Xem mẫu

  1. CHƢƠNG 4 THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN Mục tiêu Chương này trình bày những nội dung cơ bản về thị trường chứng khoán (TTCK) như: - Khái quát về sự hình thành và phát triển của TTCK, khái niệm, chức năng và vai trò của TTCK; hiểu được các công cụ lưu thông trên TTCK; - Hiểu được phương thức phát hành và niêm yết chứng khoán; - Hiểu được cách thức tổ chức, nguyên tắc hoạt động của Sở GDCK; - Hiểu được các loại lệnh giao dịch, cách thức sử dụng các lệnh giao dịch, quy trình giao dịch trên TTCK tập trung, thị trường OTC và nắm được các mô hình hoạt động của Trung tâm LKCK. Nội dung I. Khái quát về thị trƣờng chứng khoán (TTCK) 1. Sơ lƣợc về lịch sử hình thành và phát triển của thị trƣờng chứng khoán 1.1. Lịch sử hình thành thị trƣờng chứng khoán trên thế giới Những dấu hiệu của một thị trường chứng khoán (TTCK) sơ khai đã xuất hiện ngay từ thời Trung cổ xa xưa. Vào khoảng thế kỷ XV, ở các thành phố lớn của các nước phương Tây, trong các phiên chợ hay hội chợ, các thương gia thường gặp gỡ tiếp xúc với nhau tại các quán cafe để thương lượng mua bán, trao đổi hàng hoá. Đặc điểm của hoạt động này là các thương gia chỉ trao đổi bằng lời nói với nhau về các hợp đồng mua bán mà không có sự xuất hiện của bất cứ hàng hoá, giấy tờ nào. Đến cuối thế kỷ XV, “khu chợ riêng” đã trở thành thị trường hoạt động thường xuyên với những quy ước xác định cho các cuộc thương lượng. Những quy ước này dần dần trở thành các quy tắc có tính chất bắt buộc đối với các thành viên tham gia. Năm 1453, ở thành phố Bruges (thuộc nước Bỉ), buổi họp đầu tiên đã diễn ra tại một lữ quán của gia đình Vanber Buerzo. Trước lữ quán có một bảng hiệu vẽ hình 3 túi da tượng trưng cho 3 loại giao dịch: giao dịch hàng hoá, giao dịch ngoại tệ, giao dịch giá khoán động sản. Vào năm 1457, thành phố ở Bruges (Bỉ) mất đi sự phồn thịnh do eo biển dẫn tàu bè vào thị trấn Even bị cát lấp, nên mậu dịch thị trường ở đây bị sụp đổ và được chuyển qua thị trấn Auvers (Bỉ), từ kinh nghiệm đó mậu dịch trường Auvers phát triển rất nhanh chóng, các thị trường như vậy cũng được thành lập ở Anh, Pháp, Đức, Mỹ. Sau một thời gian hoạt động, thị trường không chứng tỏ khả năng đáp ứng được yêu cầu của 3 loại giao dịch khác nhau nên đã phân ra thành nhiều thị trường khác nhau: thị trường hàng hoá, thị trường hối đoái, thị trường chứng khoán…với đặc tính riêng của từng thị trường thuận lợi cho giao dịch của người tham gia trong đó. Như vậy, thị trường chứng khoán được hình thành cùng với thị trường hàng hoá và thị trường hối đoái. 58
  2. Quá trình phát triển thị trường chứng khoán đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Thời kỳ huy hoàng nhất là vào những năm 1875 - 1913, thị trường chứng khoán phát triển mạnh cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Nhưng đến ngày 28/10/1929, ngày được gọi là “ngày thứ năm đen tối”, đây là ngày mở đầu cuộc khủng hoảng thị trường chứng khoán New York, và sau đó lan rộng ra các thị trường chứng khoán Tây Âu, Bắc Âu, Nhật bản. Sau thế chiến thứ hai, các thị trường chứng khoán phục hồi, phát triển mạnh. Nhưng rồi “cuộc khủng hoảng tài chính” năm 1987, một lần nữa đã làm cho các thị trường chứng khoán thế giới suy sụp, kiệt quệ. Lần này, hậu quả của nó rất lớn và nặng nề hơn cuộc khủng hoảng năm 1929, nhưng chỉ 2 năm sau, thị trường chứng khoán thế giới lại đi vào ổn định, phát triển và trở thành một định chế tài chính không thể thiếu được trong đời sống kinh tế của những quốc gia có nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường. Ngày nay cùng với sự phát triển của công nghệ, khoa học kỹ thuật, các phương thức giao dịch tại các sở giao dịch chứng khoán cũng đã được cải tiến theo tốc độ và khối lượng yêu cầu nhằm đem lại hiệu quả và chất lượng giao dịch. Các giao dịch dần dần sử dụng máy vi tính để truyền các lệnh đặt hàng và chuyển dần từ giao dịch thủ công kết hợp với máy vi tính sang sử dụng hoàn toàn hệ thống giao dịch điện tử. 1.2. Quá trình hình thành và phát triển thị trƣờng chứng khoán ở Việt Nam Sau nhiều năm chuẩn bị và chờ đợi, ngày 11-7-1998 Chính phủ đã ký Nghị định số 48/CP ban hành về chứng khoán và TTCK chính thức khai sinh cho Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời. Thị trường chứng khoán ở Việt Nam đã được hình thành và phát triển với việc thành lập Ủy ban chứng khoán Nhà nước ngày 28/11/1996. Từ tháng 3/2004, Ủy ban chứng khoán Nhà nước là một bộ phận của Bộ Tài chính. Phải mất 10 năm thăm dò, thử nghiệm, TTCK Việt Nam đã bùng nổ vào năm 2006 song hành cùng với những kỷ lục mới xuất hiện trong nền kinh tế nước nhà. Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (TTGDCK TP.HCM- HOSE) được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11-7-1998 và chính thức đi vào hoạt động thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28-7-2000.Khi mới đi vào hoạt động, tại TTGDCK TP.HCM chỉ có 2 loại CP (REE và SAM) và một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao dịch. Qua 7 năm với sự tăng trưởng của thị trường và hội nhập với TTCK thế giới, Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp.HCM đã chính thức được Chính phủ ký Quyết đị nh số : 599/QĐ-TTg ngày 11/05/2007chuyển đổi thành Sở giao dịch Chứng khoán Tp.HCM. Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (TTGDCK TP.HCM- HASTC) được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11-7-1998 với phiên tổ chức đấu giá đầu tiên vào ngày 08/3/2005 và phiên giao dịch thứ cấp đầu tiên ngày 14/7/2005 với 06 cổ phiếu . TTGDCK HN được chuyển đổi theo Quyết định số 01/2009/QĐ-TTg, ngày 02/01/2009 của Thủ tướng chính phủ thành Sở Giao dị ch Chứng khoán Hà Nội. Để từng bước hoàn thiện và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam, ngày 27/7/2005 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 189/2005/QĐ-TTg về việc thành lập Trung tâm Lưu ký Chứng khoán (TTLKCK) trực thuộc Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, với tư cách là tổ chức duy nhất thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoàn tất giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Việc ra đời TTLKCK là đòi 59
  3. hỏi tất yếu của thị trường chứng khoán Việt Nam ở giai đoạn phát triển hiện nay; đồng thời cũng là xu hướng và thông lệ trên thị trường chứng khoán quốc tế. TTLKCK đi vào hoạt động, ngoài việc tạo sự đồng bộ về kết cấu hạ tầng cho thị trường chứng khoán Việt Nam còn mang lại nhiều lợi ích khác. Đó là: Giảm rủi ro và chi phí liên quan đến việc thanh toán các giao dịch chứng khoán do giao dịch mua/bán chứng khoán được thực hiện tự động (không thanh toán bằng tiền mặt, trao tay); nâng cao hiệu quả cho nghiệp vụ sau thanh toán đối với các thành viên của TTLKCK, từ đó sẽ nâng cao tính hiệu quả trong các dịch vụ cung cấp cho nhà đầu tư như chi trả cổ tức; tiêu chuẩn hoá giữa các thành viên tham gia thị trường, tạo sự hài hoà, đồng bộ ở các mặt của thị trường chứng khoán; góp phần tạo thuận lợi cho việc thúc đẩy tiến trình hội nhập của thị trường chứng khoán Việt Nam vào thị trường tài chính khu vực và thế giới, mà đặc biệt là thực hiện kết nối giữa các thị trường chứng khoán khu vực cũng như việc hình thành thị trường trái phiếu chung của khu vực trong thời gian tới; tạo thuận lợi cho việc tham gia đầu tư của người đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam thông qua các tổ chức lưu ký toàn cầu hoặc thông qua quan hệ đại lý giữa TTLKCK trong nước và các TTLKCK nước ngoài. 2. Khái niệm, chức năng và vai trò của thị trƣờng chứng khoán 2.1. Khái niệm 2.1.1. Cơ sở hình thành và phát triển thị trƣờng chứng khoán Sự tồn tại và phát triển của TTCK là sản phẩm tất yếu khách quan của nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường. Nhìn chung sự ra đời của TTCK ở các quốc gia đều bắt đầu từ 2 nguyên nhân chủ yếu sau: Thứ nhất, giải quyết nhu cầu giao lưu vốn giữa các chủ thể trong nền kinh tế Các chủ thể trong nền kinh tế- xã hội (doanh nghiệp, Chính phủ) vì những lý do khác nhau mà thường có nhu cầu huy động vốn để bổ sung thiếu hụt của mình. Cầu vốn là lượng vốn cần thiết để tiến hành quá trình đầu tư, xây dựng, sản xuất kinh doanh hay phục vụ cho mục đích tiêu dùng nào đó của các chủ thể trong nền kinh tế. Đồng thời trong nền kinh tế luôn tồn tại một lực lượng có cung vốn. Cung vốn là lượng vốn hiện đang nhàn rỗi trong xã hội và có thể sử dụng cho các mục đích khác nhau, hoặc cho tiêu dùng, hoặc cho các hoạt động đầu tư, xây dựng, sản xuất kinh doanh. Nguồn cung vốn bao gồm nguồn cung trong nước và nguồn cung vốn từ bên ngoài Như vậy, cung – cầu vốn tiền tệ xuất hiện và tồn tại là một thực tế khách quan cần được giải quyết hợp lý và hiệu quả để tạo điều kiện cho nền kinh tế tồn tại và phát triển. Ban đầu nhu cầu vốn cũng như tiết kiệm trong dân chưa cao và nhu cầu về vốn chủ yếu là vốn ngắn hạn. Theo thời gian, sự phát triển kinh tế, nhu cầu về vốn dài hạn cho đầu tư phát triển ngày càng cao; Chính vì vậy, Thị trường vốn đã ra đời để đáp ứng các nhu cầu này. Để huy động được vốn dài hạn, bên cạnh việc đi vay ngân hàng thông qua hình thức tài chính gián tiếp, Chính phủ và doanh nghiệp còn huy động vốn thông qua hình thức phát hành chứng khoán. Khi một bộ phận các chứng khoán có giá trị nhất định được phát hành, thì xuất hiện nhu cầu mua, bán chứng khoán; và đây chính là sự ra đời của thị trường chứng khoán với tư cách là một bộ phận của thị trường vốn nhằm đáp ứng nhu cầu mua, bán và trao đổi chứng khoán các loại. 60
  4. Thứ hai, xuất hiện các loại chứng khoán Khi các chủ thể trong nền kinh tế - xã hội bị thiếu hụt cũng có nghĩa là cầu về vốn tiền tệ xuất hiện. Để chủ động trong việc tạo vốn các DN sẽ lựa chọn phương án tài trợ hiệu quả nhất trước hết đó là khả năng tự tài trợ của DN, tuy nhiên khả năng này hạn chế và chỉ đáp ứng một phần nào đó nhu cầu về vốn đầu tư, tiếp theo là vay vốn từ các tổ chức tín dụng hoặc là phát hành trái phiếu, cổ phiếu. Việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu mở ra khả năng tài trợ to lớn đối với DN. Các loại trái phiếu, cổ phiếu do công ty phát hành, chính là chứng khoán. Như vậy, sự ra đời của các loại chứng khoán cũng như quá trình thương mại hóa chúng vừa thỏa mãn yêu cầu của người có vốn và người cần vốn, vừa là cơ sở hình thành TTCK. 2.1.2. Khái niệm - Khái niệm Có nhiều quan điểm khác nhau về thị trường chứng khoán như: + Quan điểm 1: “Thị trường chứng khoán là nơi giao dịch những cổ phiếu, trái phiếu và những sản phẩm phái sinh”14. Cùng với hệ thống ngân hàng, TTCK tạo một dòng chảy tài chính trong nền kinh tế. + Quan điểm 2: “Thị trường chứng khoán là một thị trường có tổ chức, là nơi các chứng khoán được mua bán tuân theo những quy tắc đã được ấn định”15. Các quan niệm trên đều được khái quát trên những cơ sở thực tiễn và trong từng điều kiện lịch sử nhất định. Tuy nhiên, quan niệm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp với sự phát triển chung của thị trường chứng khoán hiện nay là: + Thị trường chứng khoán là thị trường diễn ra các hoạt động phát hành, giao dịch mua bán chứng khoán.16 Chứng khoán được hiểu là các giấy tờ có giá, xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với nhà phát hành. - Đặc trưng của TTCK + TTCK xuất hiện khi các chứng khoán được phát hành và trao đổi; + TTCK là thị trường vốn trung và dài hạn; + TTCK là thị trường mà ở đó không có sự can thiệp, độc đoán hay cưỡng chế về giá cả. Giá mua bán trên TTCK hoàn toàn do cung cầu quyết định; + TTCK là hình thức phát triển cao của nền sản xuất hàng hóa, thị trường này chỉ tồn tại và phát triển trong cơ chế kinh tế thị trường. 2.1.3. Phân loại Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, cấu trúc của thị trường chứng khoán có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Tuy nhiên, thông thường, ta có thể xem xét ba cách thức cơ bản là phân loại tính chất giao dịch, phân loại theo phương thức tổ chức của thị trường và phân loại theo hàng hóa giao dịch trên thị trường chứng khoán. 14 . Theo quan điểm của Giáo sư Frúedéuric Teulon – Vocabulaire monéutaire et financier – 1993. 15 . Theo quan điểm của Longman- Dictionary of Business English- 1985. 16 . PGS.TS. Đinh Văn Sơn, PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Liên, Thị trường chứng khoán, NXB Thống Kê, 2009. Trang 11. 61
  5. 2.1.3.1. Căn cứ vào tính chất giao dịch Căn cứ vào tính chất giáo dịch, TTCK chia làm 2 loại: - Thị trường sơ cấp: Là giai đoạn khởi đầu của TTCK. Đây là nơi mua bán những chứng khoán mới phát hành. Vì vậy trên thực tế, thị trường sơ cấp còn được gọi là thị trường phát hành chứng khoán. Trên thị trường này vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành. Các chứng khoán lần đầu tiên được bán ra thị trường được gọi là chứng khoán mới được phát hành. Nếu việc phát hành mới là các chứng khoán bổ sung được nhà phát hành đã có chứng khoán đưa ra công chúng thì được gọi là phân phối lần đầu. Việc mua bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp nhằm mục đích làm tăng vốn cho nhà phát hành. Thông qua việc mua bán, Chính phủ có thêm nguồn thu để tài trợ cho các dự án đầu tư hoặc chi tiêu dùng. Các doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường nhằm đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Qua đó, đưa nguồn vốn tiết kiệm vào đầu tư. - Thị trường thứ cấp: Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch, mua bán các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp và là một bộ phận quan trọng của TTCK, gắn bó chặt chẽ với thị trường sơ cấp. Những loại chứng khoán giao dịch ở thị trường này có thể được mua đi bán lại nhiều lần với giá cả cao thấp khác nhau. Vì vậy, trên thực tế, thị trường thứ cấp còn được gọi là thị trường giao dịch luân chuyển chứng khoán, là nơi chủ yếu tạo điều kiện trao đổi chứng khoán. Thị trường thứ cấp thực hiện vai trò điều hòa, lưu thông các nguồn vốn đảm bảo chuyển hóa các nguồn vốn ngắn hạn thành dài hạn để đưa vào đầu tư phát triển kinh tế. Nhờ có thị trường thứ cấp, người có vốn nhàn rỗi yên tâm đầu tư vào chứng khoán, vì khi cần thiết họ có thể bán lại chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư khác trên TTCK. 2.1.3.2. Căn cứ vào phương thức tổ chức giao dịch Theo cách phân loại này, thị trường chứng khoán được tổ chức thành thị trường chứng khoán chính thức và thị trường chứng khoán không chính thức. - Thị trường chứng khoán chính thức: là thị trường mà sự ra đời và hoạt động được bảo hộ về mặt pháp lý. Các hoạt động trên thị trường này chịu sự kiểm soát của UBCKNN. Theo phương thức tổ chức này thì TTCK chính thức được chia làm 2 loại sau: + Thị trường chứng khoán tập trung (Sở giao dịch chứng khoán - Sở GDCK) * Sở GDCK là thị trường giao dịch chứng khoán được thực hiện tại một địa điểm tập trung. * Các chứng khoán được niêm yết giao dịch tại Sở GDCK thông thường là chứng khoán của các công ty lớn, có danh tiếng, đã trải qua nhiều thử thách trên thị trường và đáp ứng được các yêu cầu, tiêu chuẩn niêm yết do Sở GDCK đặt ra. * Sở GDCK được tổ chức và quản lý một cách chặt chẽ bởi UBCKNN, các giao dịch chịu sự điều tiết của luật chứng khoán và thị trường chứng khoán. + Thị trường chứng khoán phi tập trung (còn gọi là thị trường OTC): Là thị trường ở đó việc giao dịch mua bán chứng khoán không diễn ra tại một địa điểm mà thông qua một mạng lưới các nhà môi giới và tự doanh chứng khoán mua bán với nhau 62
  6. và với các nhà đầu tư, các hoạt động giao dịch của thị trường chứng khoán phi tập trung được diễn ra tại các quầy (sàn giao dịch) của các ngân hàng và công ty chứng khoán thông qua điện thoại hay máy vi tính diện rộng. Khối lượng giao dịch của thị trường này thường lớn hơn rất nhiều lần so với Sở GDCK. Thị trường chứng khoán phi tập trung chịu sự quản lý của Sở giao dịch và Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán. - Thị trường chứng khoán không chính thức (TTCK tự do): Thị trường tự do là thị trường mà hoạt động giao dịch mua bán, chuyển nhượng chứng khoán có thể diễ ra ở bất cứ đâu, vào bất cứ lúc nào, có thế thông qua nhà môi giới hoặc do chính những người có nhu cầu đầu tư, mua bán chứng khoán thực hiện. TTCK tự do là thị trường mà sự ra đời, tồn tại và hoạt động không được thừa nhận và bảo hộ bởi pháp luật chuyên ngành về chứng khoán và TTCK. Nó ra đời và hoạt động bởi các nhu cầu tự phát của thị trường. 2.1.3.3. Căn cứ vào hàng hóa giao dịch trên thị trường Căn cứ vào các loại hàng hoá được mua bán trên thị trường, người ta có thể phân thị trường chứng khoán thành thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu và thị trường các công cụ phái sinh. - Thị trường trái phiếu: Thị trường trái phiếu là thị trường mà hàng hoá được giao dịch trao đổi, mua bán tại đó là các trái phiếu. - Thị trường cổ phiếu: Thị trường cổ phiếu là thị trường mà hàng hoá được giao dịch trao đổi, mua bán tại đó là các cổ phiếu. - Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh: Là thị trường mà hàng hoá được giao dịch trao đổi, mua bán tại đó là chứng khoán phái sinh. 2.2. Chức năng Một là, huy động và tập trung vốn đầu tư cho nền kinh tế. Thông qua các giao dịch được thực hiện trên TTCK, các nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi trong xã hội ở nhiều lĩnh vực, nhiều chủ thể với nhiều mức độ khác nhau được tập trung cho các hoạt động đầu tư của các tổ chức phát hành. Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động SXKD và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội, thông qua thị trường chứng khoán, chính phủ và chính quyền địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế phục vụ nhu cầu chung của xã hội. TTCK không những thu hút các nguồn vốn trong nước mà còn giúp chính phủ và doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế để thu hút thêm ngoại tệ phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước Hai là, tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn cho công chúng Có nhiều môi trường đầu tư như: thông qua hệ thống ngân hàng, thị trường chứng khoán hoặc trực tiếp đầu tư, nhưng môi trường đầu tư qua thị trường chứng khoán là hấp dẫn và thú vị. TTCK cung cấp cho công chúng môi trường đầu tư lành mạnh với cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác 63
  7. nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn các loại hàng hóa phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình. TTCK đưa đến cho công chúng những công cụ đầu tư mới, đa dạng, phong phú phù hợp với từng đối đối tượng khác nhau.Với hệ thống các loại chứng khoán đa dạng càng làm tăng khả năng lựa chọn cho người muốn đầu tư vào chứng khoán cũng như tăng khả năng thu hút của các chủ thể đang tạm thời thiếu vốn. Như vậy, TTCK là nơi cung cấp cơ hội đầu tư có lựa chọn cho công chúng, từ đó nâng cao tiết kiệm quốc gia, tạo điều kiện về vốn cho sự nghiệp phát triển kinh tế Ba là, thị trường chứng khoán là công cụ đánh giá hoạt động kinh doanh và là phong vũ biểu của nền kinh tế. Thị trường chứng khoán phản ánh tình trạng của các doanh nghiệp và của cả nền kinh tế quốc gia. Thị giá chứng khoán của DN đang giao dịch trên TTCK được coi là cơ sở quan trọng đánh giá thực trạng hoạt động của DN đó ở hiện tại cũng như trong tương lai. Chỉ có những doanh nghiệp làm ăn tốt, có hiệu quả cao, hứa hẹn triển vọng tương lai tốt thì giá trị thị trường của chứng khoán công ty cao và ngược lại. Ngoài sự đánh giá các doanh nghiệp, thị trường chứng khoán còn là phong vũ biểu của nền kinh tế, giúp những người đầu tư và những người quản lý có cơ sở đánh giá thực trạng và dự đoán tương lai của nền kinh tế. Diễn biến của thị giá chứng khoán và khái quát hơn là chỉ số chứng khoán đã phản ánh thông tin đa dạng và nhiều chiều cho người đầu tư trước diễn biến của các rủi ro. Thị trường chứng khoán còn phản ứng rất nhạy cảm trước các chính sách kinh tế vĩ mô, các biến động của nền kinh tế. Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách và quản lý thường thông qua thị trường chứng khoán để phân tích, dự đoán, đề ra các chính sách điều tiết kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thích hợp, qua đó tác động tới các hoạt động của nền kinh tế quốc dân. 2.3. Vai trò của thị trƣờng chứng khoán - Thứ nhất, tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán TTCK nói chung và TTCK thứ cấp nói riêng là nơi tạo tính thanh khoản cho các loại chứng khoán. Thông qua thị trường này các nhà đầu tư có thể chuyển đổi chứng khoán của họ thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Thị trường chứng khoán hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì càng có khả năng nâng cao tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường. - Thứ hai, góp phần kích thích cạnh tranh, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DN Thông qua TTCK các DN có thể sử dụng vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi để đầu tư chứng khoán như là một tài sản kinh doanh và ngược lại, các chứng khoán đó sẽ được chuyển thành tiền khi cần thiết. Đồng thời TTCK còn giúp các DN xâm nhập lẫn nhau thông qua việc mua bán cổ phiếu. Việc sáp nhập hay mở rộng hoạt động kinh doanh của các DN đều có thể thực hiện được thông qua TTCK. - Thứ ba, góp phần đa dạng hóa các hình thức đầu tư và huy động vốn trong nền kinh tế TTCK đưa đến cho công chúng những công cụ đầu tư mới, đa dạng, phong phú phù hợp với từng đối đối tượng khác nhau.Với hệ thông các loại chứng khoán đa dạng càng làm tăng khả năng lựa chọn cho người muốn đầu tư vào chứng khoán cũng như tăng khả năng thu hút của các chủ thể đang tạm thời thiếu vốn. Như vậy, TTCK là nơi 64
  8. cung cấp cơ hội đầu tư có lựa chọn cho công chúng, từ đó nâng cao tiết kiệm quốc gia, tạo điều kiện về vốn cho sự nghiệp phát triển kinh tế. - Thứ tư, tạo điều kiện thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài Việc đầu tư vốn từ nước ngoài có thể thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó có đầu tư vốn thông qua thị trường chứng khoán. Đây là hình thức đầu tư dễ dàng và hữu hiệu. Với nguyên tắc công khai, thị trường chứng khoán là nơi mà các nhà đầu tư có thể theo dõi và nhận định một cách dễ dàng hoạt động của các ngành, các doanh nghiệp trong nước. Hơn nữa, thị trường chứng khoán thu hút vốn thông qua mua bán chứng khoán, từ đó tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua kênh chứng khoán là an toàn và hiệu quả vì các chủ thể phát hành được toàn quyên sử dụng vốn huy động cho mục đích riêng mà không bị ràng buộc bởi bất kỳ điều kiện nào của nhà đầu tư nước ngoài. - Thứ năm, là công cụ giúp Chính phủ thực hiện mục tiêu của chính sách tài chính tiền tệ Khi ngân sách thu không đủ bù chi, Chính phủ có thể bù đắp thâm hụt ngân sách bằng hai cách: phát hành tiền hoặc đi vay nợ. Trước đây, Chính phủ ta đã phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt Ngân sách, và đã gây nên áp lực lạm phát rất lớn, gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Nhưng trong vài năm gần đây, Chính phủ có thể phát hành trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp Ngân sách mà vẫn quản lý được lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào thị trường chứng khoán nhằm định hướng đầu tư cho sự phát triển cân đối nền kinh tế. Trên thực tế, khi chưa có thị trường chứng khoán thì Chính phủ vẫn phát hành các loại trái phiếu Chính phủ để huy động vốn, nhưng phần lớn đó là các trái phiếu ngắn hạn nhằm đáp ứng các khoản chi Ngân sách trong năm tài khoá. Còn đối với các trái phiếu dài hạn thì rất khó phát hành, vì không có thị trường chuyển nhượng cho các trái phiếu, nên rất khó khăn trong việc chuyển đổi từ trái phiếu ra tiền. Vì vậy, khi thị trường chứng khoán ra đời, bản thân nó không những tạo ra tính thanh khoản và tính khả mại (tính dễ mua bán) của các chứng khoán, mà còn tạo ra tính linh hoạt trong việc chuyển hướng đầu tư từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác. Vì vậy, thị trường chứng khoán được xem là công cụ đắc lực trong việc huy động các nguồn vốn dài hạn. II. Công cụ lƣu thông của thị trƣờng chứng khoán 1. Cổ phiếu Đối với công ty, việc mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh cần có nhiều yếu tố khác nhau nhưng vốn được xem là yếu tố rất quan trọng. Để huy động, tập trung nguồn vốn lớn ngoài phương pháp truyền thống là vay ngân hàng thì công ty có thể huy động vốn thông qua việc phát hành cổ phiếu. Cổ phiếu là giấy chứng nhận cổ phần, nó xác nhận quyền sở hữu của cổ đông đối với công ty cổ phần. Người góp vốn vào công ty qua việc mua cổ phần gọi là cổ đông, cổ đông nhận một giấy chứng nhận cổ phần gọi là cổ phiếu. Theo Luật chứng khoán số 70/2006/QH11 ngày 29/06/2006: “Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành.” 65
  9. Tùy theo trách nhiệm và quyền hạn của cổ đông đối với công ty cổ phần mà cổ phiếu chia làm 2 loại: cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi. 1.1. Cổ phiếu thƣờng (commom stock) 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm - Khái niệm Cổ phiếu thường là một loại chứng khoán vốn, không có kỳ hạn, tồn tại cùng với sự tồn tại của công ty, lợi tức cổ phiếu được trả vào cuối năm để quyết toán gọi là cổ tức17. - Đặc điểm + Lợi tức của cổ phiếu không cố định, phụ thuộc vào mức lợi nhuận thu được hàng năm của công ty và chính sách chia lời của công ty. + Chỉ được chia lãi sau khi doanh nghiệp đã trả trái tức, cổ tức ưu đãi. + Thời hạn của cổ phiếu là vô hạn, nó phụ thuộc vào thời gian hoạt động của công ty. + Việc trả cổ tức của cổ phiếu thường có thể thực hiện bằng các hình thức sau: trả bằng tiền mặt; trả bằng chính cổ phiếu của công ty; trả bằng tài sản của công ty- hình thức này ít sử dụng trong thực tế. 1.1.2. Quyền lợi và nghĩa vụ của cổ đông - Quyền lợi + Quyền bỏ phiếu: Cổ đông có quyền bỏ phiếu biểu quyết để bầu cử Hội đồng quản trị hay để biểu quyết thông qua những vấn đề quan trọng của doanh nghiệp. + Quyền nhận cổ tức: Nếu Hội đồng quản trị công bố có lãi và chia lãi, cổ tức cổ phiếu thường có thể được trả bằng tiền, bằng cổ phiếu của doanh nghiệp hoặc bằng tài sản của doanh nghiệp. + Quyền được chia tài sản thanh lý: Trong trường hợp rủi ro công ty bị giải thể, cổ đông cũng được chia phần giá trị tài sản khi thanh lý, nhưng là người cuối cùng được hưởng giá trị tài sản còn lại khi thanh lý. + Quyền mua cổ phiếu mới: Khi có đợt phát hành cổ phiếu mới, các cổ đông cũ được quyền ưu tiên mua trước toàn bộ hay từng phần cổ phiếu sắp phát hành. + Quyền sở hữu tài sản doanh nghiệp, quyền bán, trao đổi, chuyển nhượng cổ phiếu trên thị trường. - Nghĩa vụ + Chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn góp; + Phần vốn góp xem như góp vĩnh viễn không được rút lại, lúc cần có quyền chuyển nhượng sở hữu cổ phần trên thị trường bằng cách bán CP cho một nhà đầu tư khác. 17 . PGS.TS. Lê Văn Tư, Thị trường chứng khoán, NXB Thống Kê, 2006. Trang 69. 66
  10. 1.1.3. Các loại giá cổ phiếu - Mệnh giá (par- value): Mệnh giá của cổ phiếu là giá được ghi trên bề mặt của cổ phiếu. Mệnh giá của mỗi cổ phiếu chỉ có giá trị danh nghĩa không liên quan trực tiếp đến giá trị thị trường của cổ phiếu. Khi công ty mới thành lập, mệnh giá cổ phiếu được tính như sau: Vốn điều lệ công ty cổ phần Mệnh giá cổ phiếu mới phát hành = ----------------------------------- Tổng số cổ phần đăng ký phát hành Ví dụ: Năm 2009, công ty cổ phần A thành lập với số vốn điều lệ là 80 tỷ đồng, số cổ phần đăng ký phát hành là 8.000.000. Hãy xác định mệnh giá của mỗi cổ phiếu của công ty trên. Giải: 80.000.000 .000 Mệnh giá mỗi cổ phiếu là:   10 .000 đ / cp 8.000.000 - Thư giá (book value): Là giá cổ phiếu ghi trên sổ sách kế toán phản ánh tình trạng vốn cổ phần của công ty ở một thời điểm nhất định. Thư giá được tính theo công thức sau: Vốn cổ phần Thư giá cổ phiếu = --------------------------------------- Số cổ phần thường đang lưu hành Ví dụ: Tiếp theo ví dụ trên, năm 2011, công ty A quyết định tăng thêm vốn bằng cách phát hành thêm 1.000.000 cổ phiếu, mệnh giá mỗi cổ phiếu vẫn là 10.000 đồng nhưng giá bán cổ phiếu trên thị trường lúc này là 35.000 đồng. Biết rằng quỹ tích lũy dùng cho đầu tư còn lại tính đến cuối năm 2011 là 10 tỷ đồng. Yêu cầu: Xác định thư giá của mỗi cổ phiếu. Giải: Trên sổ sách kế toán ngày 31/12/2011 như sau: Vốn cổ phần theo mệnh giá: 10.000đ x 9 tr CP = 90 tỷ đồng Vốn thặng dư: (35.000đ – 10.000đ) x 1 tr.CP = 25 tỷ đồng Quỹ tích lũy: 10 tỷ đồng Tổng số vốn cổ phần = 90 + 25 + 10 = 125 tỷ đồng Vậy, thư giá mỗi cổ phiếu: 125 .000 .000 .000   13 .889 đ / cp 9.000 .000 Tuy nhiên, trên thị trường người ta không giao dịch theo mệnh giá hay thư giá cổ phiếu mà theo giá thị trường. - Thị giá (Market value): Là giá cả cổ phiếu được giao dịch trên thị trường tại một thời điểm nhất định. Đó là giá mà người mua phải trả và người bán nhận được. Tùy theo quan hệ cung cầu mà thị giá có thể thấp hơn, cao hơn hoặc bằng giá trị thực của nó tại thời điểm mua bán. Thị giá thay đổi hàng giờ hoặc chỉ ổn định trong một thời 67
  11. gian ngắn, tuỳ theo tình hình cung cầu chứng khoán ở từng thời điểm nhất định. Thị giá chịu tác động của nhiều yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội…trong đó yếu tố quan trọng nhất là giá trị thị trường của công ty và khả năng sinh lợi của nó. 1.1.4. Lợi tức và rủi ro của cổ phiếu thƣờng - Lợi tức của cổ phiếu thường Nhà đầu tư mua cổ phiếu được hưởng lợi tức từ 2 nguồn: + Cổ tức: Là phần chia lời cho mỗi cổ phần được lấy ra từ lợi nhuận ròng sau thuế sau khi trả cổ tức ưu đãi và thu nhập giữ lại để trích quỹ. + Lợi tức do chênh lệch giá: Phần lớn các nhà đầu tư với chiến lược kinh doanh ngắn hạn sẽ bán cổ phiếu ngay khi cổ phiếu thăng để kiếm lời chênh lệch giá. - Rủi ro của cổ phiếu thường Chứng khoán là các tài sản tài chính mà giá trị của nó chịu tác động lớn của rủi ro. Rủi ro không chỉ là mất mát thuần túy mà nó còn hàm chứa cả việc không đạt được kỳ vọng của nhà đầu tư. Sau đây là những rủi ro thường gặp trong đầu tư cổ phiếu. a. Rủi ro hệ thống: Trong đầu tư, những rủi ro do các yếu tố nằm ngoài công ty, không kiểm soát được và có ảnh hưởng rộng rãi đến cả thị trường và tất cả mọi loại chứng khoán được gọi là rủi ro hệ thống. Rủi ro hệ thống bao gồm những rủi ro cơ bản sau: - Rủi ro lãi suất là một trong những rủi ro hệ thống, hay còn gọi là rủi ro không phân tán được khi đầu tư vào thị trường chứng khoán. Rủi ro lãi suất nói đến sự không ổn định trong giá trị thị trường và số tiền thu nhập trong tương lai, nguyên nhân là dao động trong mức lãi suất chung. Nguyên nhân cốt lõi của rủi ro lãi suất là sự lên xuống của lãi suất Trái phiếu Chính phủ, khi đó sẽ có sự thay đổi trong mức sinh lời kỳ vọng của các loại chứng khoán khác, như các loại cổ phiếu và trái phiếu công ty. Nói cách khác, chi phí vay vốn đối với các loại chứng khoán không rủi ro thay đổi sẽ dẫn đến sự thay đổi về chi phí vay vốn của các loại chứng khoán có rủi ro. Các nhà đầu tư thường coi trái phiếu Chính phủ là không rủi ro. Lãi suất của trái phiếu Chính phủ được coi là lãi suất chuẩn, là mức phí vay vốn không rủi ro. Những thay đổi trong lãi suất trái phiếu Chính phủ sẽ làm ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống chứng khoán, từ trái phiếu cho đến các loại cổ phiếu rủi ro nhất. - Rủi ro thị trường xảy ra khi nền kinh tế suy thoái hoặc thị trường chứng khoán có nhiều biến động bất thường. Diễn biến giá chứng khoán bị chi phối bởi nhiều yếu tố kinh tế vĩ mô (lạm phát, lãi suất, tiền tệ), yếu tố bên ngoài (tình hình thế giới, thiên tai). Đặc biệt, rủi ro thị trường cũng biến động theo những kỳ vọng về khả năng sinh lời và tâm lý của nhà đầu tư. Do đó, rủi ro thị trường rất khó nắm bắt. Nhà đầu tư chỉ có thể tính toán và ước lượng rủi ro thị trường ở mức độ tương đối. Các sự kiện vô hình là các sự kiện nãy sinh do yếu tố tâm lý của thị trường. Rủi ro thị trường thường xuất phát từ những sự kiện hữu hình nhưng do tâm lý không vững vàng của các nhà đầu tư nên họ hay có phản ứng vượt quá các sự kiện đó. Những sụt giảm đầu tiên của giá chứng khoán trên thị trường là nguyên nhân gây ra sợ hãi đối với các nhà đầu tư và họ sẽ cố gắng rút vốn bằng cách bán chứng khoán. Những phản ứng 68
  12. 4dây truyền làm tăng số lượng bán, giá cả chứng khoán sẽ bị rơi xuống thấp so với giá trị nội tại của chứng khoán. - Rủi ro sức mua là biến cố của sức mua của đồng tiền thu được. Rủi ro sức mua là tác động của lạm phát đối với khoản đầu tư. Khi một người mua cổ phiếu anh ta đã bỏ qua cơ hội mua hàng hóa hay dịch vụ trong thời gian sở hữu cổ phiếu đó. Nếu trong khoảng thời gian nắm giữ cổ phiếu đó, giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng, các nhà đầu tư đã mất một phần sức mua. Yếu tố lạm phát (giảm phát) sẽ làm thay đổi mức lãi suất danh nghĩa và từ đó sẽ gây tác động tới giá cả chứng khoán. - Rủi ro tỷ giá: rủi ro do tác động của tỷ giá đối với khoản đầu tư. Khi nhà đầu tư cho rằng đồng nội tệ có thể bị giảm giá trong tương lai thì nhà đầu tư đó sẽ quyết định không đầu tư vào chứng khoán hoặc sẽ tìm cách thay thế chứng khoán bằng tài sản ngoại tệ vì khi đó giá trị chứng khoán sẽ bị giảm b. Rủi ro phi hệ thống: Những rủi ro do những yếu tố nội tại gây ra, nó có thể kiểm soát được và chỉ tác động tới một ngành hay tới một công ty, một hoặc một số chứng khoán, gọi là rủi ro không hệ thống. Rủi ro không hệ thống là một phần trong tổng rủi ro gắn liền với một công ty hay một ngành công nghiệp cụ thể nào đó. Những yếu tố này có thể là khả năng quản lý, thị hiếu tiêu dùng, đình công và nhiều yếu tố khác nữa là nguyên nhân gây ra sự thay đổi trong thu nhập từ cổ phiếu công ty. Sự không chắc chắn đối với khả năng thanh toán của công ty có thể là do môi trường của hoạt động kinh doanh và tình trạng tài chính của công ty. Những rủi ro này có thể gọi là rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính, rủi ro quản lý. - Rủi ro kinh doanh: Doanh nghiệp sẽ gặp rủi ro khi sản phẩm, dịch vụ đã trở nên lỗi thời, không đáp ứng được thị hiếu của khác hàng. Hoặc công ty làm ăn sa sút vì chiến lược phát triển và đầu tư không phù hợp. Trường hợp đội ngũ quản trị của công ty non yếu, rủi ro kinh doanh càng cao. - Rủi ro tài chính liên quan tới việc công ty tài trợ cho hoạt động của mình. Người ta thường tính toán rủi ro tài chính bằng việc xem xét cấu trúc vốn của một công ty. Sự xuất hiện của các khoản nợ trong cấu trúc vốn sẽ tạo ra cho công ty những nghĩa vụ trả lãi. Và vì những nghĩa vụ trả lãi này phải được thanh toán trước khi trả cổ tức cho CPthường nên nó có tác động đến cổ tức. Rủi ro tài chính là rủi ro có thể tránh được trong phạm vi mà các nhà quản lý có toàn quyền quyết định vay hay không vay. Một công ty không vay nợ chút nào sẽ không có rủi ro tài chính. - Rủi ro quản lý: Là rủi ro do tác động của các quyết định từ nhà quản lý doanh nghiệp. Các nhà đầu tư thường quan tâm tới việc xem xét, đánh giá các rủi ro liên quan, trên cơ sở đó đề ra các quyết định trong việc lựa chọn, nắm giữ hay bán các chứng khoán. 1.2. Cổ phiếu ƣu đãi (Preferred Stock) 1.2.1. Khái niệm và đặc điểm - Khái niệm 69
  13. Cổ phiếu ưu đãi là một loại chứng khoán vốn mà người nắm giữ nó so với người nắm giữ cổ phiếu thường thì được ưu tiên về mặt tài chính, nhưng bị hạn chế về quyền hạn đối với công ty. Hay nói một cách khác, cổ phiếu ưu đãi có mức cổ tức cố định và được ghi rõ trên cổ phiếu lúc phát hành. Với cổ phiếu này thu nhập của cổ đông không phụ thuộc vào chính sách chia lãi hàng năm của công ty. - Đặc điểm + Cổ đông của cổ phiếu được hưởng những ưu tiên hơn so với cổ đông của cổ phiếu thường; + Được hưởng một mức lãi cổ phần riêng biệt có tính chất cố định hàng năm; + Được ưu tiên chia lãi cổ phần trước loại cổ phiếu thường; + Được ưu tiên phân chia tài sản còn lại của công ty khi phá sản trước loại cổ phiếu thường; + Cổ phiếu chuyển đổi ưu đãi có thể chuyển đổi thành cổ phiếu thường; + Không được hưởng quyền bỏ phiếu để bầu ra Hội đồng quản trị và biểu quyết quyết định các vấn đề về quản lý công ty; + Trên thị trường giá của cổ phiếu ưu đãi ít biến động hơn so với giá cổ phiếu thường. 1.2.2. Các loại cổ phiếu ƣu đãi Để tạo sự hấp dẫn hơn cho cổ phiếu ưu đãi, phù hợp với tâm lý của các nhà đầu tư, cổ phiếu ưu đãi được đa dạng hoá và phân chia thành nhiều loại khác nhau: - Cổ phiếu ưu đãi tích lũy và cổ phiếu ưu đãi không tích lũy: + Cổ phiếu ưu đãi tích lũy: là loại cổ phiếu ưu đãi trong đó doanh nghiệp phát hành bảo đảm trả đầy đủ cổ tức cho người sở hữu. + Cổ phiếu ưu đãi không tích lũy: là loại cổ phiếu mà doanh nghiệp có lãi đến đâu trả lãi đến đó. Phần nợ cổ tức không được tích luỹ vào năm sau. - Cổ phiếu ưu đãi dự phần và cổ phiếu ưu đãi không dự phần: + Cổ phiếu ưu đãi dự phần: là loại cổ phiếu ưu đãi mà cổ đông được hưởng một phần lợi tức phụ trội theo quy định khi công ty làm ăn phát đạt và có lãi vượt bật. + Cổ phiếu ưu đãi không dự phần: là loại cổ phiếu mà cổ đông chỉ được hưởng lãi cổ phần ưu đãi, ngoài ra không được hưởng thêm bất kỳ một khoản lợi nào, ngay cả khi công ty làm ăn phát đạt vượt bậc. - Cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển đổi: Đây là loại cổ phiếu cho phép người chủ sở hữu cổ phiếu được chuyển đổi chúng thành một số lượng cổ phiếu thông thường nhất định trong một thời gian nhất định. - Cổ phiếu ưu đãi thu hồi: là loại cổ phiếu cho phép công ty phát hành ra chúng có quyền thu hồi và trả lại vốn cho cổ đông hoặc đổi sang cổ phiếu ưu đãi khác có mức tỷ suất có mức tỷ suất phù hợp với lãi suất thị trường. Với những đặc trưng của mình, cổ phiếu đã cho các công ty cổ phần những ưu thế tuyệt diệu: có khả năng huy động tập trung một khối lượng vốn khổng lồ cho sự phát 70
  14. triển kinh tế từ những số vốn lẻ tẻ trong dân. Nhờ có cổ phiếu vốn đầu tư không bị bất động mà nó di chuyển từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác, từ công ty này sang công ty khác bằng cách mua bán cổ phiêud trên thị trường chứng khoán thứ cấp. 2. Trái phiếu 2.1. Khái niệm và đặc điểm của trái phiếu - Khái niệm Trái phiếu là một loại chứng khoán xác nhận một khoản vốn cho vay và quyền được hưởng mức thu nhập theo định kỳ. Người mua trái phiếu là chủ nợ của đơn vị phát hành và sẽ được hoàn lại vốn khi đến hạn. Theo Luật chứng khoán số 70/2006/QH 11 ngày 29/06/2006: “Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành”. Trái phiếu là hàng hóa được mua bán trên thị trường, vì vậy khi phát hành cũng như khi đầu tư, người phát hành và người đầu tư cần hiểu rõ các thuật ngữ sau: + Mệnh giá trái phiếu: hay còn gọi là giá trị danh nghĩa của trái phiếu là giá trị ghi trên trái phiếu. Giá trị này được coi là số vốn gốc. Mệnh giá trái phiếu là căn cứ để xác định số lợi tức tiền vay mà người phát hành phải trả. Mệnh giá cũng thể hiện số tiền người phát hành phải hoàn trả khi trái phiếu đến hạn. Mệnh giá trái phiếu của Việt Nam tối thiểu là 100.000 VNĐ.18 + Lãi suất danh nghĩa: Lãi suất trái phiếu thường được ghi trên trái phiếu hoặc người phát hành công bố được gọi là lãi suất danh nghĩa. Lãi suất này được xác định theo tỷ lệ phần trăm so với mệnh giá trái phiếu và cũng là căn cứ để xác định lợi tức trái phiếu. + Thời hạn của trái phiếu: là khoảng thời gian từ ngày phát hành đến ngày người phát hành hoàn trả vốn lần cuối. Trái phiếu có thời hạn khác nhau, trái phiếu trung hạn có thời gian từ 1 năm đến 5 năm. Trái phiếu dài hạn, có thời gian từ 5 năm trở lên. + Kỳ trả lãi: Là khoảng thời gian người phát hành trả lãi cho người nắm giữ trái phiếu. Lãi suất trái phiếu được xác định theo năm, nhưng việc thanh toán lãi suất trái phiếu thường được mỗi năm hai hoặc một lần. + Giá phát hành: Là giá bán ra của trái phiếu vào thời điểm phát hành. Thông thường giá phát hành được xác định theo tỷ lệ phần trăm (%) của mệnh giá. Tùy theo tình hình của thị trường và của người phát hành để xác định giá phát hành một cách thích hợp. - Đặc điểm Khác với cổ phiếu là chứng khoán vốn thì trái phiếu là một chứng khoán nợ của chủ thể phát hành nên nó có những đặc điểm sau: + Chủ thể phát hành không chỉ có công ty, mà còn có chính phủ hoặc chính quyền địa phương; + Người mua trái phiếu là chủ nợ của chủ thể phát hành; 18 Quy định tại Điều 10 Luật Chứng khoán số 70/2006/QH 11. 71
  15. + Thu nhập của chủ sở hữu trái phiếu là cố định, không phụ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh của chủ thể phát hành; + Khi công ty bị giải thể hoặc phá sản, người sở hữu trái phiếu được ưu tiên trả nợ trước cổ đông. 2.2. Phân loại trái phiếu Tùy theo mục đích nghiên cứu, trái phiếu có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau: - Phân loại trái phiếu theo hình thức pháp lý: + Trái phiếu vô danh (Trái phiếu không ghi tên): Là loại trái phiếu không ghi tên người sở hữu trên chứng chỉ trái phiếu. Loại trái phiếu này được chuyển nhượng dễ dàng, không cần những thủ tục xác nhận của tổ chức phát hành hoặc cơ quan công chứng. Người mua có trách nhiệm chi trả cho người bán theo giá cả đã được xác định. + Trái phiếu ghi danh (Trái phiếu có ghi tên): Là loại trái phiếu ghi tên người sở hữu trên chứng chỉ trái phiếu hoặc trên sổ theo dõi mua trái phiếu. Loại trái phiếu này được phép chuyển nhượng trên thị trường chứng khoán nhưng phải tuân theo những quy định pháp lý cụ thể. Nếu muốn chuyển nhượng người sở hữu phải chứng minh mình là người được phép và có quyền chuyển nhượng (xác nhận chữ ký, chứng minh thư). Qua cách phân loại này, chúng ta thấy trái phiếu vô danh được lưu thông dễ dàng hơn trái phiếu ghi danh. - Phân loại trái phiếu theo chủ thể phát hành: + Trái phiếu chính phủ: Do ngân sách chính quyền trung ương hay địa phương phát hành nhằm mục đích bù đắp các khoản chi đầu tư ngân sách Nhà nước, quản lý lạm phát hoặc tài trợ cho các dự án, công trình của Nhà nước. + Trái phiếu chính quyền địa phương: Là loại trái phiếu đầu tư có kỳ hạn từ một năm trở lên, do chính quyền địa phương ủy quyền cho Kho bạc hoặc pháp nhân do chính quyền địa phương lập ra, phát hành với mục đích huy động vốn để đầu tư xây dựng các công trình mang tính công cộng như: đườnhg sá, trường học, bến cảng, bệnh viên… + Trái phiếu công ty: là trái phiếu do các công ty phát hành với mục đích đầu tư dài hạn cho công ty, mở rộng quy mô phát triển sản xuất kinh doanh. - Phân loại trái phiếu theo lợi tức của trái phiếu + Trái phiếu có lãi suất ổn định (Straight bonds): Là loại trái phiếu có lãi suất ổn định và được trả định kỳ, sáu tháng hoặc một năm một lần. Vốn gốc của trái phiếu bằng mệnh giá trái phiếu được trả một lần khi đáo hạn. + Trái phiếu có lãi suất thả nổi (Floating rate bonds): Là loại trái phiếu mà lãi suất của nó được điều chỉnh theo sự thay đổi của lãi suất thị trường (Lãi suất tín dụng). + Trái phiếu chiết khấu khống (Zero- Coupon bonds): Là loại trái phiếu lãi suất được trả ngay khi phát hành, được khấu trừ vào tiền mua trái phiếu. Do đó giá bán thường rất thấp so với mệnh giá và khi đáo hạn được nhận lại vốn gốc bằng mệnh giá 72
  16. của trái phiếu. Nói cách khác, đây là loại trái phiếu không trả lãi và được bán theo nguyên tắc chiết khấu nên được gọi là trái phiếu chiết khấu. + Trái phiếu có thể chuyển đổi: Là loại trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu thường của công ty với giá cổ phiếu được ấn định trước gọi là giá chuyển đổi. * Cách tính giá chuyển đổi và tỷ lệ chuyển đổi: - Giá chuyển đổi (Conversion Price): Là giá của cổ phiếu thường mà trái phiếu chuyển đổi lấy làm căn cứ trong việc chuyển đổi. Mệnh giá của trái phiếu chuyển đổi Giá chuyển đổi = Tỷ lệ chuyển đổi Ví dụ: Một trái phiếu chuyển đổi có mệnh giá 1.000.000 đồng được quy định sẽ đổi thành 50 cổ phiếu thường. Vậy giá chuyển đổi là: 1.000.000/ 50 = 200.000 đồng. * Tỷ lệ chuyển đổi (Conversion Ratio): Là số cổ phiếu thường được chuyển đổi ra từ một trái phiếu Mệnh giá của trái phiếu chuyển đổi Tỷ lệ chuyển đổi = Giá chuyển đổi Ví dụ: Một trái phiếu chuyển đổi của VIS có mệnh giá 100.000 đồng, quy định được chuyển đổi thành cổ phiếu thường của công ty với giá chuyển đổi bằng mệnh giá 10.000 đồng. Khi đó: Giải: Tỷ lệ chuyển đổi = 100.000 đồng/10.000 = 10 cổ phiếu. Nghĩa là 1 trái phiếu đổi thành 10 cổ phiếu thường 2.3. Lợi tức và rủi ro của trái phiếu - Lợi tức + Tiền lãi định kỳ: thường được trả 1năm/lần, 6tháng/lần. Số tiền này được xác định trên cơ sở lãi suất cuống phiếu được quy định trước nhân với mệnh giá trái phiếu; + Chênh lệch giá: Là phần chênh lệch giữa giá bán so giá mua trái phiếu; + Lãi của lãi: Trong trường hợp nhà đầu tư lãnh tiền lãi định kỳ và tái đầu tư ngay, tiền lãi này sẽ sinh ra lãi gọi là lãi tái đầu tư. - Rủi ro + Rủi ro lãi suất (interest rate risk): Khi lãi suất thị trường càng tăng, giá trái phiếu càng giảm. Khi lãi suất thị trường càng giảm, giá trái phiếu sẽ càng tăng. Nguyên nhân chính là do lãi suất của trái phiếu đã được ấn định từ trước nên khi lãi suất thị trường giảm, trái phiếu cũ với mức lãi suất cao hơn sẽ trở nên hấp dẫn hơn và ngược lại. Trái phiếu có thời gian đáo hạn càng dài thì mức độ tăng hay giảm giá càng cao. 73
  17. + Rủi ro thanh toán: còn gọi là rủi ro tín dụng, là rủi ro người phát hành trái phiếu có thể vỡ nợ, tức là mất khả năng thanh toán đúng hạn các khoản lãi và gốc của đợt phát hành. Trái phiếu chính phủ không có rủi ro thanh toán. + Rủi ro lạm phát (inflation risk): Lạm phát là kẻ thù của nhà đầu tư trái phiếu bởi nó ăn mòn giá trị đồng tiền. Lạm phát càng cao, lãi suất thực của trái phiếu (bằng lãi suất danh nghĩa của trái phiếu trừ lạm phát) càng giảm, do vậy làm mất giá trị của trái phiếu. Nếu một trái phiếu trả lãi 7%/năm, lạm phát bình quân 5% thì lãi suất thực của trái phiếu là 2%. Nếu lạm phát giảm xuống còn 3% thì lãi suất thực sẽ là 4%. + Rủi ro tỷ giá: Nếu trái phiếu được thanh toán bằng đồng Việt Nam, mà đồng Việt Nam lại giảm giá so với USD, thì người đầu tư sẽ nhận được ít USD hơn. Trong trường hợp ngược lại, đồng Việt Nam tăng giá so với USD, thì người đầu tư sẽ có lợi. + Rủi ro tín nhiệm (credit risk): Mức độ rủi ro tín nhiệm của trái phiếu được đánh giá dựa trên các yếu tố kinh tế và khả năng hoàn trả lãi và gốc trái phiếu của nhà phát hành. Rủi ro tín nhiệm được thể hiện qua hệ số tín nhiệm. Hệ số tín nhiệm do các công ty đánh giá tín nhiệm ấn định. Hệ số tín nhiệm càng cao thì trái phiếu được coi là càng an toàn. + Rủi ro thanh khoản (liquidity risk): Trong điều kiện thị trường thiếu tính thanh khoản, nhà đầu tư trái phiếu sẽ khó lòng tìm được người sẵn sàng mua lại trái phiếu, hoặc nếu tìm được thì phải bán lại với giá rẻ hơn so với giá trị thực của trái phiếu. + Rủi ro khi thị trường chứng khoán sụt giá mạnh: Thông thường giá trái phiếu không biến động nhiều như giá cổ phiếu, do vậy khi thị trường chứng khoán sụt giá mạnh, các nhà đầu tư có xu hướng chuyển đầu tư từ CP sang trái phiếu, qua đó đẩy giá trái phiếu tăng lên. Tuy nhiên, khi thị trường chứng khoán đã xuống đến mức đáy, nhà đầu tư lại có xu hướng chuyển sang CP đang ở mức giá thấp, điều đó làm giá trái phiếu giảm trở lại. 3. Chứng chỉ quỹ đầu tƣ 3.1. Khái niệm và đặc điểm - Khái niệm Theo Luật chứng khoán số 70/2006/QH11 ngày 29/06/2006: Chứng chỉ quỹ đầu tư là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với một phần vốn góp của quỹ đại chúng”19. - Đặc điểm + Chứng chỉ quỹ do công ty quản lý quỹ đầu tư phát hành nhằm huy động vốn đối với một phần vốn góp của quỹ đại chúng; + Chứng chỉ quỹ là bằng chứng xác nhận việc góp vốn của nhà đầu tư vào quỹ, do đó lợi ích mà mỗi nhà đầu tư được thụ hưởng. Ví dụ: 19 . Quỹ đại chúng là quỹ đầu tư chứng khoán thực hiện chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng. 74
  18. Bảng 4.1. Một số chứng chỉ quỹ đầu tƣ KL Ngày Mã quỹ Tên quỹ đầu tƣ Tên công ty quản lý quỹ niêm yết niêm yết Công ty TNHH Quản lý Quỹ QUỸ ĐẦU TƯ TĂNG MAFPF1 Đầu tư Manulife chứng 21.409.530 20/12/2007 TRƯỞNG ANULIFE khoán Việt Nam Công ty TNHH Quản lý quỹ QUỸ ĐẦU TƯ CÂN BẰNG PRUBF1 Đầu tư chứng khoán 50.000.000 22/11/2006 PRUDENTIAL Prudential Việt Nam Quỹ ĐẦU TƯ CHỨNG Công ty Cổ phần Quản lý VFMVF1 100.000.000 22/09/2004 KHOÁN VIỆT NAM - VF1 quỹ Đầu tư Việt Nam (VFM) QUỸ ĐẦU TƯ DOANH Công ty Cổ phần Quản lý VFMVF4 NGHIỆP HÀNG ĐẦU VIỆT 80.646.000 03/06/2008 quỹ Đầu tư Việt Nam (VFM) NAM QUỸ ĐẦU TƯ NĂNG ĐỘNG Công ty Cổ phần Quản lý VFMVFA 24.043.760 09/07/2010 VIỆT NAM quỹ Đầu tư Việt Nam (VFM) (Nguồn: http://www.hsx.vn/hsx/Modules/Danhsach/ChungChiQuy.aspx) 3.2. Các loại quỹ đầu tƣ - Căn cứ vào cách thức và tính chất góp vốn: Căn cứ vào cách thức và tính chất góp vốn quỹ đầu tư được chia làm 2 loại: + Quỹ đầu tư dạng đóng Là quỹ đầu tư mà theo điều lệ quy định thường chỉ tạo vốn qua một lần bán chứng khoán cho công chúng. Tổng vốn huy động của quỹ cố định và không biến đổi trong suốt thời gian quỹ hoạt động. Quỹ đầu tư dạng đóng có thể phát hành cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi hoặc trái phiếu. Quỹ không phát hành thêm bất kỳ loại cổ phiếu nào để huy động thêm vốn và cũng không tổ chức mua lại các cổ phiếu đã phát hành. Để tạo tính thanh khoản cho loại quỹ này, sau khi kết thúc việc huy động vốn, các chứng chỉ quỹ sẽ được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Các nhà đầu tư có thể mua hoặc bán để thu hồi vấn cổ phiếu hoặc chứng chỉ đầu tư của mình thông qua thị trường thứ cấp. Với tính chất cơ cấu vốn ổn định, quỹ đầu tư dạng đóng có thể đăng ký đầu tư vào các dự án lớn va các chứng khoán có tính thanh khoản thấp. + Quỹ đầu tư dạng mở Khác với quỹ đầu tư dạng đóng, quỹ đầu tư dạng mở luôn phát hành thêm những cổ phiếu mới để tăng vốn và cũng sẵn sàng mua lại những cổ phiếu đã phát hành. Tổng vốn của quỹ mở biến động theo từng ngày giao dịch do các nhà đầu tư được quyền bán lại chứng chỉ quỹ đầu tư cho quỹ và quỹ phải mua lại các chứng chỉ theo giá trị thuần vào thời điểm giao dịch. - Căn cứ vào mô hình cấu trúc tổ chức và hoạt động: Căn cứ vào mô hình cấu trúc tổ chức và hoạt động quỹ đầu tư được tổ chức dưới hai hình thức: 75
  19. + Quỹ đầu tư dạng công ty Theo mô hình công ty, quỹ đầu tư được xem là một pháp nhân đầy đủ, những người góp vốn vào quỹ trở thành các cổ đông và có quyền bầu ra hội đồng quản trị quỹ. Đây là tổ chức cao nhất trong quỹ, có nhiệm vụ quản lý toàn bộ hoạt động của quỹ, lựa chọn công ty quản lý quỹ và có quyền thay đổi công ty quản lý quỹ. Trong mô hình quỹ đầu tư này, công ty quản lý quỹ hoạt động nhưng một nhà tư vấn đầu tư, chịu trách nhiệm tiến hành phân tích đầu tư, quản lý danh mục đầu tư và thực hiện các công việc quản trị kinh doanh khác. Mô hình quỹ đầu tư tổ chức dưới dạng công ty thường được sử dụng ở các nước có thị trường chứng khoán phát triển, tiêu biểu là thị trường Mỹ và Anh. + Quỹ đầu tư dạng hợp đồng Đây là mô hình quỹ tín thác đầu tư. Quỹ đầu tư dạng tín thác không phải là pháp nhân, mà chỉ là quỹ chung vốn giữa những người đầu tư để thuê các chuyên gia quản lý quỹ. Theo mô hình này, vai trò của công ty quản lý quỹ khá nổi bật. Công ty quản lý quỹ đứng ra thành lập quỹ, tiến hành việc huy động vốn, thực hiện việc đầu tư vào những lĩnh vực có hiệu quả nhất. Còn ngân hàng giám sát là vai trò là người bảo quản an toàn vốn và tài sản của nhà đầu tư, giám sát các hoạt động của công ty quản lý quỹ trong việc tuân thủ điều lệ quỹ đầu tư. Không như mô hình quỹ đầu tư dạng công ty, nhà đầu tư là những người góp vốn vào quỹ và uỷ thác việc đầu tư cho công ty quản lý quỹ để đảm bảo khả năng sinh lợi cao nhất từ khoản vốn đóng góp của họ. Mô hình quỹ đầu tư dưới dạng này thường được sử dụng ở các thị trường chứng khoán mới nổi, đặc biệt là các thị trường chứng khoán đang phát triển ở châu Á. Ngoài ra còn có các loại quỹ đầu tư tương hỗ thị trường vốn, quỹ đầu tư tương hỗ thị trường tiền tệ, quỹ phòng chống rủi ro… 4. Chứng khoán phái sinh (derivatives) Trên thị trường chứng khoán bên cạnh các giao dịch mua bán cổ phiếu, trái phiếu còn có các giao dịch mua bán các chứng khoán khác như: hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn…Các công cụ tài chính này được ra đời từ các giao dịch chứng khoán và được quyền chuyển đổi sang chứng khoán qua hành vi mua bán, cho nên người ta gọi là các chứng chỉ có nguồn gốc chứng khoán hay còn gọi là chứng khoán phái sinh. Chứng khoán phái sinh là chứng khoán mà loại giá trị của nó được phát sinh từ giá trị của tài sản cơ sở. Tài sản cơ sở có thể là hàng hóa, chứng khoán hoặc tiền tệ. Nếu tài sản cơ sở là hàng hóa, chúng ta sẽ có giao dịch các công cụ phái sinh trên thị trường hàng hóa. Nếu tài sản cơ sở là chứng khoán chúng ta sẽ có các giao dịch các công cụ phái sinh trên thị trường chứng khoán. Nếu tài sản cơ sở là tiền tệ, chúng ta có các giao dịch các công cụ phái sinh trên thị trường ngoại hối. Chứng khoán phái sinh phổ biến bao gồm các loại hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn. Tuy nhiên trong phạm vi chương này, chúng ta chỉ bàn đến chứng khoán phái sinh trên thị trường tài chính. Trước hết cần tìm hiểu khái niệm về chứng khoán phái sinh: Chứng khoán phái sinh là một loại tài sản tài chính có dòng tiền trong tương lai phụ thuộc vào giá trị của một hay một số tài sản tài chính khác. 76
  20. 4.1. Hợp đồng kỳ hạn (Forward Contracts) - Khái niệm Hợp đồng kỳ hạn là một công cụ tài chính phái sinh đơn giản. Đó là thỏa thuận mua hoặc bán chứng khoán tại một thời điểm trong tương lai với một mức giá đã xác định trước. - Đặc điểm của hợp đồng kỳ hạn + Thông thường hợp đồng này được thực hiện giữa các tổ chức tài chính với nhau hoặc giữa các tổ chức tài chính với các khách hàng là doanh nghiệp phi tài chính (các hợp đồng này thường được ký kết song phương). + Hợp đồng này chỉ được thực hiện khi đáo hạn: Đến thời điểm đáo hạn người bán phải thực hiện bán tài sản cho người mua và nhận một khoản tiền từ người mua với mức giá cả đã được định trước trong hợp đồng, cho dù vào thời điểm đó giá thị trường của tài sản đó có cao hơn hoặc thấp hơn giá xác định trước trong hợp đồng. Nếu giá thị trường cao hơn giá hợp đồng thì người mua sẽ có lãi (có giá trị dương), còn người bán bị giá trị âm và ngược lại. Ví dụ: Vào ngày 1/9/2009, A ký hợp đồng kỳ hạn mua của B 100 cổ phiếu “AAA” với là kỳ hạn 3 tháng (tức là vào ngày 1/12/2009) với giá 110.000đ/cp. Trong trường hợp này, B được gọi là người bán, A là người mua trong hợp đồng kỳ hạn. Sau 3 tháng, B phải bán cho A 100 cổ phiếu với giá 110.000đ/cp và A phải mua 100 cổ phiếu của B với giá đó, cho dù giá cổ phiếu “AAA” trên thị trường sau 3 tháng là bao nhiêu đi nữa. 4.2. Hợp đồng tƣơng lai (Future Contracts) - Khái niệm Hợp đồng tương lai là cam kết mua hoặc bán các loại chứng khoán, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán nhất định, với một số lượng và mức giá nhất định vào ngày xác định trước trong tương lai. Mục đích của những bên tham gia hợp đồng tương lai là nhằm giảm bớt rủi ro xảy ra do các biến cố có thể đẩy giá cả lên cao hoặc xuống thấp trong tương lai. - Đặc điểm + Luôn có 2 vị thế: Vị thế mua (Long position) và vị thế bán (Short position). Nếu nhà đầu tư dự đoán giá thị trường của hàng hóa cơ sở tăng lên trong tương lai sẽ đứng ở vị thế mua. Ngược lại, sẽ chọn vị thế bán nếu dự đoán giá thị trường giảm đi. + Ngày thực hiện hợp đồng là một ngày chỉ định trước trong tương lai. Tại ngày này cả 2 bên đều phải có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng. + Hai bên phải ký quỹ một khoản tiền cược tại một ngân hàng trung gian. Ví dụ: Vào ngày 28/2/2010, A ký hợp đồng tương lai mua 100 cổ phiếu “XYZ” kỳ hạn 3 tháng (tức là vào ngày 28/5/2010) với giá tương lai là 10triệu đồng. Trong hợp đồng này ông A là người mua hợp đồng tương lai này và ông B là người bán. Đến hạn thanh toán, ông B sẽ giao cổ phiếu cho ông A, ông A sẽ giao cho ông B 10 triệu đồng. 77
nguon tai.lieu . vn