Xem mẫu

Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Chƣơng I: MỘT SỐ VẤN ÐỀ CHUNG VỀ VĂN HỌC TRUNG ÐẠI VIỆT NAM I. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC TRUNG ĐẠI Xét trong toàn bộ tiến trình văn học dân tộc, văn học trung đại Việt Nam có một vị trí đặc biệt quan trọng, bởi, suốt hàng nghìn năm phát triển, văn học trung đại đã phản ánh đƣợc đất nƣớc Việt, con ngƣời Việt, đồng thời là ý thức của ngƣời Việt về tổ quốc, dân tộc. Nền văn học ấy đã nảy sinh từ chính quá trình đấu tranh dựng nƣớc, giữ nƣớc vĩ đại của dân tộc, đồng thời lại là sức mạnh tham gia vào quá trình đấu tranh này. Chính từ văn học trung đại, những truyền thống lớn trong văn học dân tộc đã hình thành, phát triển và ảnh hƣởng rất rõ đến sự vận động của văn học hiện đại. Vì lẽ đó, nghiên cứu văn học trung đại nhằm mục đích: - Tìm về với quá khứ hào hùng của dân tộc trong một nghìn năm dựng nƣớc và giữ nƣớc - Nâng cao lòng tự hào về truyền thống văn hóa của dân tộc - Tìm hiểu những nét đặc sắc trong đời sống vật chất và tinh thần của ngƣời Ðại Việt xa xƣa - Góp phần lý giải các quy luật phát triển của văn học dân tộc. II. NHỮNG YÊU CẦU CÓ TÍNH PHƢƠNG PHÁP LUẬN KHI NGHIÊN CỨU VHTĐ - Phải đảm bảo yêu cầu trung thực, khách quan, không võ đoán, phiến diện. - Phải có lƣợng kiến thức phong phú về ngôn ngữ, triết học, sử học.. đặc biệt là những hiểu biết về lịch sử và văn chƣơng Trung Quốc. - Phải đặt văn học trung đại trong mối quan hệ với văn học dân gian và văn học hiện đại để tìm ra sự kế thừa, phát triển. III. NHỮNG KHÓ KHĂN KHI NGHIÊN CỨU VĂN HỌC TRUNG ĐẠI - Kho tàng VHTÐ đã mất mát khá nhiều theo thời gian do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan: + Do chiến tranh, loạn lạc, sách vở bị thiêu hủy. + Do các vụ án chính trị có dính dáng đến các nho sĩ quan liêu, lực lƣợng sáng tác chủ yếu của văn học trung đại. + Do công tác bảo tồn, sƣu tầm tƣ liệu chƣa đƣợc quan tâm đúng mức. - Một số tác phẩm chƣa xác định đƣợc thời điểm ra đời, tác giả, tính chính xác của văn bản.. - Việc tiếp cận, đánh giá tác phẩm khó tránh khỏi suy diễn, áp đặt do thiếu tƣ liệu để kiểm chứng. IV. CƠ SỞ HỆ Ý THỨC VÀ QUAN ĐIỂM SÁNG TÁC 1.Cơ sở hệ ý thức: VHTÐ đƣợc sáng tác dựa trên cơ sở hệ ý thức Nho- Phật- Lão, chủ yếu là đạo Nho. Ảnh hƣởng của các học thuyết triết học này đã dẫn đến việc hình thành những nét đặc thù trong quan niệm của con ngƣời trung đại về: + Bản chất của vũ trụ http://diendankienthuc.net 1 Thandieu2 _ Sƣu tầm Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam + Không gian và thời gian + Thiên nhiên + Con ngƣời Những quan niệm này có quan hệ đến việc hình thành những đặc trƣng về nội dung và hình thức nghệ thuật của văn chƣơng trung đại. Vì vậy, muốn lý giải những vấn đề thuộc về bản chất của văn chƣơng trung đại, cái hay, cái đẹp của các tác phẩm thời trung đại, tất yếu, phải dựa trên cơ sở những quan niệm nghệ thuật đặc thù về thế giới và đời sống con ngƣời ở thời kỳ trung đại. 2. Về quan niệm sáng tác Văn học viết là sản phẩm của trí thức dân tộc. Ngày xƣa, các tầng lớp trí thức luôn chịu ảnh hƣởng rõ rệt của Nho học. Từ lâu, Nho gia đã gắn văn với đạo: Văn sở dĩ tải đạo dã. Chu Ðôn Di đời Tống, qua nhận định của mình, thừa nhận một quan niệm rất quan trọng của rất nhiều thế hệ Nho gia trƣớc đó về tính chất và ý nghĩa của văn học. Quan niệm này coi văn là cái hình thức, cái để chứa, để chuyên chở đạo lý. Vì vậy, đạo mới chính là nội dung. Mệnh đề văn dĩ tải đạo và thi ngôn chí có thể khái quát đƣợc một cách căn bản quan niệm sáng tác của các nhà văn thời trung đại. Ngƣời xƣa đời hỏi tác phẩm phải thực sự chân thành, văn học phải là tiếng nói phát ra từ đáy lòng nhƣng nội dung đó phải đƣợc thống nhất trong một hình thức đẹp để phục vụ, làm cho nội dung thêm hay. Do nhận thức rằng văn là dùng để biểu hiện các chân lý phổ biến, là hình thức đẹp để chuyển tải nội dung đi xa (Ngôn nhi vô văn, hành chi bất viễn- Khổng Tử) nên ở thời kỳ trung đại, phạm vi của văn học đƣợc quan niệm rất rộng. Từ công việc chép sử, luận triết học, viết chiếu, chế, biểu, cáo, hịch,.. đều trau chuốt hình thức câu văn sao cho ý đẹp lời hay. Văn dùng để chuyên chở đạo lý nên ngƣời xƣa rất xem trọng văn chƣơng. Nó có chức năng giáo hóa (giáo dục, làm thay đổi nhân cách của con ngƣời theo hƣớng tốt đẹp hơn) và di dƣỡng tính tình (giúp bản thân nhà văn thanh lọc tâm hồn, bày tỏ tâm sự trung quân ái quốc, nuôi dƣỡng nhân cách ngƣời quân tử). Nhìn chung, quan niệm Văn chở đạo ảnh hƣởng rất rõ đến mục đích viết văn, phạm vi đề tài, hình thức thể hiện. Tuy nhiên, càng tách rời khỏi giáo điều Nho gia, càng gần với thực tế cuộc sống dân tộc, các tác giả trung đại càng phát huy đƣợc mặt tích cực của quan niệm đó. Xu hƣớng này thể hiện rất rõ trong suốt chiều dài phát triển của VHTÐ. V. PHÂN KỲ LỊCH SỬ VHTĐ Lịch sử văn học luôn quan hệ mật thiết với vận mệnh dân tộc, đến cuộc đấu tranh dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc. Mỗi khi dân tộc bƣớc vào một thử thách mới, lập tức, nội dung văn học cũng phải có sự chuyển biến và dần dần diễn ra những thay đổi về nội dung, hình thức thể hiện. Lịch sử văn học có những quy luật nội tại và tính độc lập tƣơng đối của nó. Trong từng giai đoạn, có thể không có sự trùng hợp hoàn toàn giữa lịch sử văn học và lịch sử dân tộc nhƣng vẫn có thể căn cứ vào lịch sử dân tộc để phân kỳ lịch sử văn học, bởi, xét đến cùng, văn học bao giờ cũng là tấm gƣơng phản ánh trung thành thời đại. Căn cứ vào các yếu tố lịch sử, đặc trƣng nội dung và hình thức nghệ thuật, có thể phân kỳ lịch sử VHTÐ VN nhƣ sau: + Giai đoạn văn học Lý- Trần (Từ TK XI đến TK XIV) + Giai đoạn văn học đời Lê (TK XV) http://diendankienthuc.net 2 Thandieu2 _ Sƣu tầm Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam + Giai đoạn văn học từ TK XVI đến nửa đầu TK XVIII + Giai đoạn văn học từ nửa sau TK XVIII đến nửa đầu TK XIX + Giai đoạn văn học nửa cuối TK XIX (Văn học yêu nƣớc chống Pháp) VI. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM 1. Chủ nghĩa yêu nƣớc và chủ nghĩa nhân đạo- hai dòng chủ lƣu của VHTÐVN. a. Chủ nghĩa yêu nƣớc: Văn hóa Ðại Việt, văn chƣơng Ðại Việt khởi nguồn từ truyền thống sản xuất và chiến đấu của tổ tiên, từ những thành tựu văn hóa và từ chính thực tiễn hàng nghìn năm đấu tranh chống giặc ngoại xâm phƣơng Bắc. Hiếm thấy một dân tộc nào trên thế giới lại phải liên tục tiến hành những cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm nhƣ dân tộc Việt Nam. Nhà Tiền Lê, nhà Lý chống Tống. Nhà Trần chống Nguyên Mông. Nhà Hậu Lê chống giặc Minh. Quang Trung chống giặc Thanh. Những cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại đƣợc tiến hành trong trƣờng kỳ lịch sử nhằm bảo vệ nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc không những tôi luyện bản lĩnh dân tộc, nâng cao lòng tự hào, tự tin, khí thế hào hùng của dân tộc mà còn góp phần làm nên một truyền thống lớn trong văn học Việt Nam: Chủ nghĩa yêu nƣớc. Ðặc điểm lịch sử đó đã quy định cho hƣớng phát triển của văn học là phải luôn quan tâm đến việc ca ngợi ý chí quật cƣờng, khát vọng chiến đấu, chiến thắng, lòng căm thù giặc sâu sắc, ý thức trách nhiệm của những tấm gƣơng yêu nƣớc, những ngƣời anh hùng dân tộc quên thân mình vì nghĩa lớn. Có thể nói, đặc điểm này phản ánh rõ nét nhất mối quan hệ biện chứng giữa lịch sử dân tộc và văn học dân tộc. Quá trình đấu tranh giữ nƣớc tác động sâu sắc đến sự phát triển của văn học, bồi đắp, phát triển ý thức tự hào dân tộc, tinh thần độc lập tự chủ. Cho nên, chế độ phong kiến có thể hƣng thịnh hay suy vong nhƣng ý thức dân tộc, nội dung yêu nƣớc trong văn học vẫn phát triển không ngừng. Các tác phẩm văn học yêu nƣớc thời kỳ này thƣờng tập trung thể hiện một số khía cạnh tiêu biểu nhƣ: - Tình yêu quê hƣơng - Lòng căm thù giặc - Yï thức trách nhiệm - Tinh thần vƣợt khó, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc - Ý chí quyết chiến, quyết thắng - Ðề cao chính nghĩa của ngƣời Việt Nam trong những cuộc kháng chiến. b. Chủ nghĩa nhân đạo Văn học do con ngƣời sáng tạo nên và tất yếu nó phải phục vụ trở lại cho con ngƣời. Vì vậy, tinh thần nhân đạo là một phẩm chất cần có để một tác phẩm trở thành bất tử đối với nhân loại. Ðiều này cũng có nghĩa là, trong xu hƣớng phát triển chung của văn học nhân loại, VHTÐVN vẫn hƣớng tới việc thể hiện những vấn đề của chủ nghĩa nhân đạo nhƣ: http://diendankienthuc.net 3 Thandieu2 _ Sƣu tầm Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam - Khát vọng hòa bình - Nhận thức ngày càng sâu sắc về nhân dân mà trƣớc hết là đối với những tầng lớp thấp hèn trong xã hội phân chia giai cấp - Ðấu tranh cho hạnh phúc, cho quyền sống của con ngƣời, chống lại ách thống trị của chế độ phong kiến. - Ca ngợi vẻ đẹp của con ngƣời lao động - Tố cáo mạnh mẽ và đấu tranh chống những thế lực phi nhân. 2. Văn học viết phát triển dựa trên những thành tựu của văn học dân gian - Văn học viết Việt Nam hay bất kỳ một nền văn học dân tộc nào khác đều phải phát triển trên cơ sở kế thừa những tinh hoa của văn học dân gian. Trong tình hình cụ thể của VHTÐVN, mối quan hệ giữa văn học viết và văn học dân gian chủ yếu là do các nguyên nhân sau: + Sau khi nƣớc nhà độc lập, nhu cầu thiết yếu mà nhà nƣớc phong kiến Việt Nam cần phải chú ý là việc xây dựng một nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc, chống lại âm mƣu bành trƣớng, đồng hóa của kẻ thù phƣơng Bắc và nâng cao lòng tự hào dân tộc. + Những tác phẩm bằng chữ Hán trong thời kỳ này thƣờng dễ xa lại với quần chúng bình dân, tác phẩm ít đƣợc truyền tụng rộng rãi. Vì vậy, càng về sau, nhu cầu quần chúng hóa, dân tộc hóa tác phẩm ngày càng mạnh mẽ. Trong quá trình giải quyết vấn đề này, chỉ có văn học dân gian là nhân tố tích cực nhất. Quá trình kế thừa, khai thác VHDG là một quá trình hoàn thiện dần các yếu tố tinh lọc từ VHDG bắt đầu từ thơ ca Nguyễn Trãi về sau (Thời Lý- Trần, việc tiếp thu nguồn VHDG chƣa đƣợc đặt ra đúng mức). + Văn học viết tiếp thu từ văn học dân gian chủ yếu là về đề tài, thi liệu, ngôn ngữ, quan niệm thẩm mỹ, chủ yếu là khía cạnh ngôn ngữ và thể loại. + Trong quá trình phát triển, hai bộ phận luôn có mối quan hệ biện chứng, tác động, bổ sung lẫn nhau để cùng phát triển (Những tác động trở lại của văn học viết đối với văn học dân gian. 3. Văn học viết phát triển dựa trên cơ sở tiếp thu, tinh lọc những yếu tố tích cực của hệ ý thức nƣớc ngoài - Sự du nhập của các học thuyết vào Việt Nam chủ yếu do các nguyên nhân sau: + Vấn đề giao lƣu văn hóa giữa các dân tộc là một vấn đề mang tính quy luật. Từ xƣa, nƣớc ta và các vùng phụ cận đã có sự giao lƣu văn hóa nhƣng chỉ trong phạm vi hẹp, chủ yếu là từ Trung Quốc sang. + Hơn 1000 năm bắc thuộc, dân tộc ta không tránh khỏi bị ảnh hƣởng bởi sự bành trƣớng văn hóa và nhất là âm mƣu đồng hóa của kẻ thù. Những tên quan lại phƣơng Bắc sang đô hộ Việt Nam không chỉ bóc lột, vơ vét tài nguyên mà còn truyền bá rộng rãi các học thuyết triết học có nguồn gốc từ Trung Quốc vào Việt Nam một cách khéo léo và thâm hiểm. + Khi nhà nƣớc phong kiến VN bắt đầu hình thành, giai cấp thống trị không có mẫu mực nào khác hơn là nhà nƣớc PK TQ đã tồn tại trƣớc đó hàng nghìn năm và có rất nhiều kinh nghiệm trong việc lợi dụng các học thuyết triết học nhƣ một công cụ đắc lực trong việc củng cố ngai vàng, thống trị nhân dân. http://diendankienthuc.net 4 Thandieu2 _ Sƣu tầm Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam - Các học thuyết Nho- Phật- Lão đều có những điểm tích cực nhất định nên các nhà tƣ tƣởng lớn của Việt Nam thời Trung đại đã chú ý khai thác, tinh lọc, vận dụng sao cho nét tích cực đó phát huy tác dụng trong hoàn cảnh cụ thể của từng giai đoạn lịch sử. 4. Văn học chữ Hán phát triển song song với văn học chữ Nôm Ngay từ khi đƣợc các nhà văn mạnh dạn đƣa vào sáng tác văn học, chữ Nôm ngày càng khẳng định vị trí của mình bên cạnh chữ Hán vốn đã có ảnh hƣởng sâu sắc trong văn học thời Lý Trần. Sự phát triển của Văn học chữ Nôm khẳng định ý thức dân tộc phát triển ngày càng cao, biểu hiện lòng tự hào, ý thức bảo vệ ngôn ngữ, văn hóa dân tộc chống lại âm mƣu đồng hóa của kẻ thù. Ở thời Lý, Trần, việc sử dụng chữ Nôm trong sáng tác văn học chƣa đƣợc phổ biến. Từ thế kỷ XV về sau, Nguyễn Trãi đã mạnh dạn đƣa chữ Nôm vào sáng tác văn học. Thơ ông tuy chƣa đƣợc trau chuốt nhƣng đậm đà bản sắc dân tộc.Thành công của Nguyễn Trãi chính là tiền đề cho con đƣờng phát triển của văn học chữ Nôm đến đỉnh cao Truyện Kiều. 5. Thơ phát triển sớm và mạnh hơn văn xuôi. Ở thời trung đại, văn chính luận mang tính quan phƣơng chủ yếu là công cụ của nhà nƣớc phong kiến. Mặt khác, những đặc thù trong tƣ duy nghệ thuật, truyền thống sáng tác dẫn đến một thực tế là các tác phẩm văn xuôi hình tƣợng chỉ chiếm một số lƣợng khiêm tốn so với các tác phẩm thơ ca. Thể thơ thƣờng sử dụng nhất trong VHTÐ là thơ Ðƣờng luật. Ðây là hệ quả của quá trình giao lƣu văn hóa lâu dài và nằm trong quan niệm thẩm mỹ của các nhà thơ cổ điển. Trong thời kỳ này, thơ Ðƣờng luật đã đƣợc chính quy hóa trong văn chƣơng trƣờng ốc và văn chƣơng cử tử. Cho nên, sự thống trị văn đàn của thơ Ðuờng luật trong bất kỳ một tập thơ nào thời trung đại là một điều dễ hiểu. Tuy nhiên, việc sử dụng thơ Ðƣờng luật với tƣ cách là một thể thơ chính thống trong các kỳ thi và trong sáng tác đã gây không ít trở ngại trong nội dung thể hiện do bị chi phối bởi sự ngặt nghèo của luật thơ chặt chẽ. Ở thời Nguyễn Trãi, thơ luật Ðƣờng biến thể thành thơ thất ngôn xen lục ngôn đầy sáng tạo, độc đáo, phóng khoáng, rất phù hợp với cách nghĩ, cách nói, tâm lý của dân tộc nên đƣợc một số nhà thơ đời sau tiếp tục sử dụng (Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm). 6. Việc sử dụng điển tích và các hình ảnh tƣợng trƣng ƣớc lệ- những thủ pháp nghệ thuật đƣợc sử dụng phổ biến trong văn chƣơng trung đại Ðể miêu tả, ngƣời ta cho rằng cần phải có những mẫu mực mà qua nhiều thời kỳ đã đƣợc mặc nhiên chấp nhận sử dụng. Quan điểm ƣớc lệ không chú ý đến logic đòi sống, đến mối quan hệ thực tế của các hình ảnh mang tính chất mẫu mực, công thức. Vì thế, khi phân tích các hình ảnh ƣớc lệ, chúng ta không cần đặt vần đề có lý hay không có lý, đúng hay không đúng thực tế mà chỉ xem xét sức mạnh khơi gợi của hình tƣợng có sâu sắc hay không, hình tƣợng có đƣợc dùng đúng tình đúng cảnh và thể hiện đƣợc tƣ tƣởng tình cảm của nhà thơ hay không http://diendankienthuc.net 5 Thandieu2 _ Sƣu tầm ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn