khi đến theo lịch hen cũng không gặp được bởi người chịu trách nhiệm đi vắng….Sự nghẹt thở của cơ chế quản lý của nhà nước còn được thể hiện qua rất nhiều câu chuyện khác nữa được kể lại về thời bao cấp. Nhà nước không cho người dân làm thế này, không cho người dân làm thế khác. Cuộc sống ở Hà Nội thời bao cấp, NXB Thế Giới, Trang 61 13 14
  15. Ảnh: Giấy chứng nhận ở hữu xe đạp Tiểu biểu như câu chuyện của các nhà thơ, nhà văn. Họ nhận thấy những sai lầm của đất nước. Họ viết những tác phẩm nhằm mục đích nói lên sự thật. Nhà nước ta không những không để ý, xem xét mà còn có những biện pháp ngăn chặn, cấm đoán, quản lý, kiểm soát gắt gao. Câu chuyện của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo là một điển hình. Ngay sau khi ông in bài thơ dài: “ Tản mạn thời tôi sống” ở báo văn nghệ thì đã bị “ rầy rà” to. Đang theo học Đại học Nguyễn Du, khoa I, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đã bị lãnh đạo buộc thôi học…14 Bởi vậy, dù nói thế nào đi nữa người chịu khổ vẫn là những người thấp cổ bé họng mà thôi. Đến ngày Tết, cuộc sống của những cán bộ công nhân viên chức Hà thành lúc đó như được khuấy động. Nhà nào cũng lo chuẩn bị cho Tết, tạo nên một không khí chung rất nhộn nhịp. Hồi đó mỗi gia đình cán bộ công nhân viên chức đều có một tiêu chuẩn Tết. Và điều lo lắng nhất của mỗi gia đình là làm sao mua được hết các tiêu chuẩn gạo, thịt và “tiêu 14 http://www.webtretho.com/forum/archive/index.php/t-27904.html 15
  16. chuẩn Tết”. Bởi ai cũng muốn được mua trước, mua đồ ngon, mua được đúng tiêu chuẩn. Do đó, người ta xếp hàng nườm nượp ở các cửa hàng bách hoá, chen l ấn xô đẩy để mua hàng. Tiêu chuẩn Tết lúc đó cũng chẳng có gì nhiều: hộp mứt thập cẩm đồng loạt cho cả nước, đựng trong cái hộp bìa mỏng manh, xấu xí, vài lạng đậu xanh để gói bánh trưng, còn có một bao thuốc và một gói chè. Chè là thứ chè bồm, pha ra nước đỏ quạch. Có lẽ kém xa thứ chè rải áo quan bây giờ. Hình như mỗi người còn được thêm lạng thịt và cuối cùng là một bánh pháo tép. Mọi người sẽ mua hàng tại bách hoá tổng hợp hoặc các cửa hàng nằm rải rác trong thành phố. Các bách hoá tổng hợp thường tổ chức 5 , 6 quầy. Mỗi quầy có từ 4 đến 5 điểm bán hàng. Hàng Tết được mua theo bìa gia đình gọi là “ bìa mua hàng hộ gia đình nội thành”, chia thành các loại A, B, C…tuỳ theo số lượng nhân khẩu. Các mặt hàng được bán tại cửa hàng khoảng nửa tháng trước Tết. Theo lời bác Vũ Trọng Dũng ( phố Hàng Buồm – Hà Nội) kể lại thì người l ớn được khoảng 15,5kg/tháng, nhưng đó là suất cho những ai làm văn phòng, nhiều hơn là 17,5kg/tháng cho những người lao động nhẹ và 21,5kg dành cho những người lao động nặng. Đến Tết mỗi người được thêm 1kg gạo nếp, mấy lạng đỗ xanh và lá dong… Với mỗi người dân Việt Nam thì bánh trưng là thứ không thể thiếu trong ngày Tết. Đó là một món ăn ngon được chờ đón và là chủ lực trong mấy ngày Tết. Khách đến chơi cũng mang bánh trưng ra mời. Nhà nào gói được bánh trưng ngon, nhiều đậu thịt thì rất tự hào và là chủ đề bàn tán cho bạn bè, khách khứa cho nhi ều ngày sau đó. Hồi đó không ai làm bánh trưng để bán và một gia đình cũng không thể làm một nồi bánh trưng. Vì vậy thường là mấy gia đình chung nhau luộc một nồi. Bánh nhà nào nhà nấy gói, đánh dấu riêng, chiều 29 mang đến một nhà có sân, có một cái nồi to, bắc bếp củi lên nấu và thay nhau canh suốt đêm, đến sáng hôm sau thì chín. Vì thế mà bận rộn mấy thì ngày giáp Tết là chuẩn bị gói bánh trưng.15 15 http://diendan.nguoihanoi.net/viewtopic.php?t=6455 16
  17. Ngoài tiêu chuẩn Tết chính thức của nhà nước cho, các cơ quan cũng cố gắng lo thêm cái gì đó cho cán bộ, nhân viên. Phòng hành chính hoặc phòng đ ời sống ( có c ơ quan có hẳn thứ phòng này chuyên lo tìm kiếm mua bán các loại hàng hoá quang năm) tỏa đi khắp nơi, liên hệ với mọi mối quan hệ để mua lợn bò, gạo nếp, thuốc lá. Sau đó, gần nghỉ Tết thì cơ quan chia cho các cán bộ nhân viên những món đ ồ mua đ ược. Thường chia bằng cách bốc thăm. Không khí rất nhộn nhịp, vui vẻ vào những ngày này. Đến lúc chia tay, xe đạp người nào cũng đeo lỉnh khỉnh túi, thịt túi gạo mang về. Ảnh: Người dân nhận tiêu chuẩn Tết mang về nhà. Hồi đó, cả Hà Nội chỉ có một chợ hoa hàng Lược. Nhà nào cũng cố mua lấy 2 cành đào: cành to cắm ở chỗ tiếp khách, cành nhỏ cắm trên bàn thờ. Chiều 30, đàn ông con trai lo dọn dẹp lau nhà cửa, phụ nữ lo làm cỗ cúng. Hai mâm cỗ cúng tối 30 và sáng mùng 1 không bao giờ bỏ được. Tiêu chuẩn vải cả năm của mỗi người là 5m nên người dân đều để dành đến Tết mới dám diện. Đôi dép nhựa tiền phong nếu đ ược mua trong năm cũng phải để dàng đến Tết, nếu không thì trước Tết phải kiểm tra lại, gia cố những chỗ sắp bị đứt. Đáng kể đến nhất là tối 30, cả Hà Nội đổ về quanh Hồ Hoàn Kiếm. Pháo nổ râm ran suốt từ 7, 8 h tối. Ba ngày Tết đi thăm nhau là chính, thế mà đến ngày đầu tiên đi làm cũng giành chúc Tết và kéo nhau cả phòng đi đ ến nhà từng người một. Mà toàn đi bằng xe đạp. Có bao thuốc lá Tam Đảo được phân phối trước Tết cũng để giành nguyên trên bàn thờ để sau tiếp khách cơ quan. Tình cảm 17
  18. đồng nghiệp trong sáng vô tư, giúp được gì nhau là giúp. Phải nói là cái thời gian kh ổ ấy lại có rất nhiều cảm giác sung suớng. 1.2 Bộ phận cán bộ công nhân viên chức sống nhờ lương và nhờ lợi ích khác. Những lợi ích khác được đề cập đến ở đây chính là những khoản thu nhập ngoài lương do đặc trưng của công việc mang lại. Những lợi ích khác này là nguyên nhân gây nên sự khác biệt trong cuộc sống giữa những cán bộ công nhân viên chức ở Hà Nội thời đó • Đời sống các cán bộ cấp cao. Ảnh: Nhà ở của những gia đình khá giả Thời bao cấp là thời mà nhà nước quản lý nhân dân chủ yếu bằng chính trị nên các cán bộ cấp cao rất có uy quyền. Cái tính đẳng cấp mà cha ông ta đã làm cách mạng đ ể cố gắng xoá bỏ ấy vẫn tiếp tục tồn tại dưới nhiều hình thức như quyền cấp phát nhà ở, tem phiếu thực phẩm…Do đó đời sống của các cán bộ cấp cao sung túc hơn những cán bộ bình thường rất nhiều. Lương của các cán bộ cấp cao có khi gấp 3,4 lần lương của những nhân viên bình thường. Dưới đây là bảng định lương thực phẩm cho cán bộ công nhân viên chức nhà nước mua theo tiêu chuẩn tem phiếu. Bảng lương đã thể hiện khá rõ nét sự chênh lệch về lương giữa cán bộ cấp cao với các thành phần khác. STT Đối tượng Lương Thịt Nướ Đườn Bột Tem Cá Phiếu ngọt c g (đồng) (kg) (kg) chấ (kg) (gram) 18
  19. m Bộ trưởng, chuyên 192 1 A 4,2 4 2 2 70 tương viên 9 và đương Thứ trưởng, tổng cục 165 2 –B 3 3 1,5 2 50 trưởng, chuyên viên 7, 180 8 và tương đương Vụ, cục, viện trưởng, 140 3 – C1 2 1,5 1 1,5 30 chuyên viên 5, 6 và 160 tương đương Vụ, cục, viện phó, 115 4 –C 1,5 1,5 1 1 20 chuyên viên 2 , 4 và 138 tương đương Trưởng phòng, cán sự 90 5 –D 0,8 1 0,5 0,7 20 6, chuyên viên 1 và 110 tương đương Cán sự 3 , 5 và tương 60 – 87 6 Đ 0,6 0,5 0,5 0,5 20 đương Nhân viên, cán sự 1, 2 7 50 – 59 E 0,4 0,5 0,5 0,35 20 8 Công nhân viên lao I 0,4 0,5 0,5 0,35 20 động trực tiếp tuỳ 9 II 0,6 0,5 0,5 0,5 20 thuộc đặc thù công 10 III 1,9 0,5 0,5 0,7 20 việc, mức độ độc 11 IV 1,2 1 0,5 1 20 hại, nặng nhọc…theo 12 V 2,5 1 1 1 20 phân loại của bộ lao động Ngoài những lợi ích giống như cán bộ thường, các cán bộ cấp cao còn có nhiều lợi ích, nhiều ưu đãi như việc phân nhà cửa phân phối tem phiếu, mua đồ… Nhà nào địa điểm đẹp, rộng rãi, thoải mái thì phân cho cán bộ cấp cao. Nhà nào cũng có màn tuyn, tivi, quạt…Họ còn có những cửa hàng phục vụ riêng ở phố Tôn Đản. Thế nên 19
  20. mới có câu nói quen thuộc trong nhân dân: “ Tôn Đản là của vua quan – Nhà thờ là của trung gian nịnh thần – Thương nhân thì chợ Đồng Xuân – Vỉa hè là của nhân dân anh hùng”. Không chỉ vậy, ngày Tết, ngày lễ, cứ là cán bộ cấp cao sẽ có tiêu chuẩn nhiều hơn, mua được nhiều thứ ngon lại được nhận nhiều quà biếu. Ai muốn thăng chức hay để dễ làm ăn hầu như đều phải đến các cán bộ cấp cao, các lãnh đ ạo. Vừa đ ược nhà nước ưu đãi, vừa có nhiều quà biếu nên cuộc sống của các cán bộ kiểu này r ất sung túc. Họ không làm nhiều nhưng luôn no đủ. Sự no đủ phần nhiều do quà bi ếu mang lại. Bởi thế có câu thơ như: “ Mỗi người làm việc bằng hai – Để cho chủ nhiệm mua đài, mua xé – Mỗi người làm việc bằng 3 – Để cho chủ nhiệm xây nhà, xây sân” . • Đời sống của những người trong ngành thương nghiệp Ngành thương nghiệp lúc đó rất có uy, riêng ông phụ trách thương nghiệp thì được mọi giới nể trọng. Bà con có khi chả biết chủ tịch, bí thư là ai nhưng lại biết rất rõ về thân thế của “nguyên thủ thương nghiệp”. Vì nắm tay hòm chìa khoá, quy ền phân quyền phát nên ông phụ trách thương nghiệp được coi là một nhân vật đ ặc biệt. Nói theo kiểu địa lý thì ông phụ trách thương nghiệp chính là cái rốn của địa phương. 20
nguon tai.lieu . vn