- Trang Chủ
- Xã hội học
- Giáo trình Xã hội học đại cương: Phần 2 - Võ Tá Tri, Vũ Văn Hùng (Đồng chủ biên)
Xem mẫu
- Chương 4
XÃ HỘI HÓA
Xã hội càng phát triển vai trò con người càng lớn và được coi trọng.
Ngày nay con người được quan tâm theo cả hai góc độ: mục đích và
phương tiện. Ở nước ta con người được xác định là nhân tố cơ bản cho sự
phát triển nhanh và bền vững. Bởi vậy, đòi hỏi con người càng được
hoàn thiện trên cả hai phương diện: trí và đức. Điều này chỉ có thể đạt
được thông qua quá trình xã hội hóa cá nhân con người giúp họ hoàn
thiện nhân cách.
I. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA XÃ HỘI HÓA
1. Bản chất con người
Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Tuy
nhiên, trong nghiên cứu xã hội học con người được xác định là đơn vị
nhỏ nhất và cơ bản nhất của hệ thống xã hội và cấu thành xã hội. Mặt
khác, con người là một sinh vật có tư duy, sống theo tổ chức cộng đồng.
Khi nghiên cứu con người, xã hội học không chỉ quan tâm đến từng con
người riêng biệt mà còn quan tâm đến con người tồn tại trong mối quan
hệ ràng buộc, tương tác với nhau. Bản chất xã hội của con người thể hiện
ở những góc độ khác nhau.
- Từ góc độ tự nhiên, con người là sinh vật bậc cao, có bản năng sinh
tồn duy trì nòi giống. Bản năng tự nhiên của con người được quy định
bởi quá trình tiến hóa lâu dài của loài người từ thế giới tự nhiên, nằm
trong vô thức. Bản năng tự nhiên con người thể hiện ở hai mặt chủ yếu:
bản năng sinh tồn dẫn đến sự tham lam, tư hữu, đấu tranh hoặc nương tựa
vào kẻ khác để bảo vệ mình và bản năng duy trì nòi giống (kích thích
sinh dục, tạo nên cảm xúc và nhu cầu gắn bó với người khác giới).
- Từ góc độ xã hội, con người là một thực thể xã hội và văn hóa. Con
người được xã hội truyền lại nền văn hóa xã hội và đã biến mình thành
95
- con người xã hội. Đó là quá trình giao lưu ngôn ngữ, giao lưu tinh thần
giữa người này với người khác để lĩnh hội các "biểu tượng xã hội", các
tập tục, lề thói... Chính vì vậy, khi nói bản chất con người là tổng hoà
những quan hệ xã hội, cũng có nghĩa là tất cả các quan hệ xã hội đều góp
phần hình thành bản chất con người.
Sự thể hiện bản chất của con người không phải trực tiếp, mà thường
là gián tiếp, quanh co, phức tạp qua hàng loạt mâu thuẫn giữa cá nhân và
xã hội, giữa kinh nghiệm và nhận thức khoa học, giữa lợi ích trước mắt
và lâu dài, giữa bản năng sinh vật và hoạt động có ý thức, giữa di truyền
tự nhiên và văn hoá xã hội, giữa yếu tố thực tại và yếu tố tâm linh hình
thành trong con người... Vì vậy, trong xã hội, con người chịu trách nhiệm
với hành vi xã hội của mình.
Từ hai cách hiểu như trên về bản chất con người, có thể nhận định
rằng: Khi là một sinh vật, con người mang bản năng sinh tồn và chịu sự
chi phối của quy luật cạnh tranh sinh tồn. Khi là con người xã hội, con
người chịu sự chi phối của quy luật cộng đồng. Do vậy, con người luôn
sống trong sự pha trộn của bản năng sinh tồn và quy luật cộng đồng để
phát ra hành vi. Trong cuộc sống thường ngày, con người luôn thực hiện
hai dạng hành vi của chính mình là hành vi bản năng và hành vi ý thức.
Hành vi bản năng (hành vi vô thức) là hành vi sơ đẳng, hành vi bẩm
sinh do bản năng sinh tồn của con người chi phối.
Hành vi ý thức (hành vi trí tuệ) là những hành vi có suy nghĩ, có
mục đích, do ý thức của con người chi phối.
Về vấn đề này, trước đây, Aristote (384-322 TCN) đã quan niệm con
người là "sinh vật xã hội" để diễn tả hai khía cạnh sinh học và xã hội của
con người. Trong cuộc sống tự nhiên, con người có các hoạt động sinh
học để tồn tại và duy trì nòi giống. Trong hoạt động xã hội con người là
động vật bậc cao có suy nghĩ, có tư duy và tình cảm... Theo K. Marx, bản
chất con người là "tổng hoà các quan hệ xã hội", là chủ thể của các hoạt
động xã hội đồng thời phản ánh, hấp thụ các quan hệ xã hội. Trong luận
đề 6 về Feuerbach, Marx viết: "Bản chất con người không phải là một
trừu tượng bên trong mỗi cá nhân. Trong tính hiện thực của nó, con
96
- người là tổng hoà các quan hệ xã hội". H. Korte nói "Mỗi người là một
xã hội nhỏ, mỗi xã hội là một người tổng quát"1.
Vì vậy, nói đến con người là nói đến nhân cách mà mỗi cá nhân đã
tạo dựng được cho mình trong quá trình xã hội hóa. Xã hội hóa đã hoàn
thiện nhân cách con người, biến các cá thể (cá thể sinh học) thành cá
nhân (thực thể xã hội) và thành nhân cách (con người xã hội).
2. Khái niệm xã hội hóa
Hiện nay, khái niệm xã hội hóa được hiểu với nhiều nội dung
khác nhau.
Xã hội hóa dùng để chỉ sự tăng cường chú ý, quan tâm của xã hội về
vật chất và tinh thần đến những vấn đề, sự kiện cụ thể nào đó của xã hội
mà trước đây chỉ có một bộ phận của xã hội có trách nhiệm quan tâm.
Những vấn đề cụ thể đó có ý nghĩa đối với xã hội nên từ chỗ chỉ một
nhóm hay một bộ phận của xã hội quan tâm sau đó là toàn xã hội quan
tâm. Thông thường đây là những hoạt động có tính phổ quát rộng, rất
nhiều người có nhu cầu, có điều kiện để nhân rộng và nhiều người đều có
thể tham gia thực hiện được. Xã hội hóa dưới góc độ này chính là sự kết
hợp mang tính chất tự nguyện có ý thức chủ quan của nhiều cá nhân hay
nhóm xã hội. Chẳng hạn chúng ta thường nói: xã hội hóa giáo dục, xã hội
hóa y tế, xã hội hóa thể thao, xã hội hóa các công tác xã hội...
Theo một nghĩa khác, xã hội hóa chỉ sự liên kết của nhiều hành
động, hoạt động cá biệt, riêng biệt thành hành động xã hội chung. Đây là
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin được sử dụng phổ biến trong
nghiên cứu sản xuất xã hội và lý giải cho sự biến đổi của các phương
thức sản xuất xã hội khác nhau. Về đại thể xã hội hóa là sự liên kết của
những hành động, hoạt động riêng biệt thành quá trình mang tính xã hội.
Sự liên kết này mang tính khách quan, tự nhiên tạo nên sự tùy thuộc lẫn
nhau của các cá nhân khi tham gia hành động hay tương tác xã hội. Ví
dụ, những người cùng làm việc trong một dây chuyền sản xuất bị trói
chặt vào nhau thành một "con người tập thể" theo cách diễn đạt của Marx.
Một cách hiểu khác, xã hội hóa là việc phổ cập, nhân rộng các giá trị
vật chất và tinh thần từ một cá nhân hay một nhóm ra xã hội. Ví dụ,
1
H. Korte, 1995. Tr.21
97
- người sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ xúc tiến quảng cáo sản
phẩm của mình ra xã hội để nhiều người biết, mọi người biết hàng hóa
của họ và hướng tới. Xã hội hóa theo nghĩa này có thể do các cá nhân
chủ động thực hiện hoặc do cơ chế tự động (lây lan) của xã hội. Bởi vậy,
trong quá trình xã hội hóa cần đặc biệt coi trọng dư luận xã hội. Người
Việt Nam có câu "hữu xạ tự nhiên hương". "Xạ" ở đây có thể hiểu theo
cả hai nghĩa tốt hoặc xấu.
Tuy nhiên, xã hội học chỉ quan tâm nghiên cứu đến quá trình xã hội hóa
cá nhân.
Con người khi mới sinh ra không mang bản chất xã hội mà chỉ mang
bản chất tự nhiên vốn có của thế giới động vật. Trong quá trình học hỏi, tích
lũy những kinh nghiệm xã hội, con người có sự phát triển vượt bậc. Môi
trường xã hội đã tạo ra sự thay đổi, biến con người từ động vật bậc cao trở
thành con người xã hội sống đa dạng và phong phú. Nói cách khác khái
niệm xã hội hoá dùng để chỉ quá trình chuyển biến từ chỉnh thể sinh vật với
đầy đủ các tiền đề tự nhiên đến một chỉnh thể đại diện của xã hội loài người.
Theo nhà xã hội học Mỹ, Neil Smelser, "Xã hội hóa là quá trình mà
cá nhân học cách thức hành động tương ứng với vai trò của mình"1. Với
quan niệm này vai trò của cá nhân trong quá trình xã hội hóa chỉ giới hạn
trong việc tiếp nhận các kinh nghiệm, giá trị, chuẩn mực. Trong lịch sử
nhân loại có những nhân cách lớn tạo ra hàng loạt những chuẩn mực, giá
trị... được thừa nhận và họ trở thành những người nổi tiếng thế giới trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, trong định nghĩa mà Neil
Smelser đưa ra vai trò cá nhân chỉ giới hạn trong việc tiếp nhận các kinh
nghiệm, giá trị, chuẩn mực mà chưa đề cập đến khả năng sáng tạo của cá
nhân để xã hội học theo.
Còn theo Fichter, "Xã hội hóa là một quá trình tương tác giữa người
này và người khác, kết quả là sự chấp nhận một khuôn mẫu hành động
và thích nghi với những khuôn mẫu hành động đó"2. Fichter đã quan tâm
đến vai trò của cá nhân trong quá trình xã hội hóa. Ông nhấn mạnh tác
động của cá nhân đến quá trình xã hội hóa. Tuy nhiên, định nghĩa chưa
1
Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (2008) Xã hội học, Nxb Thế giới. Tr.258
2
Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (2008) Xã hội học, Nxb Thế giới. Tr.258
98
- nói rõ được vấn đề cá nhân học hỏi, tích lũy kinh nghiệm và lĩnh hội
những kiến thức xã hội.
Nhà xã hội học người Nga G. Andreeva có định nghĩa "Xã hội hóa
là quá trình hai mặt: Một mặt, cá nhân tiếp nhận kinh nghiệm xã hội
bằng cách thâm nhập vào môi trường xã hội, vào hệ thống các quan hệ
xã hội. Mặt khác, cá nhân tái sản xuất một cách chủ động hệ thống các
mối quan hệ xã hội thông qua chính việc họ tham gia vào các hoạt động
và thâm nhập vào các mối quan hệ xã hội"1. Theo định nghĩa trên, xã hội
hoá là quá trình hai mặt. Mặt thứ nhất, cá nhân tiếp nhận kinh nghiệm xã
hội bằng cách thâm nhập vào xã hội. Ngược lại, cá nhân tái sản xuất một
cách chủ động các mối quan hệ thông qua việc họ tham gia vào các hoạt
động và thâm nhập vào các quan hệ xã hội. Nói cách khác, cá nhân
không chỉ đơn thuần thu nhận kinh nghiệm xã hội mà còn chuyển hóa,
biến đổi, sáng tạo nó thành những giá trị, xu hướng của cá nhân để tham
gia tái tạo chúng trong xã hội.
Theo quan điểm của G. Andreeva, tính chủ động của cá nhân thể
hiện sự tác động của con người trở lại môi trường thông qua hoạt động
của mình. Tuy nhiên đây không phải là sự chủ động của cá nhân trong
quá trình thực hiện xã hội hóa của bản thân mình mà là hoạt động hình
thành môi trường và điều kiện cho quá trình xã hội hóa của các cá nhân
khác trong xã hội.
Như vậy, có nhiều quan niệm về xã hội hóa nhưng điểm chung của các
quan điểm này là đều có quá trình xã hội bắt đầu, diễn ra và kết thúc. Quá
trình đó diễn ra có tính hai chiều: Thứ nhất, cá nhân chủ động thâm nhập
vào xã hội để thu nhận kinh nghiệm và các giá trị chuẩn mực từ xã hội mà
không thụ động chờ đợi xã hội truyền thụ. Thứ hai, qua việc tiếp thu tri thức
và kinh nghiệm xã hội, cá nhân tự nghiên cứu, rèn luyện, hình thành những
giá trị mới, đa dạng hơn để chủ động bổ sung vào hệ thống tri thức và kinh
nghiệm cho xã hội. Từ quá trình hai chiều đó giúp con người không chỉ
hoàn thiện nhân cách mà còn phát triển nhân cách tốt hơn.
Từ đó, ta có thể thống nhất khái niệm: Xã hội hóa là quá trình mà
qua đó cá nhân học hỏi, lĩnh hội nền văn hóa của xã hội như các khuôn
1
Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (2008) Xã hội học, Nxb Thế giới. Tr.259
99
- mẫu xã hội, quá trình mà nhờ nó cá nhân đạt được những đặc trưng xã
hội của bản thân, học được cách suy nghĩ và ứng xử phù hợp với vai trò
xã hội của mình, hòa nhập vào xã hội.
Khái niệm xã hội hóa trên nhấn mạnh hơn tính chủ động của cá nhân
trong quá trình thâm nhập vào xã hội để tự biến mình thành nhân tố xã
hội. Nhưng ẩn sau sự chủ động của cá nhân đồng thời là sự tác động,
phản chiếu, "đóng dấu"... của xã hội lên cá nhân đó.
Xã hội hóa là việc "biến" con người tự nhiên thành con người xã hội,
là quá trình "nhào nặn" và "tự nhào nặn" ra con người xã hội. Xã hội hóa
diễn ra với tất cả mọi người nhưng mức độ không giống nhau. Kết quả xã
hội hóa cá nhân tùy thuộc vào nhiều yếu tố tự nhiên, khách quan (môi
trường xã hội hóa) và chủ quan (năng lực tư duy, ý chí, nghị lực)... của
bản thân họ. Những người sinh ra và tồn tại trong môi trường, điều kiện
sống khác nhau có nhân cách khách nhau. Ngược lại, do nhiều yếu tố chủ
quan và khách quan, nhiều người có cùng môi trường, điều kiện sống
giống nhau nhưng nhân cách cũng không giống nhau.
3. Cơ chế xã hội hóa
Quá trình xã hội truyền lại nền văn hóa cho mỗi cá nhân theo những
cách khác nhau, bằng những cách đó cá nhân học hỏi được nền văn hóa
xã hội. Những cách này được gọi là cơ chế xã hội hóa. Có hai cơ chế xã
hội hóa cơ bản.
Cơ chế định chế: Cơ chế định chế là cơ chế mà xã hội truyền lại
những giá trị chuẩn mực, khuôn mẫu bắt buộc cá nhân phải tuân theo. Cá
nhân phải trải qua quá trình học hỏi, tích lũy kinh nghiệm, thực hành
những gì tiếp nhận được vào trong cuộc sống của mình. Nhờ đó mỗi cá
nhân học được các tri thức khoa học về tự nhiên, xã hội, học được những
kỹ năng lao động nhất định mà xã hội đã đạt được, đồng thời các cá nhân
còn học được kinh nghiệm của những người đi trước để vận dụng vào
cuộc sống.
Cơ chế phi định chế: Cơ chế phi định chế là cơ chế trong đó mỗi cá
nhân học được ở xã hội những điều cần thiết một cách tự nhiên. Cơ chế
này được thực hiện thông qua hai cách chủ yếu, đó là:
100
- - Bắt chước: Là sự tái tạo, lặp lại, sao chép các hành động, cách thức
suy nghĩ và ứng xử của một người, hay một nhóm người trong xã hội. Cá
nhân sẽ lựa chọn những giá trị mình cho là đúng đắn để bắt chước làm
theo. Bắt chước là biện pháp cá nhân tiếp thu các kinh nghiệm xã hội và
làm theo để tạo ra những giá trị cho bản thân mình.
- Lây lan: Là quá trình truyền các hành vi xã hội từ người này qua
người khác một cách tự nhiên. Các hành vi xã hội được lan truyền ngay
cả khi họ không có ý định bắt chước hay học tập. Trong lây lan, sự lan
truyền hành vi xã hội ở người này sang người khác trong những điều kiện
nhất định. Đây là phương thức mà nhiều người học được những kinh
nghiệm trong ứng xử xã hội và tạo ra những giá trị mới khi học hỏi và
truyền lại vào xã hội.
Trên thực tế có nhiều người nhận định vợ chồng thường có nét giống
nhau. Ở đây, sự giống nhau không chỉ nói đến hình thức mà còn cả
những cử chỉ, biểu hiện và hành động. Chính vì chung sống cùng nhau
nên dần dần họ có những thói quen, cử chỉ, hành động có những điểm
giống nhau. Đây có thể được xem là sự lây lan từ người này sang người
kia và ngược lại. Những đứa trẻ trong gia đình có những hành vi mà bố
mẹ không dạy và không bắt chước ai, những hành vi đó gần như giống
với bố mẹ chúng thời nhỏ. Vì vậy, ngạn ngữ Việt Nam mới có câu: "Con
nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh" để ám chỉ sự lan truyền từ
bố mẹ sang con cái.
4. Vai trò xã hội hóa
Xã hội hóa tạo ra nhân cách, hoàn thiện và phát triển nhân cách của
mỗi con người trong xã hội. Tức là qua quá trình xã hội hóa con người
được giáo dục, hoàn thiện và phát triển nhân cách.
Nhân cách là một trong những vấn đề quan trọng trong xã hội học
được các nhà xã hội học cũng như các tác giả ở các lĩnh vực khoa học
khác quan tâm nghiên cứu. Từ khi sinh ra cho đến khi từ giã cõi đời, con
người trải qua những giai đoạn phát triển khác nhau. Ở mỗi giai đoạn,
con người đều để lại những dấu ấn mang tính đặc trưng, khác biệt so với
mọi người và được xã hội nhìn nhận, đánh giá một cách tổng thể.
101
- Từ điển bách khoa Việt Nam (Nguyễn Văn Trương, Cù Huy Cận,
Đặng Vũ Khiêu) giải thích nhân cách là hệ thống những phẩm giá của
một người được đánh giá từ quan hệ qua lại của người đó với những
người khác, với tập thể, với xã hội và cả với thế giới tự nhiên xung quanh
trong mọi cái nhìn xuyên suốt quá khứ, hiện tại và tương lai. Nhân cách
là một thứ giá trị được xây dựng và hình thành trong toàn bộ thời gian
con người tồn tại trong xã hội, nó đặc trưng cho mỗi con người, thể hiện
những phẩm chất bên trong con người nhưng lại mang tính xã hội sâu sắc.
Mỗi cá nhân trải qua các giai đoạn nhất định của xã hội hóa mà đạt
được khả năng, năng lực hoạt động để thể hiện vai trò của chính mình
trong xã hội. Hoàn thiện nhân cách của con người là cả một quá trình dài
suốt cuộc đời của người ấy. Sự hoàn thiện nhân cách đó phụ thuộc vào
quá trình giáo dục xã hội.
Xã hội hóa tạo ra sự hoàn thiện, phát triển nhân cách ở mỗi người.
Cá nhân thể hiện vai trò của mình trong xã hội trong những điều kiện
khác nhau. Mỗi cá nhân sẽ chủ động tiếp nhận giá trị, học hỏi, tích lũy
kinh nghiệm và sáng tạo tác động để xây dựng xã hội. Quá trình đó giúp
cá nhân nâng cao chất lượng hành vi xã hội của mình, tham gia góp phần
sáng tạo cho xã hội.
Như vậy, con người luôn chủ động tiếp nhận những kinh nghiệm xã
hội để tạo nên nhân cách. Mặt khác, con người sáng tạo ra những cái
mới, cái tiến bộ hơn để xây dựng xã hội ngày càng phát triển. Đây là quá
trình phát triển nhân cách cá nhân ngày càng hoàn thiện hơn. Sự hoàn
thiện nhân cách được diễn ra trong các điều kiện xã hội nhất định. Điều
này đòi hỏi phải tạo ra môi trường xã hội lành mạnh cho con người nhằm
tác động vào quá trình xã hội hóa theo hướng tích cực.
II. PHÂN ĐOẠN XÃ HỘI HÓA
1. Vấn đề phân đoạn xã hội hóa
Xã hội hóa cá nhân là một quá trình có bắt đầu và kết thúc. Đến nay
vẫn tồn tại một số quan niệm khác nhau về phân đoạn xã hội hóa. Về cơ
bản sự khác nhau giữa các cách phân đoạn xã hội hóa đều tập trung vào
102
- vấn đề xã hội hóa bắt đầu từ đâu và kết thúc khi nào. Vậy quá trình xã
hội hóa bắt đầu và kết thúc khi nào?
Đa số các nhà khoa học đều cho rằng nó bắt đầu từ khi con người
được sinh ra. Số khác lại cho rằng bắt đầu từ khi thai nhi có thể phản ứng
với những tác động từ bên trong hoặc bên ngoài. Đã có những nghiên
cứu chứng minh được rằng, thai nhi từ 6 - 7 tháng tuổi bắt đầu có những
phản ứng với bên ngoài.
Về điểm kết thúc quan điểm phổ biến của các nhà khoa học cho rằng
đó là một quá trình kéo dài hết đời người. Số khác cho rằng nó kết thúc
khi cá nhân trưởng thành về mặt sinh lý. Cá biệt cho rằng xã hội hóa tiếp
tục khi cá nhân đó đã chết.
Tuy vậy hầu hết các nhà xã hội học đều thống nhất rằng đây là một
quá trình kéo dài từ khi con người sinh ra và kết thúc khi họ chết, nói
cách khác xã hội hóa đi suốt cuộc đời mỗi con người. Khi con người
chưa được sinh ra, chưa tiếp xúc xã hội do vậy chưa thể tiếp nhận kiến
thức, kinh nghiệm xã hội. Khi con người trưởng thành về mặt sinh lý,
được coi là "người lớn" nhưng nhân cách hầu như vẫn chưa đầy đủ, chưa
hoàn thiện. Còn khi một người đã mất quá trình xã hội hóa đối với họ đã
chấm dứt nhưng uy tín, ảnh hưởng... của họ tham gia cấu thành nên môi
trường xã hội hóa cho những người khác, thế hệ khác đang sống.
Xã hội hóa
Cuộc đời
Hình: Xã hội hóa và cuộc đời của một con người
103
- Ngoài ra, một vấn đề khác cũng được nhiều nhà xã hội học quan tâm
là sự khác biệt trong quá trình xã hội hóa ở người lớn và trẻ em. Họ cho
rằng, trong quá trình xã hội hóa, người lớn thường thay đổi hành vi của
mình ở các quá trình xã hội hóa, trong khi trẻ em lại tạo lập và thu nhận
lấy các giá trị căn bản; người lớn có thể phán xét, đánh giá về các giá trị
chuẩn mực mà họ cần phải tuân theo còn trẻ em thì thông thường chỉ thụ
động tiếp nhận; quá trình xã hội hóa ở người lớn được thiết kế nhằm giúp
các cá nhân có thể có được những kỹ năng nhất định. Còn ở trẻ em liên
quan nhiều đến các động cơ hành động...
2. Các giai đoạn của quá trình xã hội hóa
Phân chia giai đoạn của quá trình xã hội hóa có rất nhiều cách khác
nhau dựa trên nhiều căn cứ khác nhau. Hiện nay, phân đoạn xã hội hóa
chưa có sự thống nhất quan điểm với nhau, vì vậy tùy thuộc vào mục
đích nghiên cứu mà ta có các cách phân đoạn nhất định, sau đây là phân
đoạn của một số nhà xã hội học tiêu biểu.
a. Phân đoạn quá trình xã hội hóa của các nhà triết học cổ
phương Đông
Các nhà triết học cổ phương Đông dựa vào năng lực hành vi xã hội
chia quá trình xã hội hóa ra thành 3 giai đoạn.
- Giai đoạn vị thành niên: Là giai đoạn phân cách của đứa trẻ đang
hình thành, bắt đầu từ lúc sinh ra và đến dưới 18 tuổi. Cá nhân tiếp thu tri
thức, kinh nghiệm xã hội để tạo ra nhân cách riêng cho mình. Giai đoạn
này đứa trẻ chưa tự lập và chưa nhận thức được hết những gì diễn ra
trong cuộc sống, vì vậy, nó chưa chịu trách nhiệm đối với hành vi của
mình. Chính vì vậy quá trình dạy bảo đứa trẻ trong giai đoạn này rất quan
trọng bởi nó là bước đầu tiên trong hình thành nhân cách của một con
người và ảnh hưởng lâu dài đến sự hình thành nhân cách của họ. Lúc
này, vai trò của nhà trường và gia đình là rất quan trọng trong việc định
hình nhân cách cho đứa trẻ.
- Giai đoạn thành niên: Từ 18 tuổi đến dưới 30 tuổi. Trong giai đoạn
này, nhân cách của đứa trẻ tiếp tục được củng cố và phát triển. Cá nhân
tiếp tục học tập để tiếp thu tri thức và kinh nghiệm nâng cao sự hiểu biết
104
- và năng lực hành vi cá nhân. Lúc này, cá nhân đã phải tự chịu trách
nhiệm đối với hành vi xã hội của mình.
- Giai đoạn tự lập trong cuộc sống: Bắt đầu từ 30 tuổi đến lúc qua
đời. Trong giai đoạn này con người có thể tự lập hoàn toàn trong suy
nghĩ và hành động. Cá nhân bộc lộ tính độc lập, tự chủ, sáng tạo cao và
khả năng cống hiến nhiều cho xã hội. Trong giai đoạn này nhân cách
của con người vẫn được củng cố và phát triển. Những hành vi của cá
nhân đã hoàn thiện và thể hiện sự phát triển sâu trong nhận thức.
Phân đoạn quá trình xã hội hóa theo quan niệm này giúp cho ta thấy
rõ trách nhiệm và vai trò xã hội đối với cá nhân trong suốt cuộc đời của
họ. Trong nghiên cứu các vấn đề xã hội, đặc biệt là luật pháp thì giai
đoạn thành niên trở đi là giai đoạn con người có năng lực hành vi pháp
luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi xã hội của mình.
b. Phân đoạn của nhà xã hội học người Mỹ, G. Mead
Theo Mead, kết quả của quá trình xã hội hóa là một nhân cách gồm
hai thành phần của cái tôi. Cái tôi chủ động và cái tôi bị động. Quá trình
này trải qua 3 giai đoạn:
- Bắt chước: Đây là giai đoạn mà con người sao chép hành vi của
người khác theo cơ chế bắt chước một cách bị động hoặc chủ động. Đứa
trẻ thấy người lớn làm bất cứ việc gì nó cũng có thể bắt chước làm theo.
Sự bắt chước này có thể chủ động hoặc bị động, chưa mang tính nhận
thức. Chính vì vậy, người lớn trong quá trình chăm sóc đứa trẻ cần làm
gương cho nó học tập và bắt chước theo.
- Đóng vai: Đây là giai đoạn mà con người đã nhận thức được những
hành vi tương ứng với vai trò xã hội nhất định, đặc biệt là các vai trò
trong phạm vi quan sát được. Chẳng hạn khi trẻ con chơi với nhau chúng
rất hay nghĩ đến việc đóng vai. Chúng chơi trò bố mẹ và con cái. Đứa trẻ
đóng vai bố hoặc mẹ, nó nựng yêu hoặc mắng đứa trẻ bé hơn giống như
bố mẹ mắng mình. Hay có lúc những đứa trẻ đó lại thích đóng vai cô
giáo và học sinh... Việc chuyển vai này giúp cho những đứa trẻ hình
thành khả năng hiểu được những suy nghĩ và hành động của người khác
trong khi thực hiện các vai trò đó. Đây là một bước quan trọng của việc
hình thành nhân cách.
105
- - Trò chơi: Ở giai đoạn này, đứa trẻ cần phải biết được sự đòi hỏi
không phải chỉ của một cá nhân nào đó mà của cả xã hội. Giai đoạn này
giúp cái tôi trong mỗi con người không chỉ bị động tiếp nhận mà rất chủ
động. Con người phân biệt rõ cái chung của xã hội và cái riêng của cá
nhân, phân biệt rõ mình, người khác và cộng đồng. Đó là cơ sở để con
người hòa chung vào cuộc sống cộng đồng.
c. Phân đoạn xã hội hóa của nhà xã hội học người Nga,
G. Andreeva
Với mục đích nghiên cứu về các hoạt động của con người trong xã
hội, Andreeva đã phân chia quá trình xã hội hóa thành 3 giai đoạn là:
- Giai đoạn trước lao động: Bao gồm toàn bộ thời kỳ từ lúc con
người được sinh ra cho đến khi họ bắt tay vào lao động. Giai đoạn này
được chia thành hai giai đoạn nhỏ.
Giai đoạn trẻ thơ: Là giai đoạn đứa trẻ tiếp thu một cách thụ động,
máy móc các hành vi và là giai đoạn vui chơi ở nhà hoặc ở những nơi nó
được đưa đến. Giai đoạn này từ lúc trẻ sinh ra đến lúc đi học.
Giai đoạn học hành: Là giai đoạn đứa trẻ tiếp nhận tri thức và kỹ
năng lao động. Vì vậy, giai đoạn này đứa trẻ đã có sự tiếp nhận các hành
vi một cách có mục đích, có ý thức. Đứa trẻ càng lớn lên thì hành vi tiếp
nhận càng có tính chọn lọc để tự hình thành cho mình năng lực hành vi
riêng.
- Giai đoạn lao động: Đánh dấu bằng việc từ khi cá nhân bắt đầu
tham gia lao động và kết thúc khi không còn tham gia lao động nữa (về
hưu). Trong giai đoạn này, cá nhân vừa tiếp thu kinh nghiệm xã hội, vừa
tích lũy kinh nghiệm, vừa bộc lộ năng lực hành vi trong các hoạt động
hàng ngày. Giai đoạn này được đánh giá là vô cùng quan trọng trong quá
trình xã hội hóa bởi con người tiếp thu, củng cố, phát triển các tri thức,
kinh nghiệm xã hội để nâng cao năng lực hành vi cá nhân. Hơn nữa lao
động giúp con người hiểu rõ được cái tôi và cái chúng ta để sống hòa
đồng vào cộng đồng xã hội. Lao động giúp thể hiện vai trò của cá nhân
trong xã hội, thể hiện năng lực hành vi cá nhân có ích cho xã hội và tham
gia đóng góp, xây dựng xã hội phát triển.
106
- - Giai đoạn sau lao động: Đó là khi cá nhân kết thúc quá trình lao
động của mình, về nghỉ hưu. Tuy nhiên, hiện nay đang có hai quan điểm
trái ngược nhau về giai đoạn sau lao động của G. Andreeva. Có quan
niệm cho rằng, khái niệm xã hội hóa hoàn toàn không có ở giai đoạn này
vì chức năng xã hội của nó bị thu hẹp lại. Tức là không có chuyện người
già tiếp thu kinh nghiệm xã hội, hay thậm chí sản xuất ra nó. Quan niệm
thứ hai cho rằng cần phải nhìn nhận một cách tích cực đối với quá trình
xã hội hóa ở giai đoạn này bởi vì xã hội hiện đại ngày nay đã kéo dài tuổi
thọ của con người và đồng thời cũng tạo ra các điều kiện phát huy tính
tích cực xã hội của người già. Nhiều người già đóng vai trò quan trọng
trong việc tái tạo các kinh nghiệm xã hội, đặc biệt là trong giai đoạn hiện
nay khi mà khoa học kỹ thuật thay đổi nhanh chóng, thông tin được phổ
biến rộng rãi có tính chất quốc tế, đòi hỏi xã hội phải tái tạo các kinh
nghiệm và truyền lại những kinh nghiệm, những giá trị cho thế hệ trẻ.
III. MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI HÓA
Môi trường xã hội hóa là nơi các cá nhân thực hiện các tương tác xã
hội của mình nhằm mục đích thu nhận, tái tạo kinh nghiệm và những giá
trị chuẩn mực trong xã hội. Con người được đánh giá là động vật bậc
cao, phát triển hoàn thiện hơn các sinh vật khác nhưng con người không
thể trở thành một nhân cách hoàn thiện nếu không được đặt trong môi
trường xã hội. Bởi môi trường xã hội chính là nơi con người học hỏi, tích
lũy những giá trị kinh nghiệm sống xã hội. Môi trường xã hội đóng vai
trò quan trọng trong việc hình thành con người xã hội hoàn chỉnh về
nhân cách, năng lực và trí tuệ. Người ta thường ví, môi trường xã hội như
là "vườn ươm nhân cách". Các nhà xã hội học đều nhất trí cho rằng môi
trường xã hội hóa gồm các loại chủ yếu sau:
1. Gia đình
Gia đình là môi trường xã hội hóa đầu tiên và quan trọng bậc nhất.
Khi mới sinh ra, con người hoàn toàn phụ thuộc vào người khác trong
việc đáp ứng các nhu cầu của mình. Gia đình dạy cho trẻ những kinh
nghiệm xã hội, các giá trị, tiêu chuẩn văn hóa và dần dần trẻ em kết hợp
được nó vào ý thức của cá nhân. Thông qua quá trình đó, gia đình không
107
- chỉ đưa trẻ em đến với thế giới mà còn đặt chúng vào trong xã hội. Qua
đó, con người dần hình thành cái tôi cá nhân, hoàn thiện và phát triển nó
cho đến hết cuộc đời. Gia đình là môi trường đầu tiên truyền thụ trực tiếp
cho trẻ những đặc điểm xã hội nổi bật như truyền thống, tôn giáo, đạo
đức,... Trước khi đứa trẻ đủ lớn khôn để thực sự hiểu được vấn đề thì nó
đã có thể nắm bắt được vị trí của mình trong cấu trúc xã hội do gia đình
xác lập. Khi trưởng thành, cá nhân có thể thay đổi vị trí của mình trong
cấu trúc đó thông qua sự học hỏi, tiếp thu và tái tạo những giá trị xã hội.
Mặt khác, gia đình cũng là nơi đầu tiên truyền cho những thành viên mới
sinh ra của xã hội những ý niệm về giống phái, giới tính… Môi trường
gia đình truyền lại những giá trị cuộc sống cho đứa trẻ. Những yếu tố tự
nhiên và yếu tố xã hội, những giá trị xã hội thừa nhận… dần dần đứa trẻ
được tiếp nhận thông qua môi trường xã hội hóa là gia đình.
Ví dụ, trong gia đình, trong hầu hết các nền văn hóa, trẻ nhỏ được
dạy rằng con trai cần phải mạnh mẽ, dũng cảm và con gái cần phải dịu
dàng. Quá trình xã hội hóa trong gia đình được xem xét ở ba khía cạnh.
- Thiết chế gia đình: Là những quy định trong hành vi và lối sống,
nhằm tạo ra sự thống nhất các hành động trong gia đình.
- Giáo dục gia đình: Là sự truyền lại những cái đúng, cái sai và tri
thức cho mỗi cá nhân nhằm tạo ra những tri thức cao và hành vi đúng
cho mỗi cá nhân.
- Hành vi của mỗi người lớn trong gia đình thể hiện nhân cách của
họ. Những hành vi này sẽ truyền lại cho các thế hệ sau bằng các con
đường bắt chước và lây lan. Chính vì vậy, những người lớn trong gia
đình phải là các tấm gương mẫu mực trong hành vi để con trẻ noi theo.
Những giá trị gia đình truyền thụ cho trẻ em đều có chủ ý, theo lối
mô phạm đơn thuần. Chính trong môi trường gia đình, trẻ em sẽ học
được từ người lớn những hành động trong cuộc sống hàng ngày mà đôi
khi bản thân người lớn không có chủ đích dạy bảo. Bởi vậy, người lớn
trong gia đình sẽ trở thành tấm gương soi và phản chiếu vào đứa trẻ trong
mỗi hành động, cử chỉ, suy nghĩ và lối sống. Qua đó, đứa trẻ dần nhận
thức về bản thân mình sâu sắc hơn. Nó biết những giá trị sức mạnh của
bản thân là mạnh mẽ, thông minh hay những yếu điểm tối dạ, nhút nhát...
108
- Thậm chí, qua môi trường giáo dục gia đình, đứa trẻ biết mình được yêu
thương hay bị ghét bỏ... Thế giới bên ngoài có những gì hấp dẫn, tươi vui
và có những rủi ro, nguy hiểm gì thì môi trường gia đình là nơi chỉ ra cho
đứa trẻ đầu tiên.
Quá trình truyền thụ của gia đình cho mỗi cá nhân thông qua rất
nhiều yếu tố như thiết chế gia đình, giáo dục gia đình, hành vi của người
lớn, truyền thống gia đình, lối sống gia đình... tạo ra môi trường tiểu văn
hóa. Môi trường gia đình được xây dựng trên nền tảng của văn hóa chung
của xã hội nhưng lại mang những đặc thù riêng của từng gia đình. Các cá
nhân sẽ tiếp nhận các đặc điểm của tiểu văn hóa như những kinh nghiệm
sống, các giá trị, các quy tắc ứng xử từ các thành viên trong gia đình để
hoàn thiện và phát triển nhân cách bản thân.
Đến giai đoạn trưởng thành xây dựng gia đình, những tiểu văn hóa
mới lại được tiếp tục hình thành với những đặc trưng riêng của nó, đó là
sự pha trộn giữa văn hóa chung của xã hội, tiểu văn hóa gia đình cũ và
của chủ nhân gia đình mới (người kết nối và tạo dựng văn hóa mới). Quy
trình này là quá trình liên tục từ thế hệ này sang thế hệ khác.
2. Trường học
Trường học là nơi con người bắt đầu được tiếp xúc với tính đa dạng
xã hội, tương tác với những thành viên bên ngoài xã hội. Môi trường này
dạy dỗ cho con người nhiều điều khác so với nền tảng trong gia đình.
Nhà trường dạy cho trẻ em những kiến thức và kỹ năng, tri thức của nhân
loại từ đơn giản đến phức tạp. Nếu như ở môi trường gia đình trẻ được
truyền thụ những giá trị căn bản ban đầu thì ở môi trường nhà trường sự
truyền thụ đó có tính đa dạng hơn rất nhiều. Môi trường nhà trường tạo
cho cá nhân nhận thức rõ ràng hơn về vị trí của mình trong cấu trúc xã
hội. Sự nhận biết các khía cạnh của cuộc sống của mỗi cá nhân được
nâng cao nhờ môi trường xã hội hóa từ nhà trường. Trường học cũng là
bộ máy hành chính đầu tiên mà hầu hết trẻ em được tiếp xúc, những thời
khóa biểu, nội quy... cho chúng có ý niệm về một nhóm, tổ chức lớn
cũng như vai trò là một bộ phận trong đó.
Nhà trường là môi trường xã hội hóa rất quan trọng vì đa phần trẻ
em trước khi trưởng thành, bước vào giai đoạn tự lập, lao động và hoạt
109
- động xã hội đều phải trải qua môi trường xã hội hóa này. Nhà trường
giáo dục và đào tạo con người đáp ứng được nhu cầu của xã hội và phù
hợp với năng lực của mỗi cá nhân trong xã hội. Trong xã hội hiện đại với
sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ, của tri thức nhân loại vừa
đòi hỏi vừa tạo điều kiện để cá nhân được học tập, đào tạo lâu dài, liên
tục. Xã hội hóa trong nhà trường thường hướng vào những vấn đề cơ bản:
- Giáo dục tri thức: Là trang bị cho người học các tri thức của nhân
loại về tự nhiên, xã hội, con người và những kỹ năng khác trong hoạt
động nhận thức, lao động của mỗi cá nhân. Con người sẽ dần hoàn thiện
về năng lực làm việc và nhận thức cao hơn.
- Giáo dục nhân cách: Các giá trị chuẩn mực, các khuôn mẫu xã hội
thừa nhận được nhà trường giảng dạy cho mỗi người học. Môi trường
nhà trường định hướng, dẫn dắt để cho người học chọn và thể hiện hành
vi của mình sao cho phù hợp với hoàn cảnh xã hội nhất định. Giáo dục
nhân cách rất quan trọng đối với con người nhất là hiện nay khi các giá
trị chuẩn mực xã hội đang có nhiều biến đổi, tác động xấu từ môi trường
xã hội lan truyền nhanh, thâm nhập sâu vào cả các nhà trường.
Giáo dục tri thức và giáo dục nhân cách được nhà trường sử dụng
bằng các phương pháp, công cụ khác nhau để đạt được kết quả cao nhất.
Thông qua các hoạt động của nhà trường đáp ứng các yêu cầu giáo dục
của xã hội, phù hợp với quy định của xã hội. Hoạt động của nhà trường
mang tính giáo dục cao, giúp cho người học có trách nhiệm với bản thân,
gia đình và xã hội. Bên cạnh đó, trong môi trường nhà trường, hành vi
của thầy cô giáo và các nhân viên khác được coi là chuẩn mực và gương
mẫu mà mỗi người học cần phải noi theo. Chính vì vậy, họ sẽ trở thành
tấm gương để người học nhìn vào và học tập, đặc biệt đối với những lứa
tuổi trẻ nhỏ vừa bước vào tuổi đi học.
3. Nhóm cùng vị thế
Cá nhân sống trong xã hội đều có khuynh hướng chọn cho mình vào
nhóm xã hội phù hợp. Quan hệ giữa các cá nhân trong xã hội là yếu tố
quan trọng ảnh hưởng nhiều đến quá trình xã hội hóa. Mỗi cá nhân đều
có nhu cầu sống, hoạt động và thỏa mãn nhu cầu giao tiếp, giải trí...
Nhóm xã hội ra đời dựa trên những nhu cầu của con người trong quá
trình đó.
110
- Có thể chia nhóm xã hội thành các nhóm cơ bản như sau:
- Quan hệ bạn bè: Gồm những người có quan hệ bình đẳng, cùng vị
thế xã hội nên các cá nhân thường chia sẻ thái độ, tâm tư và cảm xúc
với nhau.
- Quan hệ đồng nghiệp: Là quan hệ của những người cùng hoạt động
chung trong một nhóm lao động nào đó. Quan hệ này vừa mang tính chất
tổ chức, vừa mang tính chất chia sẻ nghề nghiệp. Quan hệ này cá nhân
chia sẻ tình cảm, kinh nghiệm, giúp đỡ lẫn nhau trong hoạt động nghề
nghiệp.
- Quan hệ đồng sở thích: Là quan hệ của những người theo một sở
thích hoặc đồng suy nghĩ, quan điểm nào đó. Quan hệ này giúp cho mỗi
người tìm được sự hứng thú trong hoạt động và sự đồng cảm trong
cuộc sống.
Các nhóm xã hội tồn tại và tham gia vào các quá trình xã hội hóa
chủ yếu dựa trên các quy tắc, quy chế của nhóm; hành vi của thành viên;
các kinh nghiệm xã hội...
4. Thông tin đại chúng và dư luận xã hội
Thông tin đại chúng là những nguồn tư liệu chứa đựng các thông tin
(chữ viết, âm thanh, hình ảnh...) của xã hội truyền đến cá nhân thông qua
các phương tiện sách vở, báo chí, truyền thanh, truyền hình, internet...
Trong thời đại bùng nổ thông tin, khoa học và công nghệ tác động đến
mọi mặt của đời sống xã hội. Nhiều trẻ em tiếp xúc với thông tin, truyền
hình trước khi được đi học. Phương tiện truyền thông đại chúng cung cấp
cho các thành viên xã hội những thông tin đa dạng và có tác động lớn
đến hành vi của họ. Truyền thông mang lại cho con người những kinh
nghiệm xã hội, những mẫu văn hóa mang tính tiêu chuẩn dưới cách nhìn
phổ biến. Tuy nhiên, truyền thông cũng có những mặt trái của nó. Bên
cạnh việc giáo dục nhân cách, chia sẻ thông tin tri thức… truyền thông
cũng đem lại những hậu quả không mong muốn của con người.
Chẳng hạn, khi đưa thông tin về một vụ án tội phạm trẻ vị thành niên
trên truyền hình, internet... nó sẽ trở thành bài học cảnh tỉnh cho các bậc phụ
huynh quan tâm, dạy bảo con em mình. Tuy nhiên, ngược lại đối với trẻ vị
111
- thành niên thiếu nhận thức và hiểu biết xã hội, không được quan tâm giáo
dục, nó có thể học làm theo để gây án.
Rõ ràng, các thành viên của xã hội đều chịu ảnh hưởng ở mức độ
khác nhau do những gì mà các phương tiện truyền thông đem lại. Trong
lĩnh vực xã hội hóa, thông tin đại chúng có tính hai mặt. Một mặt, nó
tăng cường ý nghĩa của các giá trị, các chuẩn mực văn hóa cũng như
các tri thức khoa học đa dạng và bổ ích thông qua các chương trình giáo
dục, qua các nội dung được truyền đi. Truyền thông phổ biến văn hóa,
giúp các thành viên trong một xã hội gắn kết với nhau. Mặt khác, các
phương tiện này có thể làm méo mó, lệch lạc việc tiếp nhận các giá trị
thông tin qua các chương trình không lành mạnh do tính thương mại
hóa hoặc thiếu thận trọng của nhà lập chương trình truyền tin, dẫn tới
trẻ em lầm tưởng những gì in ấn, truyền tải qua tivi, phim ảnh... đều là
những thứ được xã hội thừa nhận. Điều này cản trở với quá trình giáo
dục từ gia đình và nhà trường, cản trở việc xã hội hóa tích cực đối với
cá nhân. Chính vì vậy, sự kiểm duyệt có định hướng thông tin đại
chúng để loại bỏ những lệch lạc trong nhận thức xã hội là việc làm cần
kíp, cấp bách hiện nay.
Dư luận xã hội cũng ảnh hưởng rất lớn đến nhân cách con người.
Dư luận xã hội có thể bổ sung, củng cố nhân cách nhưng cũng có thể
hủy hoại nhân cách. Mọi người có thể sử dụng dư luận xã hội để "đánh
bóng", làm tăng uy tín cho bản thân hay cổ vũ cho những người mà họ
muốn. Ngược lại, người ta cũng có thể dùng dư luận xã hội bôi xấu, hạ
thấp uy tín của người khác... Đặc biệt, với những người có ảnh hưởng
lớn trong cộng đồng (người của công chúng) tác động của dư luận xã
hội đến nhân cách của họ hay thông qua họ càng mạnh hơn.
NỘI DUNG ÔN TẬP
1. Xã hội hóa và một số quan niệm về xã hội hóa.
2. Cơ chế và vai trò của xã hội hóa.
3. Môi trường xã hội hóa.
4. Các giai đoạn của xã hội hóa.
112
- Chương 5
BIẾN ĐỔI XÃ HỘI
Cũng giống như tự nhiên, mọi xã hội đều không ngừng vận động và
biến đổi. Tất cả các xã hội đều ở trong một thực trạng đứng yên trong sự
vận động liên tục. Sự ổn định của xã hội chỉ là sự ổn định bề ngoài, còn
thực tế nó không ngừng thay đổi bên trong bản thân nó. Mặt khác, trong
điều kiện bùng nổ về khoa học - công nghệ, đặc biệt là viễn thông,
internet... sự biến đổi xã hội còn chứa đựng những yếu tố khó lường.
Việc nghiên cứu vấn đề biến đổi xã hội trở nên cấp thiết và hữu ích trong
việc lý giải các hiện tượng xã hội đang diễn ra.
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BIẾN ĐỔI XÃ HỘI
1. Khái niệm biến đổi xã hội và một số khái niệm liên quan
a. Khái niệm biến đổi xã hội
Xã hội cũng giống như thế giới tự nhiên luôn luôn vận động. Nếu
không vận động đó là xã hội "chết". Xã hội trong quá trình vận động sẽ
tạo ra sự thay đổi dù nhỏ hay lớn, dù ít hay nhiều. Có thể khẳng định sự
biến đổi của xã hội là điều đương nhiên, tất yếu.
Tìm hiểu nhiều công trình nghiên cứu, chúng ta thấy cụm từ "biến
đổi xã hội" có thể được dùng dưới nhiều tên gọi khác và không có sự
đồng nhất trong cách hiểu của các nhà khoa học về khái niệm này.
Trong Từ điển xã hội học, Nguyễn Khắc Viện dùng khái niệm "thay
đổi xã hội". Theo đó, "thay đổi xã hội chỉ trạng thái vận động xã hội
khác nhau: tiến bộ hoặc thoái bộ, tiến hóa hoặc cách mạng, bộ phận
hoặc toàn bộ..."1. Với cách tiếp cận này thay đổi xã hội diễn ra khi xã hội
có sự vận động trong tồn tại xã hội, ý thức xã hội hoặc kết hợp cả hai.
Thay đổi xã hội dùng để chỉ sự vận động xã hội từ một hình thái kinh tế -
xã hội này sang một hình thái kinh tế - xã hội khác.
1
Nguyễn Khắc Viện (1994), Từ điển xã hội học, Nxb Thế giới, Hà Nội. Tr. 284
113
- Một quan điểm khác cho rằng "Biến đổi xã hội là những sự thay đổi
diễn ra trong khuôn mẫu tổ chức xã hội, cấu trúc, thiết chế và đời sống
văn hóa xã hội"1. Quan điểm này hiểu biến đổi xã hội trên bình diện rộng
hơn. Có thể là biến chuyển các khuôn mẫu trong tổ chức hay trong các
thiết chế xã hội… và diễn ra trên quy mô xã hội tổng thể.
Từ điển xã hội học Oxford xem biến đổi xã hội không chỉ trên khía
cạnh cấu trúc chính trị và cơ cấu xã hội vĩ mô mà còn thể hiện trong
chuẩn mực, giá trị, khuôn mẫu hành vi, các mối quan hệ. Đó có thể là
những biến đổi từ cấp độ gia đình đến cấp độ toàn cầu, từ những biến đổi
ngắn hạn đến những biến đổi dài hạn, những biến đổi quy mô nhỏ đến
quy mô lớn.
Theo tác giả Nguyễn Xuân Nghĩa "Biến đổi xã hội là sự thay đổi có
tính cơ cấu trong những tổ chức, trong những lối suy nghĩ qua thời
gian"2. Như vậy, biến đổi xã hội diễn ra không chỉ trong cấu trúc của xã
hội tổng thể mà còn diễn ra trong những nhận thức và suy nghĩ.
Từ những quan điểm trên có thể khái quát thành hai cách hiểu cơ
bản về biến đổi xã hội.
- Hiểu theo nghĩa hẹp: Biến đổi xã hội là biến đổi về cấu trúc của xã
hội (hay tổ chức xã hội), có ảnh hưởng sâu sắc tới phần lớn thành viên
của xã hội đó. Các nhà xã hội học theo quan niệm này chỉ quan tâm đến
những biến đổi nào diễn ra ở tầm vĩ mô, có tác động lớn đến đa số thành
viên của xã hội.
Ví dụ, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, dưới ách cai trị của thực dân
Pháp, Việt Nam từ một xã hội phong kiến trở thành một xã hội thuộc địa
nửa phong kiến. Tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội
của Việt Nam đều bị tác động và biến chuyển sâu sắc.
- Hiểu theo nghĩa rộng: Biến đổi xã hội là sự thay đổi tình trạng xã
hội hoặc nếp sống có trước. Quan niệm này cho rằng chỉ cần tạo ra sự
khác biệt dù nhỏ thì đó chính là biến đổi xã hội.
1
Nguyễn Minh Hòa (1999), Xã hội học: Những vấn đề cơ bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Tr.192
2
Nguyễn Xuân Nghĩa (2003), Xã hội học, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Tr. 200
114
nguon tai.lieu . vn