Xem mẫu
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
PGS. TS. ĐINH VĂN SƠN
PGS. TS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG LIÊN
m im iH iiiP H
G076.0041
NHÀ XUẤT BẢN THÔNG KÊ - 2009
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
PGS.TS ĐINH VĂN SƠN
PGS.TS NGUYỄN THỊ PHƯƠNG LIÊN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
NHÀ XUẤT BẢN THỐNG KÊ - 2009
- LỜI NÓI ĐẦU
Lịch sử đã chứng minh ràng sự ra đời, hoàn thiện và phát triển của
thị trường chứng khoán gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thị
trường. Là một bộ phận của thị trường tài chính có cơ chế hoạt động khá
phức tạp nhưng những lợi ích to lớn mà nó đem đến cho nền kinh tế là
không thể phủ nhận. Thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng
khoán nói riêng với vai trò được ví như hệ thống các con kênh góp phần
khơi thông dòng chảy cho các nguồn vốn trong nền kinh tế. Vai trò đó
càng hữu ích hơn đối với nhũng nền kinh tế đang phát triển do bản thân
nó chưa có một cơ chế huy động và sử dụng vốn hiệu quả phù họp với
các quy luật của nền kinh tế thị trưởng.
Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam khóa VI (tháng 12/1986) đã
đánh dấu sự chuyển đổi chính thức của nền kinh tế Việt Nam từ cơ
chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có điều tiết vĩ mô
của Nhà nước theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Sự chuyển đổi này
đã tạo ra một chương mới cho sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam,
đồng thời cũng tạo nên những tiền đề, cơ sở quan trọng cho sự ra đời
và phát triển đồng bộ của hệ thống thị trường tài chính, trong đó có thị
trường chứng khoán, tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán Việt
Nam không ngừng phát triển và ngày càng phát huy mạnh mẽ vai trò
vốn có của nó đối với nền kinh tế xã hội.
Xuất phát từ tầm quan trọng của thị trường chứng khoán và để
đáp ứng yêu cầu của công tác đào tạo cán bộ quản lí kinh tế tại trường
đại học Thương mại, giáo trình Thị trường chứng khoán được biên
soạn nhàm cung cấp tài liệu phục vụ cho giảng dạy và học tập của
sinh viên thuộc tất cả các chuyên ngành đào tạo của nhà trường, và là
tài liệu tham khảo hữu ích cho các độc giả quan tâm đến lĩnh vực này.
Nội dung giáo trình được kết cấu thành 6 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán
Chương 2: Chứng khoán
3
- Chương 3: Hoạt động giao dịch trên thị trượng chứng khoán
Chương 4: Hệ thống lưu kí, thanh toán bù trừ và thông tin thị
trường chứng khoán
Chương 5: Phân tích đầu tư chứng khoán
Chương 6: Quản lí nhà nước đối với thị trường chứng khoán
Tham gia biên soạn giáo trình gồm có:
- PGS, TS Đinh Văn Sơn, phó hiệu trưởng trường đại học Thương
mại, biên soạn chương 1 và chương 5.
- PGS, TS Nguyễn Thị Phương Liên, Trưởng khoa Tài chính -
Ngân hàng, trường đại học Thương mại, biên soạn chương 2, 3, 4 và 6.
Trong lần tái bản này, các tác giả vừa kế thừa những nội dung
khọa học của giáo trình Thị trường chứng khoán xuất bản năm 2005,
vừa tiếp cận và bổ sung thêm những kiến thức mới trên cơ sở tham
chiếu một số tài liệu tham khảo, chuyên khảo trong nước và nước
ngoài, các văn bản pháp quy của Chính phủ về chứng khoán và thị
trường chứng khoán, tiếp thu những góp ý quý báu của PGS. TS Trần
Đăng Khâm, trường đại học Kinh tế quốc dân; Ths Nguyễn Trí Dũng,
công ty chứng khoán Tràng An; các giảng viên khoa Tài chính - Ngân
hàng, trường đại học Thương mại. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn
các tác giả của những tài liệu mà chúng tôi đã sử dụng, cảm ơn sự góp
ý của các nhà khoa học để góp phần nâng cao chất lượng giáo trình.
Chúng tôi cũng xin được bày tỏ lòng cảm ơn của mình tới GS. TS.
NGỊƯT Nguyễn Bách Khoa, Hiệu trưởng trường đại học Thương mại;
tập thể cán bộ chuyên viên phòng Khoa học và Đối ngoại, trường Đại
học Thương mại đã giúp đỡ chúng tôi trong quá trình chỉnh sửa, biên
tập và xuất bản giáo trình.
Mặc dù trong quá trình biên soạn, các tác giả đã rất cố gắng cập
nhật những kiến thức, thông tin để giáo trình đảm bảo được các yêu
cầu cơ bận, hiện đại và phù hợp với thực tiễn Việt Nam, nhưng do
trình độ có hạn nên giáo trình không thể tránh khỏi những hạn chế
nhất định. Chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý của đông đảo bạn
đọc để Giáo trình có thể hoàn thiện hơn trong lần tái bản sau.
Các tác giả
4
- Chương 1
NHỮNG VẤN ĐÈ cơ BẢN VỀ
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC CHỦ THỂ THAM
GIA TTCK
1.1.1. Cơ sở hình thành TTCK
Lịch sử đã chứng minh rằng: sự ra đời, tồn tại và phát triển TTCK
là sản phẩm tất yếu khách quan của nền kinh tế phát triển theo cơ chế
thị trường. Nhìn chung, sự ra đời của TTCK ở các quốc gia đều bắt
nguồn từ hai nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, giải quyết mối quan hệ giữa cung và cầu vốn tiền tệ
Đây là nguyên nhân mang tính tiền đề cho sự xuất hiện TTCK.
Thực tế cho thấy, các chủ thể trong nền kinh tế - xã hội, trước hết
là Nhà hước và các doanh nghiệp, vì những lý do khác nhau mà
thường có nhu cầu huy động vốn để bổ sung thiếu hụt ngân sách của
mình. Cầu vốn là lượng vốn cần thiết để tiến hành quá trình đầu tư,
xây dựng, sản xuất kinh doanh hay phục vụ cho một mục đích tiêu
dùng nào đó của các chủ thể trong nền kinh tế.
Đồng thời trong nền kinh tế - xã hội, cũng luôn có cung vốn.
Cung vốn là lựơng vốn hiện đang nhàn rỗi trong xã hội và có thể sử
dụng cho các'mục đích khác nhau, hoặc cho tiêu dùng, hoặc cho các
hoạt động đầu tư, xây dựng, sản xuất kinh doanh.
Với mỗi quốc gia nguồn cung vốn bao gồm: nguồn cung trong
nước và nguồn cung từ bên ngoài.
Nguồn cung trong nước: có thể chia thành nguồn cung từ tích
luỹ và nguồn cân đối tạm thời.
5
- Nguồn cung từ tích luỹ. Nguồn cung này bao gồm tiết kiệm của
dân chúng, lợi nhuận của các doanh nghiệp, các quỹ chuyên dụng.
Tuỳ theo tình hình phát triển kinh tế của mỗi nước mà nguồn cung từ
tích luỹ cao thấp khác nhau. Đây là nguồn cung có tính chất dài hạn và
tương đối ổn định.
Nguồn cân đổi tạm thời. Đây là nguồn cung vốn từ việc cân đối
tạm thời các nguồn tiền hoặc quỹ chưa sử dụng đến của ngân sách hay
của các doanh nghiệp,... Nguồn vốn này mang tính chất tạm thời vì vậy
nó không ổn định. Tuy nhiên quy mô của nó cũng không phải nhỏ.
Nguồn vốn từ bên ngoài'. Đây là nguồn vốn từ các tổ chức tài
chính - tiền tệ quốc tế hay các quốc gia khác chuyển đến, thường là từ
các nước phát triển sang các nước chậm phát triển. Nguồn vốn này
bao gồm: kiều hối, đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư gián tiếp (đầu
tư chứng khoán, các khoản cho vay, viện trợ,...). Nguồn cung vốn từ
bên ngoài có quy mô lớn nhưng là nguồn cung không liên tục và cũng
không ổn định vì nó phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố khách quan bên
ngoài hơn là các yếu tố chủ quan trong phạm vi quốc gia.
Tất cả các nguồn vốn dù ở bên trong hay ngoài một quốc gia, hợp
lại thành nguồn cung về vốn, đáp ứng nhu cầu vốn trong nền kinh tế.
Tuy nhiên đây chỉ là những nguồn vốn tiềm năng. Bởi vì, các nguồn
cung vốn trên không phải luôn luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của
người cần vốn tại bất cứ thời điểm nào, cho bất cứ đối tượng nào, với
bất cứ quy mô nào.
Như vậy, cung - cầu vốn tiền tệ xuất hiện và tồn tại là một thực tế
khách quan, cần được giải quyết hợp lý và hiệu quả để tạo điều kiện
cho nền kinh tế - xã hội tồn tại và phát triển. Trong xã hội hiện đại,
việc giải quyết mâu thuẫn trong mối quan hệ tương quan giữa cung và
cầu vốn tiền tệ có thể thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau: hoặc
thông qua việc sử dụng các tổ chức tài chính trung gian (ngân hàng,
công ty tài chính,...) hoặc thông qua việc việc sử dụng mô hình chuyển
giao tài chính trực tiếp - đó chính là TTCK. Đây là một trong những lý
do mà thị trường này còn được gọi là thị trường vốn. Với cơ chế hoạt
6
- động của thị trường vốn, lực lượng cung và cầu vốn tiền tệ có thể gặp
gỡ nhau trực tiếp để đáp ứng nhu cầu của nhau. Nhờ vậy, mâu thuẫn
trước mắt tạm thời được giải quyết, để rồi lại xuất hiện những mâu
thuẫn mới đòi hỏi tiếp tục giải quyết. Và đây chính là nguồn "năng
lượng", là xung lực để duy trì và phát triển hoạt động của TTCK.
Thứ hai, sự xuất hiện các loại chứng khoán
Đây là nguyên nhân trực tiếp quyết định sự ra đời của TTCK.
+ về phía Nhà nước: Khi ngân sách Nhà nước bị thiếu hụt, cũng
có nghĩa là cầu về vốn tiền tệ xuất hiện, Chính phủ có thể sử dụng
nhiều biện pháp khác nhau để tạo ra nguồn bù đắp cho sự thâm hụt đó
như: phát hành tiền, vay các ngân hàng, tìm nguồn tài trợ từ các đối
tác nước ngoài,... Tuy nhiên các biện pháp này đều có những hạn chế
và có thể gây nêri những hậu quả nhất định đối với nền kinh tế xã hội
quốc gia. Vì vậy, một biện pháp được coi là tối ưu hơn cả, đó là Nhà
nước trực tiếp vay nợ của mọi tầng lóp dân cư cũng như các chủ thể
khác trong nền kinh tế dưới hình thức tín dụng Nhà nước, bằng cách
phát hành trái phiếu chính phủ.
+ về phía doanh nghiệp: Trong nền kinh tế thị trường, doanh
nghiệp là chủ thể thứ hai (sau Nhà nước), cũng có nhu cầu rất lớn và
thường xuyên về vốn tiền tệ. Được chủ động tạo vốn, doanh nghiệp sẽ
lựa chọn phương án tài trợ hiệu quả nhất, nghĩa là với chi phí sử dụng
vốn thấp nhất, ít rủi ro nhất. Nói chung, doanh nghiệp có hai giải pháp
cơ bản đáp ứng nhu cầu về vốn đầu tư. Trước hết là khả năng tự tài trợ
của doanh nghiệp. Tuý nhiên khả năng này là hạn chế và thường chỉ
đáp ứng một phần nào đó nhu cầu vốn đầu tư. Biện pháp thứ hai là
huy động vốn từ bên ngoài. Chủ yếu có hai phương án, hoặc là vay
vốn từ các tổ chức tín dụng, hoặc là phát hành trái phiếu hay cổ phiếu.
Biện pháp truyền thống là vay ngân hàng, bên cạnh những ưu điểm
cũng bộc lộ những khó khăn và hạn chế nhất định về thủ tục, điều
kiện, tài sản đảm bảo, số lượng tiền vay. Việc phát hành trái phiếu hay
cổ phiếu mở ra khả năng tài trợ tó lớn với những ưu điểm nổi trội so
với các phương pháp truyền thống. Các loại cổ phiếu và trái phiếu do
công ty phát hành, chính là chứng khoán.
7
- Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, sự xuất hiện các loại
chứng khoán hoàn toàn là yêu cầu cần thiết và khách quan, vấn đề là
làm thế nào để chứng khoán phát hành ra được nhà đầu tư chấp nhận.
Đối với nhà đầu tư, điều mà họ quan tâm khi đầu tư vốn là tiền lời
thu được từ khoản đàu tư, mức độ rủi ro, khả năng thanh khoản như
thế nào,...
Nếu đầu tư vào chứng khoán, khả năng thanh khoản của chứng
khoán phụ thuộc vào khả năng mua bán chứng khoán. Đe tạo ra được
khả năng đó, con đường duy nhất hợp lý là phải hình thành cơ chế của
một thị trường riêng biệt - một loại thị trường chuyên môn hoá các
giao dịch mua bán những sản phẩm tài chính, các chứng khoán trung
và dài hạn.
Như vậy, sự ra đời của các loại chứng khoán cũng như quá trình
thương mại hoá chúng vừa thoả mãn yêu cầu của người có vốn và
người cần vốn, vừa là cơ sở để hình thành TTCK.
Nghiên cứu lịch sử ra đời và phát triển của TTCK cho thấy:
TTCK cũng như tất cả các loại thị trường khác, buổi bình minh của thị
trường được hình thành một cách rất tự phát và sơ khai, từ những nhu
cầu riêng lẻ của các thành viên trong xã hội mà lúc đầu chủ yếu là các
thương gia. Khoảng giữa thế kỷ XV, tại một số các thành phố lớn ở
các nước phương Tây, các thương gia thường xuyên gặp nhau tại các
quán cà phê để trao đổi, mua bán các hàng hóa (nông sản, khoáng sản,
ngoại tệ, chửng từ có giá). Điểm đặc biệt là trong những cuộc thương
lựợng này, các thương gia chỉ dùng lời nói để trao đổi với nhau, không
có hàng hoá, ngoại tệ hay bất cứ một loại giấy tờ nào. Những cuộc
trao đổi này lúc đầu chỉ có một nhóm nhỏ, dần dần số người tăng lên.
Quy mô giao dịch cũng ngày càng gia tăng cùng với sự phát triển của
nền kinh tế hàng hóa. Khái niệm “thị trường” dần dần xuất hiện cùng
với việc thống nhất các quy tắc giao dịch giữa các thành viên của thị
trường vào những năm giữa thế kỷ XV.
Phiên chợ riêng (lữ quán của gia đình Vanber) đầu tiên diễn ra
năm 1453 tại Bruges (Bỉ). Trước lữ quán này có một bảng hiệu vẽ
8
- hình 3 túi da với một tiếng Pháp “Bourse” tức là “mậu dịch trường”
hay còn gọi là “sở giao dịch”. Mậu dịch trường là một bảng hiệu
chung, ba túi da tượng trưng cho 3 nội dung của mậu dịch trường:
mậu dịch trường hàng hoá, mậu dịch trường ngoại tệ và mậu dịch
trường chứng khoán. Đến năm 1547 mậu dịch trường tại thành phố
Bruges bị suy sụp khi Bruges mất hẳn sự phồn vinh vì eo biển dẫn tàu
bè vào thị trấn bị cát lấp mất. Thị trường được dời đến hải cảng
Auvers (Bỉ). Mậu dịch Auvers phát triển nhanh, và từ kinh nghiệm
của nó mậu dịch trường ở các nước bắt đầu phát triển. Tại London vào
giữa thế kỷ XVIII, một mậu dịch trường được thiết lập theo mẫu mậu
dịch trường Auvers gọi là Stock Exchange, nơi mà sau này gọi là Sở
giao dịch chứng khoán London. Kế tiếp sau đó là các mậu dịch trường
của các nước Pháp, Ý, Đức, Bắc Âu... cũng được thành lập.
Với việc phát triển quy mô giao dịch một cách nhanh chóng, sự
gia tăng các thành viên cũng như hàng hộa và nội dung giao dịch, thị
trường dần dần được phân chia thành các thị trường khác nhau với các
hàng hóa và tính chất giao dịch khác nhau như: thị trường hàng hóa và
dịch vụ, thị trường hối đoái, thị trường họp đồng tương lai, thị trường
chứng khoán ...
Phương thức giao dịch truyền thống ban đầu được diễn ra ngoài
trời với những ký hiệu giao dịch bằng tay. Lòng bàn tay hướng về
phía người gọi là lệnh mua, lòng bàn tay hướng ngược phía người gọi
là lệnh bán, cáỡngón tay biểu thị mức giá... Cho tới năm 1921, ở Hoa
Kỳ, các khu chợ được chuyển vào trong nhà, Sở giao dịch chứng
khoán chính thức được thành lập. Cùng với sự phát triển của tiến bộ
khoa học kỹ thuật và công nghệ, các phương thức giao dịch cũng ngày
càng được hoàn thiện để từng bước nâng cao quý mô và chất lượng
giao dịch. Nếu trong thời kỳ đầu của TTCK, các giao dịch được thực
hiện thủ công, bảng đen phấn trắng thì vào những năm cuối thế kỷ XX
hệ thống giao dịch điện tử hầu như đã hoàn toàn thay thế.
Lịch sử ra đời và phát triển của thị trường trên thế giới cho thấy,
các nước phát triển theo cơ chế thị trường đều phải tuân theo các quy
9
- luật khắt khe của thị trường: quy luật gia trị, quy luật cạnh tranh, quy
luật cung cầu... Trong nền kinh tế thị trường, các yếu tố sản xuất đều
là hàng hoá, vì vậy phải có các loại thị trường giành cho từng loại
hàng hoá đó. Chính vì thế, trong cơ cấu thị trường của các nước, bên
cạnh thị trường hàng hoá tiêu dùng, còn có thị trường tư liệu sản
xuất, thị trường sức lao động, thị trường dịch vụ thông tin, TTCK...
Điều đó chứng tỏ, TTCK là một yếu tố cấu thành đặc biệt quan trọng
của nền kinh tế thị trường, nó ra đời tự phát và tồn tại khách quan
trong nền kinh tế.
1.1.2. Khái niệm và các đặc điểm của TTCK
Thuật ngữ "thị trường" là một khái niệm cơ bản của kinh tế học
và đã được nhiều nhà kinh tế học định nghĩa. Nếu hiểu "thị trường"
một cách đơn giản là nơi mua bán hàng hoá thì không sai, nhưng
không đầy đủ và không thấy được những loại thị trường không có
"chợ" mua bán tập trung. Hơn nữa, nếu hiểu như vậy thì thật khó giải
thích được những loại thị trường "vô hình" với những loại hàng hoá
"vô hình" đã và đang ngày căng phát triển như thị trường vốn, thị
trường dịch vụ,...
Xét về bản chất, thị trường là mối quan hệ kinh tế tổng hợp của 5
thành tố: hàng hoá, cung cầu, giá cả, phương thức giao dịch và thanh
toán. Như vậy, nơi nào, lúc nào có đủ 5 thành tố thì nơi đó, khi đó
diễn'ra hoạt động của thị trường. Với nhận thức này chúng ta sẽ thấy
được các loại thị trường "vô hình", những loại thị trường không có
chợ mua bán tập trung tại một địa điểm cố định. Những khác biệt còn
lại là quy mô của thị trường đó rộng hay hẹp, phổ biến hay chưa phổ
biến, hiện đại hay còn thô sơ.
Có nhiều loại thị trường khác nhau tùy theo tiêu thức phân chia.
Căn cứ vào đối tượng giao dịch thì có thể kể tới các loại thị trường
như: thị trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường sức lao động, thị
trường vàng, thị trường ngoại tệ, thị trường chứng khoán...
10
- TTCK là gì?
TTCK là thị trường diễn ra các hoạt động phát hành, giao dịch
mua bán chứng khoán. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường
sơ cấp, khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người
* ' >71. >
phát hành chứng khoán, và ở thị trường thứ câp khi có sự mua đi bán
lại các chứng khoán đã được phát hành từ thị trường sơ cấp.
Như vậy, TTCK là 1 bộ phận của thị trường tài chính, là nơi diễn
ra quá trình phát hành, mua bán các chứng khoán, đó là các chứng
khoán nợ và chứng khoán vốn (còn gọi là công cụ sở hữu). Bản chất
của TTCK là thị trường thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu vốn
đầu tư. Giá chứng khoán chứa đựng các thông tin về chi phí vốn, hay
còn gọi là giá của vốn đầu tư. TTCK là hình thức phát triển bậc cao
của nền sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Chứng khoán được phát hành và mua bán trên TTCK bao gồm
nhiều loại khác nhau tùy theo tiêu thức phân loại. Nếu căn cứ vào thời
gian sử dụng vốn sẽ có chứng khoán ngắn hạn và chứng khoán dài
hạn. Các chứng khoán ngắn hạn thường được mua bán trên thị trường
tiền tệ. Các chứng khoán dài hạn như cổ phiếu, trái phiếu thường được
phát hành, mua bản trên TTCK. Vì vậy trên thực tế, đôi khi người ta
đồng nhất giữa TTCK với thị trường vốn.
Đặc điểm của TTCK
Thứ nhất, hàng hoá của TTCK là các loại chứng khoán. Đó là
những công cụ chuyển tai giá trị như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ
quỹ đầu tư, chứng khoán phái sinh. Chứng khoán có những đặc điểm
khác biệt so với các loại hàng hóa thông thường. Nếu như mỗi loại
hàng hóa thông thường đều có tính năng tác dụng và mục đích sử
dụng riêng (mua để sử dụng làm nguyên liệu phục vụ sản xuất, mua để
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân như ăn, mặc...) thì chứng khoán
không có những tính năng tác dụng riêng đó. Vì thế ở các thị trường
hàng hóa, người sản xuất - người bán và người mua đều rất quan tâm
11
- tới hình dáng, mẫu mã, kích thước, chất liệu, tác dụng, giá thành và
giá cả của sản phẩm; ở TTCK, do chứng khoán là những công cụ
chuyển tải giá trị nên người ta chỉ quan tâm đến chứng khoán đó thật
hay giả, khả năng sinh lợi và rủi ro tiềm ẩn thế nào, khả năng thanh
khoản ra sao. Nói cách khác, việc phát hành, giao dịch các chứng
khoán với tư cách là hàng hoá trên TTCK của tổ chức phát hành, của
nhà đầu tư nhàm mục đích huy động các nguồn vốn nhàn rỗi cho đầu
tư, đồng thời thực hiện việc chuyển dịch các dòng tiết kiệm và đầu tư
nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận.
Thứ hai, TTCK được đặc trưng bởi hình thức chuyển giao tài
chính trực tiếp, những người có khả năng cung ứng vốn có thể điều
chuyển vốn trực tiếp cho người cần vốn mà không cần thông qua các
trung gian tài chính (ngân hàng, công ty tài chính,...) với tư cách là
một chủ thể riêng biệt, độc lập thực hiện huy động vốn để phân phối
vốn nhằm đạt được những lợi ích riêng.
Chúng ta đều đã biết, các nguồn tài chính có thể được chuyển
dịch từ người cung sang người cầu bằng một trong hai hình thức: tài
chính gián tiếp hoặc trực tiếp.
Tài chính gián tiếp: vốn được luân chuyển từ người cung vốn qua
các trung gian tài chính (như ngân hàng thương mại, công ty tài
chính...) rồi mới được chuyển tới người cầu vốn. Trung gian tài chính
đứng giữa người cung và người cầu vốn, tiến hành tập trung các
nguồn tài chính từ những người cung vốn và trả cho họ một khoản tiền
lãi nhất định; sau đó sử dụng các nguồn lực tài chính huy động được
để cho những người cầu vốn vay và thu từ họ một khoản tiền lãi nhất
định. Trung gian tài chính được hưởng một khoản thu nhập từ phần
chênh lệch giữa thu từ cung ứng nguồn lực tài chính và chi cho huy
động các nguồn lực tài chính.
Tài chính trực tiếp: vốn hay các nguồn tài chính được luân chuyển
trực tiếp từ người cung vốn sang người cầu vốn. Trong quá trình vận
động này, nguồn tài chính không dừng lại ở bất kỳ một tổ chức tài
12
- chính trung gian nào. Người có nhu cầu sử dụng vốn phải trả chi phí
sử dụng vốn cho người cung vốn. Tuy nhiên, trong hỉnh thức tài trợ
trực tiếp, nguồn vốn có thể luân chuyển tới người có nhu cầu theo 2
hình thức: tài trợ trực tiếp qua trung gian và tài trợ trực tiếp không qua
trung gian.
Tài chính gián tiêp
'/Người trung gian
1.Ngân hàng
’2.To chức KD tiền tệ
3. Công ty môi giới CK
4. Nhà moi giới độc lập
5. Tổ chức, cá nhẩn
nước ngoài
vốr
'Người cung vôn Người câu vốn
1. Hộ giạ đình và cá nhân 1 .Các tổ chức kinh doanh
2. Cẩc tổ chức CTXH Thị 2. Nhà nước
3. Các tổ chức kinh doanh trường 3. Hộ giạ ánh và cá nhân
4. Nhà nước tài 4. Các tổ chức CTXH
5. Tổ chức, cá nhân chính 5. Tổ chức, cá nhân
nước ngoài - nước ngoài
y
Tài chính trực tiếp
Hình 1.1: Quá trình chu chuyển vốn trên thị trường tài chính
Tài trợ trực tiếp qua trung gian: là một hình thức luân chuyển các
nguồn tài chính trong đó ngoài người cung vốn và người cầu vốn còn
xuất hiện một trung gian đứng ra tổ chức, thu xếp việc thực hiện giao
dịch tài chính giữa người cung và người cầu. Ở hình thức này, nguồn
tài chính không dừng lại ở trung gian (như trong tài trợ gián tiếp) song
người cung và người cầu vốn phải trả một khoản phí nhất định đối cho
người trung gian ngoài chi phí sử dụng vốn, ví dụ: hoa hồng đại lí, phí
bảo lãnh phát hành chứng khoán... Đây là loại hình luân chuyển các
nguồn tài chính phát sinh khá phổ biến trên thị trường.
13
- Tài trợ trực tiếp không qua trung gian: là hình thức luân chuyển
trực tiếp các nguồn tài chính giữa người cung vốn và người cầu vốn
mà không cần qua bất kỳ một trung gian nào. Người cung vốn và
người cầu vốn trực tiếp thỏa thuận các điều kiện giao dịch..Trong hình
thức này, người có nhu cầu vốn chỉ phải trả chi phí sử dụng vốn cho
người cung vốn để có quyền sử dụng vốn trong những khoảng thời gian
nhất định. Loại hình luân chuyển các nguồn tài chính này phát sinh phổ
biếri trong phát hành chứng khoán nội bộ, mua chứng khoán trực tiếp từ
tổ chức phát hành, hoặc trên thị trường tự do (thị trường ngầm).
Thực tế phát triển TTCK cho thấy, hầu hết các hoạt động phát
hành chứng khoán để huy động vốn của các tổ chức phát hành được
thực hiện thông qua các hình thức tài trợ trực tiếp qua trung gian hoặc
không qua trung gian.
Thứ ba, hoạt động mua bán trên TTCK chủ yếu được thực hiện
qua người môi giới.
TTCK được cấu thành bởi nhiều bộ phận thị trường, trong đó
TTCK tập trung và thị trường OTC là những bộ phận quan trong. Do
hàng hóa của thị trường này là các công cụ chuyển tải giá trị, nên bàng
những giác quan thông thường nhà đầu tư khó có khả năng phân biệt
được chứng khoán đó có đảm bảo yêu cầu về mặt pháp lí cũng như
chất lượng của chúng. Vì vậy, để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho nhà
đầu tư, đảm bảo TTCK hoạt động đúng pháp luật, công bằng, công
khai và hiệu quả, luật pháp các nước thường quy định hoạt động mua
bán chứng khoán trên các thị trường có tổ chức phải thông qua các
trung gian, đó là những nhà môi giới chứng khoán đã được cấp phép
là thành viên giao dịch của thị trường đó. Các nhà đầu tư muốn mua
hoặc bán chứng khoán không thể đến thị trường đàm phán để mua bán
trực tiếp, mà bắt buộc phải đặt lệnh mua bán qua các nhà môi giới
chứng khoán.
Thứ tư, TTCK gần với thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
14
- TTCK bao gồm nhiều bộ. phận thị trường khác nhau, trong đó
TTCK tập trung là bộ phận trung tâm. Ở thị trường này tất cả mọi
người đều được tự do tham gia mua và bán theo nguyên tắc hoạt động
của thị trường. Không có sự áp đặt giá cà trên TTCK, giá cả ở đây
được xác định dựa ừên quan hệ cung cầu của thị trường và phản ánh
các thông tin có liên quan đến chứng khoán.
Thứ năm, TTCK về cơ bản là thị trường liên tục. Sau khi các
chứng khoán được phát hành trên thị trường sơ. cấp, nó có thể được
mua đi bán lại nhiều lần trên thị trường thứ cấp. TTCK đảm bảo cho
những người đầu tư có thể chuyển các chứng khoán của họ nắm giữ
thành tiền bất cứ lúc nào họ muốn.
Trên đây là một số đặc điểm cơ bản của TTCK. Chính những đặc
điểm này là cơ sờ để phân biệt sự khác nhau giữa TTCK với các thị
trường khác; đồng thời đó cũng là những điểm nhấn tạo ra sự hấp dẫn
của TTCK đối với các tổ chức phát hành, nhà đầu tư và kinh doanh
chứng khoán. Đặc biệt đối với các tổ chức phát hành, TTCK là kênh
huy động vốn trung và dài hạn rất thuận lợi vì với đặc điểm "thị
trường chứng khoán là thị trường liên tục" đã tạo điều kiện cho các
nguồn vốn ngắn hạn của nhà đầu tư, trờ thành nguồn vốn dài hạn của
nhà phát hành.
1.1.3. Các chủ thể tham gia TTCK
Tham gia TTCK bao gồm nhiều chủ thể khác nhau, song thông
thường và phổ biến là: tổ chức phát hành, nhà đầu tư, tổ chức kinh
doanh chứng khoán, tổ chức phụ trợ, tổ chức quản lí TTCK .
• Tổ chức phát hầnh chúmg khoán
Tổ chức phát hành chứng khoán là các tổ chức cần vốn và thực
hiện huy động vốn thông qua TTCK. Tổ chức phát hành là người cung
cấp chứng khoán - hàng hóa của TTCK. Thông thường tổ chức phát
hành bao gồm:
- Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương: phát hành trái
"'hiếu chính phủ và chính quyền địa phương.
15
- - Doanh nghiệp (bao gồm cả các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực tài
chính ngân hàng và phi tài chính): phát hành cổ phiếu, trái phiếu
doanh nghiệp. Theo luật lệ của hầu hết các quốc gia, cổ phiếu chỉ do
một chủ thể duy nhất phát hành, đó là công ty cổ phần; còn trái phiếu
có thể do nhiều loại hình doanh nghiệp phát hành như: công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp nhà nước.
- Công ty quản lí quỹ đầu tư: phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư.
• Nhà đầu tư chứng khoán
Nhà đầu tư chứng khoán là những người bỏ tiền đầu tư vào chứng
khoán nhằm mục đích th'u lợi nhuận. Có thể chia nhà đầu tư thành
nhiều nhóm như: nhà đầu tư tổ chức, nhà đầu tư cá nhân, nhà đầu tư
trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Tùy theo chính sách quản lí
nguồn vốn đầu tư nước ngoài của mỗi quốc gia, trong từng thời kì mu
số lượng các ngành và tỉ lệ tham gia đầu tư cổ phiếu, trái phiếu của
các tổ chức và cá nhân nước ngoài vào các doanh nghiệp thuộc các
ngành có thể khác nhau.
+ Nhà đầu tư cá nhân
Nhà đầu tư cá nhân là những người tham gia mua bán chứng
khoán trên TTCK. Cũng giống như những hoạt động đầu tư khác, mục
đích của đầu tư chứng khoán để tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, mỗi
nhà đầu tư có khả năng tài chính, tâm lí đầu tư và điều kiện nhân
thân... khác nhau. Do vậy, họ sẽ có thái độ khác nhau đối với rủi ro.
Các nhà đầu tư cá nhân thuộc trường phái thận trọng thường
không thích rủi ro và rất bảo thủ trong các phương thức đầu tư. Họ 11111
mọi cách để giảm rủi ro và tìm kiếm lợi nhuận từ những chứng khoán
có rủi ro thấp, đầu tư dài hạn vào một số chứng khoán hhất định.
Các nhà đầu tư cá nhân thuộc trường phái mạo hiểm thường sẵn
sàng chấp nhận rủi ro nhàm mục đích tối đa hóa lợi nhuận thu được.
Họ thường đầu tư vào các chứng khoán có tỉ lệ rủi ro cao nhưng có lợi
16
- nhuận kì vọng lớn, thường đầu tư ngắn hạn mà không đầu tư lâu dài
vào bất cứ một loại chứng khoán nào.
+ Nhà đầu tư tổ chức (còn gọi nhà đầu tư chuyên nghiệp)
Nhà đầu tư tổ chức là các tổ chức thường xuyên mua bán chứng
khoán với số lượng lớn. Các tổ chức này thường có các bộ phận chức
nãng bao gồm các chuyên gia có kinh nghiệm để nghiên cứu thị
trường và đưa ra các quyết định đầu tư. Nhìn chung có thể kể đến một
số nhà đầu tư chuyên nghiệp sau:
- Các công ty đầu tư và các quỹ tín thác đàu tư: được thành lập
nhằm thu hút vốn của nhiều nhà đầu tư cá nhân đề đầu tư trên TTCK.
Ưu điểm nổi bật của hình thức đầu tư qua’các quỹ tín thác là có thể đa
dạng hóa danh mục đầu tư và các quyết định đàu tư được thực hiện
bởi các chuyên gia có kinh nghiệm.
- Các công ty bảo hiểm: Công ty bảo hiểm quản lí phí bảo hiểm
của những người tham gia bảo hiểm và sử dụng số tiền đó để đầu tư
dưới các hình thức như: gửi ngân hàng, đầu tư vào chứng khoán... Để
đảm bảo khả năng thanh toán bảo hiểm của các công ty bảo hiểm,
pháp luật các nước thường có các quy định khá chặt chẽ về tỉ trọng
các khoản đầu tư.
- Các quỹ hưu trí và quỹ bảo hiểm xã hội khác. Các quỹ này thu
phí đóng góp định kì của các cá nhân để sau này trả cho họ lưomg hưu
hay các khoản trợ cấp khác. Phần phí thu được chưa phải chi trả có thể
được các nhà quản lí quỹ đầu tư vào các chứng khoán có độ an toàn
cao như trái phiếu chính phủ.
- Các công ty tài chính, các NHTM... .cũng có thể trở thành nhà
đầu tư chuyên nghiệp khi họ mua bán chứng khoán cho chính mình.
• Người kình doanh chứng khoán
Tham gia KDCK có thể bao gồm nhiều tổ chức như: CTCK, công
ty quản lí quỹ đầu tư... và cá nhân hành nghề độc lập.
17
- + Công ty chứng khoán
CTCK lă tổ chức có tư cách pháp nhân kinh doanh trong lĩnh vực
chứng khoán, thực hiện một hoặc toàn bộ các hoạt động: môi giới, tự
doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán với mục đích
tìm kiếm lợi nhuận.
Tùy theo điều kiện về năng lực tài chính, cơ sở vật chất kĩ thuật
và nguồn nhân lực mà một CTCK có thể đảm nhận tất cả các nghiệp
vụ kinh doanh chứng khoán hoặc chỉ đảm 'nhận một số nghiệp vụ nhất
định theo giấỷ phép kinh doanh.
Trên TTCK tập trung, nhà đầu tư không được trực tiếp tham gia
giao dịch mà phải thông qua thành viên giao dịch của thị trường. Đó là
những nhà môi giới giao dịch, kính doanh chứng khoán đã được cấp
phép thành viên giao dịch. Đây là một trong những điều kiện cơ bản
đảm bảo cho TTCK hoạt động một cách trôi chảy, công bằng, có trật
tự và hiệu quả. Vì vậy, các TTCK đều kiểm soát nghiêm ngặt việc
đăng ký hành nghề môi giới, xét chọn vào thành viên TTCK, giám sát
các hoạt động của nhà môi giới. Các pháp, nhân và cá nhân đều có thể
tham gia vào TTCK nếu hội đủ điều kiện và trải qua một cuộc sát
hạch đạt những yêu cầu về năng lực chuyên môn.
Số lượng thành viên được tuyển chọn vào TTCK nhiều hay ít
phần lớn tuỳ thuộc vào quy mô của thị trường. Thông thường khi mới
thành lập thị trường, do khối lượng chứng khoán được giao dịch ít nên
số thành viên thường cũng ít hơn (khoảng 5-10 thành viên), về sau số
thành viên sẽ gia tăng tuỳ theo số lượng chủng loại chứng khoán niêm
yết, khối lượng và giá trị chứng khoán giao dịch tăng lên. Nguyên tắc
ấn định số thành viên cần đảm bảo phù hợp theo khối lượng chứng
khoán, tránh quá ít dễ làm suy yếu tính cạnh tranh, khiến cho thị
trường kém sôi động, nhưng cũng tránh quá nhiều gây rối loạn thị
trường.; Liên hệ thực tế thời kì đầu của TTCK Đài Loan, số lượng
CTCK đang từ 28 công ty vào cuối tháng 6/1988 lên 297 công ty vào
18
nguon tai.lieu . vn