Xem mẫu

  1. TRAO ĐỔI - NGHIỆP VỤ GÓP PHẦN KHẲNG ĐỊNH TÍNH THẬT, GIẢ CỦA BA ĐẠO SẮC PHONG CÓ NIÊN HIỆU HỒNG ĐỨC NGUYỄN DOÃN MINH Tóm tắt Sắc phong thần là văn bản của triều đình ban phong cho các vị thần được thờ trong đình làng nói riêng, cũng như các đối tượng thờ trong những không gian tín ngưỡng khác như đền, miếu, am phủ,… nói chung. Trong văn bản học, một đạo sắc phong có giá trị nghiên cứu nhiều mặt. Nếu nội dung sắc phong phản ánh công trạng, những mỹ tự ban phong, đồng thời cho thấy ý nghĩa cùng thời gian ra đời văn bản, thì hình thức sắc phong, bao gồm các đồ án hoa văn, thể thức văn bản, chất liệu, màu sắc, mang đến những cảm nhận thẩm mỹ. Trong một chừng mực nhất định, những giá trị thẩm mỹ lưu giữ trên những đạo sắc còn phản ánh những đặc trưng, phong cách của thời đại. Nghiên cứu hình thức văn bản, trọng tâm là đồ án hoa văn trên ba đạo sắc phong có niên hiệu Hồng Đức và so sánh với đồ án trên các loại hình di vật khác, bài viết nhằm góp phần xác thực tính thật, giả của ba đạo sắc phong nói trên. Từ khóa: Đạo sắc phong, Hồng Đức, niên hiệu Hồng Đức Abstract “Sac phong” is a honor-conferring document issued by the royal court on deities worshipped in communal houses of villages in particular, and those worshipped in other types of religious spaces like temples, shrines… in general. In documents, a “sac phong” (conferring a title on somebody or location) bears high values for research from various perspectives. If the content of “sac phong” reflects the merit, splendid words of honor, and also shows the meaning and time of the context, the form of “sac phong” including the pattern, layout, the quality and color of materials bring aesthetic value. To a certain extent, the aesthetic values kept on the ethics also reflect the characteristics and style of the time. Studying the form the text, focusing on designed patterns on three types of “sac phong” dated Hong Duc and compare with the project on other types of relics. The paper aims to contribute to the confirmation of authenticity of those three types of “sac phong”. Keywords: Royal honor-conferring diplomas, Hong Duc, Hong Duc reign title 1. Đặt vấn đề diện về hình thức và nội dung văn bản từ đó C ho đến thời điểm hiện tại có 03 đạo khẳng định: Ba đạo sắc phong bằng giấy vào sắc sớm nhất Việt Nam được phát loại “cổ nhất Việt Nam”. Tuy nhiên, về hình thức hiện cùng niên đại cuối thế kỷ XV. văn bản của các đạo sắc vẫn tạo ra lực hấp Hai đạo sắc có niên hiệu Hồng Đức thứ 23 dẫn đáng kể đối với giới nghiên cứu vì miêu tả của hai tác giả trên chưa có sự tương đồng. (năm 1492) và Hồng Đức thứ 28 (năm 1497) Bên cạnh đó, bàn về nghệ thuật hay hoa văn, (Ảnh 1, 2) đã được tác giả Thùy Vinh công bố trong đó có hình rồng, chỉ dừng lại ở mức miêu trên Tạp chí Hán Nôm số 2 (47) năm 2001 với tả, khó có thể chuyển tải đến người đọc những tiêu đề “Tìm thấy hai đạo sắc thời Hồng Đức”. cảm nhận về giá trị thẩm mỹ được tạo nên từ Đạo sắc thứ 3 được tác giả Nguyễn Thị Tuấn hình khối, đường nét và màu sắc của những đồ Tú công bố trên Tạp chí Di sản (số 52) với tiêu án đó. Qua nghiên cứu hình thức1 văn bản, bên đề “Về bản sắc phong ghi niên hiệu Hồng Đức ở cạnh kế thừa những nghiên cứu của hai tác giả, đền Thanh Tu (Thái Bình)” vào năm 2015. Cả hai bài viết bổ sung thêm những kiến giải nhằm xác tác giả đều đã khảo cứu khá công phu và toàn thực về tính chân ngụy của những đạo sắc trên. Số 29 (Tháng 9 - 2019) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 101
  2. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU Ảnh 1. Sắc phong bản Hồng Đức thứ 23 (năm 1492) Ảnh 2. Sắc phong bản Hồng Đức thứ 28 (năm 1497) (Nguồn: Nguyễn Đạt Thức) (Nguồn: Nguyễn Đạt Thức) 2. Đồ án hoa văn trên đạo sắc Hồng Đức và cứu các nguồn tư liệu về sắc phong cho thấy: sự tương đồng với đồ án trên các loại hình Từ đạo sắc thời Mạc (thế kỷ XVI) trải dài đến di vật khác thời Nguyễn (thế kỷ XX) trên mặt trước những Bản đồ lại hoa văn, cho thấy các đồ án gồm: đạo sắc phong thần chỉ vẽ duy nhất một hình Chính giữa đạo sắc là một hình rồng. Phía rồng lớn nằm giữa sắc. Hình những đám mây, trước đầu rồng là một quả cầu lửa, bốn góc có phía dưới có đao lửa bay ra, khá phổ biến trên bốn hình dạng đám mây, phía dưới mỗi đám đồ gốm ngự dụng, tìm thấy tại khu khảo cổ mây có một đao lửa bay ra. học 18 Hoàng Diệu, thuộc phạm vi Hoàng Đầu rồng ngẩng, trên có sừng, mắt mở to, thành Thăng Long xưa. mồm há rộng lộ rõ lưỡi, mũi nở, ria mép hai bên Bên cạnh đó, hình vẽ đám mây trên hai đạo dài thành hình đao bay ra, dưới cằm có hai túm sắc Hồng Đức thứ 23 và Hồng Đức thứ 28 có râu, bờm tạo thành ba túm bay ngược lên trên. sự khác nhau về chi tiết. Nếu đao lửa trên đạo Đầu hướng về phía khối tròn được bao bọc bởi sắc Hồng Đức thứ 23 bay về cuối đạo sắc (theo một quầng lửa; cổ rồng uốn cong ra phía sau, chiều viết nội dung chữ Hán/hoặc từ phải sang trong khi ngực ưỡn thoải ra phía trước trong trái khi đọc sắc) thì đao lửa trên đạo sắc Hồng thế nằm dựa lưng; đoạn từ cổ cho đến hai Đức thứ 28 bay theo chiều ngược lại (Ảnh 3, 4). chân sau rồng có sự thay đổi lớn, thể hiện qua Hình rồng trên đạo sắc có niên hiệu Hồng sự biến chuyển của thân rồng, từ thế đi của Đức thứ 28 (năm 1497) nói riêng và trên những hai chân sau (bụng úp xuống dưới), dần vặn đạo sắc thế kỷ XV đề cập ở trên nói chung, mang mình ngửa bụng lên với ngực ưỡn ra phía trước đặc trưng của những hình rồng thời Lê sơ. Có (ngược với chiều đi của hai chân sau); đuôi rồng thể nhận ra nét tương đồng giữa chúng khi đối uốn cong lên xuống bốn nhịp thuôn nhỏ dần sánh hình rồng trên đạo sắc phong với hình về phía sau; toàn thân rồng có vảy, mỗi chân rồng xuất hiện trên những di vật chất liệu khác đều 5 móng. Chân phải chống xuống phía sau, có niên đại cùng thời như bia đá, khu di tích Lam chân trái giơ ra phía trước. Hai chân sau trong Kinh, Thanh Hóa và những đồ ngự dụng tìm thấy thế sải bước, chân phải trước, chân trái sau. Vị tại khu khai quật 18 Hoàng Diệu như: Bát, ngói, trí của khuỷu chân có ba xoáy hình cầu, từ đó gạch thông gió bằng gốm,... với kỹ thuật thể phát ra ba đao lửa được thể hiện bởi những nét hiện như khắc trên đá (tượng tròn, phù điêu), vẽ vẽ mềm mại. Bốn góc của đạo sắc là bốn đồ án lam hoặc in trên gốm. Tính quan phương, chuẩn có đặc điểm giống nhau, tượng trưng cho bốn mực, sự mạnh mẽ uy quyền toát lên qua cử chỉ đám mây. Phía dưới mỗi đám mây có một đao điệu bộ của thân, cùng năm móng vuốt sắc nhọn bay ra cùng chiều với đuôi rồng (từ cuối nhọn xuất hiện ở mỗi bàn chân rồng. sắc về đầu sắc). Ở dạng thức tượng tròn như đôi rồng đá Cho đến trước khi nghiên cứu của tác giả điện Kính Thiên thuộc khu di tích Hoàng thành Thùy Vinh được công bố thì đạo sắc có niên Thăng Long, Hà Nội, hình rồng bố cục theo hiệu Sùng Khang thứ 9 (1574) ở đình Tử Dương, một khối thẳng: Đầu ngẩng, mắt mở, mũi nở, Thường Tín, Hà Nội là sớm nhất [2]. Qua khảo đầu có sừng chia thành ngạnh, ria mép dài 102 Số 29 (Tháng 9 - 2019)
  3. TRAO ĐỔI - NGHIỆP VỤ Ảnh 3. Bản đồ lại họa tiết mây và đao lửa sau gáy Ảnh 4. Bản đồ lại họa tiết mây và đao lửa sau gáy và khuỷu chân rồng trên đạo sắc Hồng Đức 23 tại và khuỷu chân rồng trên đạo sắc Hồng Đức 28 tại đền Quang Lang đền Quang Lang hình đao lửa. Thân tròn, dài, dẻo nhịp doãng Tạo hình này gần giống với rồng trên trán bia lên xuống thoăn thoắt, thuôn dần về đuôi chùa Kim Liên có niên đại 1445. Cách bố cục cùng với chi tiết đao lửa, bờm, sống lưng bay đăng đối cho thấy khi ghép hai bên lại chúng ngược ra sau tạo cho rồng như đang trong thế trở thành một lá đề hoàn chỉnh. Nhịp điệu hình chuyển động. rồng cùng với lá đề ở đây dường như mang lại Ở dạng thức phù điêu, hình rồng có phần sự liên tưởng đến nhịp điệu của hình rồng xuất đa dạng hơn. Chỉ riêng trên trán bia Lam Sơn hiện từ thời Lý - Trần. Cũng ở dạng thức phù Vĩnh Lăng, khu di tích Lam Kinh, Thanh Hóa đã điêu hay in vẽ, bên cạnh những hình rồng đã có đến ba dạng thức là: Hình rồng bố cục trong đề cập còn có những hình rồng có lưng võng ô tròn chính giữa trán bia (Ảnh 5), hai bên có “yên ngựa” như trên đồ gốm ngự dụng trong đôi rồng trong thế sải bước chầu vào, diềm khu khai quật khảo cổ 18 Hoàng Diệu, trên bệ bia trên trán và hai bên là những hình rồng bố đá chùa Khám Lạng... Đặc điểm này được một cục trong nửa lá đề. Nếu hình rồng diềm trên số nhà nghiên cứu cho rằng mang đặc trưng trán bia có dáng điệu giống như đôi rồng chầu phong cách thời Mạc, vào thế kỷ XVI về sau. giữa trán, thì những hình rồng ở hai bên diềm Nhưng hiện tượng rồng có lưng võng hình yên trong thế bò từ trên xuống, rồi ngóc đầu lên. ngựa đã thấy xuất hiện trên di vật có niên đại thời Trần, thế kỷ XIII - XIV. Tạo hình rồng trên đạo sắc phong được đồ lại minh họa ở đây tương đồng với hình rồng trên trán bia Vinh Lăng có niên đại 1433, hay gạch thông gió tìm thấy ở khu Quần Ngựa. Hình rồng bố cục trong một ô tròn, nếu trên bia Vĩnh Lăng mặt rồng được khắc họa chính diện, thì trên viên gạch thông gió mang đến cách nhìn ngang. Với bố cục này, nhịp điệu của thân rồng uốn lượn/lên xuống doãng và sâu hơn so với hình rồng trên đạo sắc, nhưng dáng điệu cùng cử chỉ giống nhau. Toàn bộ đạo sắc phong từ hình thức đến nội dung được bố cục rất chặt chẽ đồng thời bao Ảnh 5. Hình rồng giữa trán bia Lam Sơn Vĩnh Lăng, hàm ý nghĩa sâu sắc. Ở đây, bố cục nửa thân năm 1443 (Nguồn: [6, tr.61] ) trên của hình rồng mang dáng điệu cử chỉ một Số 29 (Tháng 9 - 2019) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 103
  4. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU con người, sải bước đi ra từ đầu đạo sắc, khi về luận giải của hai tác giả Thùy Vinh và Nguyễn cuối đạo sắc thì vặn mình (hồi long) phun ngọc Thị Tuấn Tú cho thấy giữa nội dung và hình châu - quả cầu bọc trong quầng lửa chính là lời thức của văn bản có sự tương xứng về niên vàng ý ngọc của vua ban và cũng chính là từng đại. Qua đây có thể khẳng định hai đạo sắc có chữ, câu tạo nên nội dung của đạo sắc. niên hiệu Hồng Đức thứ 23 (1492), Hồng Đức Hội họa là nghệ thuật biểu hiện không thứ 28 (1497) lưu giữ tại đền Quang Lang và gian trên mặt phẳng. Đó là lối tư duy được du đạo sắc niên hiệu Hồng Đức lưu giữ tại đền nhập từ hội họa phương Tây vào Việt Nam từ Thanh Tu là những bản sắc gốc. Với những giá những năm đầu thế kỷ XX. Có thể người “họa trị mang trên mình, những đạo sắc trên cần sỹ” vẽ phôi những đạo sắc phong trên chưa nhận được sự bảo quản đặc biệt nhằm lưu giữ biết đến? Nếu hình rồng chỉ được vẽ theo một được dài lâu. chiều cắt dọc hoặc ngang thân rồng theo lối N.D.M đạc họa của nhà khảo cổ, hay kiến trúc (bao (TS., Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam) gồm các mặt cắt: Dọc, ngang và bằng) thì hình rồng được thể hiện chỉ là hình hai chiều có phần tĩnh và khô cứng. Người “họa sỹ” xưa Chú thích đã làm được nhiều hơn thế, cho dù tính ước lệ 1 Nội dung sắc phong đã được hai tác giả vẫn được sử dụng chủ đạo. Hình rồng được vẽ dịch, chúng tôi không dịch lại nội dung những như đang chuyển động trong không gian đa sắc phong này. chiều. Dù không vờn nét tạo khối, nhưng cách tạo hình, đã tạo nên hiệu quả đó. Hai chân sau Tài liệu tham khảo sải bước, đầu quay 180o so với hướng chuyển 1. Nguyễn Xuân Diện (2003), “Một số vấn đề động của chân - dạng hồi long. Để có tạo hình về sắc phong”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 5 (89). như vậy, những chuyển đổi của thân đã bắt 2. Cung Khắc Lược, Chu Quang Trứ (1995), “Về đầu từ phần bụng, khi đến hai chân trước thì đạo sắc “Tử Dương thần từ” sớm nhất hiện còn”, lật hẳn. Một tạo hình rất sinh động, cho thấy Tạp chí Hán Nôm, số 1(22). các “họa sỹ” đã có những quan sát/“giải phẫu” 3. Mỹ thuật thời Lê sơ (1978), Nxb. Văn hóa, Hà rất tỉ mỉ và tinh tế, thuần thục trong bút pháp Nội. thể hiện về thân rồng - thân họ xà. Bởi chỉ có 4. Nghệ thuật chạm khắc cổ Việt Nam: Qua các thân họ xà mới có thể uốn vặn được như vậy. bản rập (1975), Viện Nghệ thuật, Hà Nội. Chi tiết các đao lửa thanh, dài, sắc nhọn 5. Bùi Minh Trí, Kerry Nguyễn Long (2001), Gốm trên những hình rồng vừa đề cập khá tương hoa lam Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. đồng với đao lửa trên đạo sắc phong. Đặc 6. Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội, Viện Mỹ điểm này xuất hiện khá phổ biến trên những thuật (2000), Bản rập họa tiết mỹ thuật cổ Việt linh vật thế kỷ XV, kéo dài sang đầu thế kỷ XVI Nam, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội. như hình rồng trên trán bia lăng vua Lê Hiển 7. Nguyễn Thị Tuấn Tú (2015), “Về bản sắc Tông, khu di tích Lam Sơn, Thanh Hóa. Thậm phong ghi niên hiệu Hồng Đức ở đền Thanh Tu chí trên những di vật có niên hiệu thời Mạc (Thái Bình)”, Tạp chí Di sản, số 3 (52). vẫn sử dụng khá phổ biến như những đầu dư 8. Nguyễn Công Việt (2005), Ấn chương Việt chạm rồng tại đình Tây Đằng, cánh cửa Khám Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, Nxb. Khoa học xã thờ Từ Đạo Hạnh tại chùa Thầy, Hà Nội... hội, Hà Nội. Kết luận 9. Thùy Vinh (2001), “Tìm thấy hai đạo sắc thời Hình rồng trên những đạo sắc phong có Hồng Đức”, Tạp chí Hán Nôm, số 2(47). niên hiệu Hồng Đức được đề cập ở đây với những chi tiết đao lửa bay ra từ gáy, khuỷu Ngày nhận bài: 4 - 9 - 2019 chân, hay quầng lửa bao quanh viên ngọc khi Ngày phản biện, đánh giá: 12 - 9 - 2019 đối sánh với những hình rồng trên những di vật có niên đại thế kỷ XV, XVI, cùng với những Ngày chấp nhận đăng: 25 - 9 - 2019 104 Số 29 (Tháng 9 - 2019)
nguon tai.lieu . vn