Xem mẫu
- CHƢƠNG V. TÍN DỤNG
Mục tiêu
Chương này trình bày các vấn đề cơ bản về tín dụng và lãi suất, gồm:
- Sự ra đời và phát triển của tín dụng, bản chất của tín dụng, các hình thức tín
dụng. Trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến hình thức tín dụng ngân hàng và các công cụ
của thị trường tín dụng.
- Khái niệm lãi suất, phân loại lãi suất, phương pháp xác định lãi suất và các
nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất.
I. Khái niệm, đặc điểm và bản chất của tín dụng
1. Sự ra đời và phát triển của tín dụng
Sự phân công lao động xã hội và sự xuất hiện sở hữu tƣ nhân về tƣ liệu sản xuất
là cơ sở ra đời của tín dụng. Khi có sự phân công lao động thì trao đổi hàng hoá với
nhau là điều tất yếu. Tuy nhiên, việc mua bán hay trao đổi hàng hóa theo nghĩa thông
thƣờng chỉ có thể thực hiện đƣợc khi ngƣời bán có hàng hoá và ngƣời mua có đủ lƣợng
tiền tƣơng ứng về giá trị. Nếu điều kiện này không đƣợc thoả mãn thì những nhu cầu
trao đổi mua bán nói trên sẽ chỉ thực hiện đƣợc khi có sự vay mƣợn lẫn nhau, nhằm
khắc phục sự không ăn khớp trong quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Khi nào và ở đâu có
những cơ sở cho hoạt động sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó quan hệ tín dụng sẽ
đƣợc nảy sinh và phát triển.
Xét về mặt cơ sở hình thành sự phân hóa xã hội thì của cải, tiền tệ có xu hƣớng
tập trung vào một nhóm ngƣời, trong lúc đó một nhóm ngƣời khác có thu nhập thấp
hoặc thu nhập không đáp ứng đủ cho nhu cầu tối thiểu của cuộc sống, đặc biệt khi gặp
những biến cố bất thƣờng xảy ra. Trong điều kiện nhƣ vậy đòi hỏi sự ra đời của tín
dụng để giải quyết mâu thuẫn nội tại của xã hội, thực hiện việc điều hòa nhu cầu tạm
thời của cuộc sống.
Nhƣ vậy, có thể kết luận: Cơ sở lý luận ra đời của tín dụng là sự ra đời và tồn tại
của các quan hệ kinh tế tư hữu, gắn với diễn biến của quá trình phân công lao động xã
hội, tín dụng góp phần thực hiện phân bổ điều tiết sử dụng nguồn lực của cải xã hội
hiệu quả hơn.
Để nghiên cứu về lịch sử phát triển của tín dụng, chúng ta nghiên cứu quan hệ tín
dụng trong hai giai đoạn – hai mức độ phát triển của nền sản xuất hàng hoá.
- Tín dụng thời kỳ tiền sản xuất hàng hoá
Đây là thời kỳ chế độ phong kiến, phần lớn tƣ liệu sản xuất và các điều kiện lao
động chủ yếu do giai cấp thống trị (địa chủ phong kiến, quý tộc, chủ tu viện nhà thờ…)
nắm giữ. Trong khi đa số nông dân và thợ thủ công là những ngƣời lao động trực tiếp
nhƣng không có tƣ liệu sản xuất hoặc không đủ những điều kiện lao động. Họ buộc
phải trở thành những ngƣời làm thuê, chịu sự chi phối quá trình sản xuất và phân phối
của giai cấp thống trị với thù lao, tiền công rẻ mạt. Trong bối cảnh đó, để có thể duy trì
cuộc sống, những ngƣời dân nghèo phải vay thóc gạo, tiền bạc của tầng lớp địa chủ và
quý tộc với mức lãi rất cao. Do đó, hoạt động cho vay trong thời kỳ này còn đƣợc gọi
64
- là “tín dụng nặng lãi”. Nguyên nhân là do việc tích lũy cho vay chỉ tập trung ở một số
ít ngƣời dƣ thừa của cải, trong khi nhu cầu vay là rất lớn và cấp thiết. Thêm vào đó, xã
hội chƣa phát triển, chƣa có những quy phạm ràng buộc đối với quan hệ tín dụng nên
ngƣời có tiền cho vay tùy ý áp đặt lãi suất. Mức lãi suất trong thời kỳ này phổ biến ở
mức từ 100% đến 150%, thậm chí có khi lên tới 200%. Chính vì vậy, những ngƣời vay
tiền dù cố gắng làm việc bao nhiêu cũng không đủ trả nợ, nên họ phải trở thành ngƣời
ở trừ nợ hoặc gán kết cả tài sản của mình cho chủ nợ.
Tín dụng nặng lãi tác động đến nền kinh tế xã hội theo cả hai hƣớng: Một mặt,
kìm hãm sự phát triển do mang tính chất đặc thù là tín dụng phi sản xuất. Điều này thể
hiện quan điểm của giai cấp thống trị là duy trì tình trạng nghèo nàn lạc hậu để tiếp tục
áp đặt sự thống trị và bóc lột nặng nề đối với ngƣời đi vay. Mặt khác, tín dụng nặng lãi
góp phần tích lũy tập trung vốn trong tay một số ngƣời vốn đã thừa của cải cho vay và
vô sản hoá những ngƣời đi vay.
- Tín dụng trong điều kiện nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trƣờng ra đời đồng nghĩa với sự phát triển mạnh mẽ của lực lƣợng
sản xuất và trao đổi hàng hoá, với rất nhiều những đơn vị kinh tế - các doanh nghiệp
hay các chủ thể kinh tế khác nhau. Những doanh nghiệp này không chỉ khác nhau bởi
quyền sở hữu, lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà còn khác nhau về đặc điểm tuần hoàn
và luân chuyển vốn. Do vậy mà luôn có sự không ăn khớp giữa các doanh nghiệp trong
quá trình sản xuất kinh doanh. Cụ thể là, tại một thời điểm bất kỳ, sẽ có một số doanh
nghiệp tạm thời thừa vốn trong khi đó một số doanh nghiệp khác lại tạm thời thiếu
vốn, cần có nhu cầu bổ sung vốn. Nhƣ vậy, nếu xét trên góc độ toàn nền kinh tế thì tại
bất kỳ một thời điểm nào đó sẽ luôn xuất hiện hai loại nhu cầu sử dụng vốn khác nhau:
cho vay và đi vay.
Nhằm thoả mãn hai nhu cầu nói trên, quan hệ tín dụng đƣợc coi là phƣơng thức
tối ƣu vì nó đảm bảo vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp,
nâng cao hiệu quả kinh tế và lợi ích của tất cả các bên tham gia. Nói cách khác, sự tồn
tại và phát triển của tín dụng trong nền kinh tế thị trƣờng là tất yếu khách quan.
Thực tế ở tất cả các nƣớc cho thấy trong điều kiện nền kinh tế thị trƣờng, tín dụng
đƣợc vận dụng và phát triển dƣới nhiều hình thức khác nhau, bởi các chủ thể khác
nhau và mang lại những ích lợi khác nhau tùy vào trình độ phát triển của mỗi quốc gia.
2. Khái niệm và đặc điểm của tín dụng
2.1. Khái niệm
Tín dụng đã xuất hiện, phát triển và trở nên phổ biến từ rất lâu trong lịch sử. Tín
dụng, theo tiếng Latinh gọi là creditium, tiếng Anh gọi là credit, có nghĩa tin tƣởng và
tín nhiệm. Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam, tín dụng có nghĩa là sự vay mƣợn.
Nếu nghiên cứu tín dụng dƣới góc độ quan hệ kinh tế ở tầm vi mô thì tín dụng là
sự vay mƣợn giữa hai chủ thể kinh tế (giữa ngƣời đi vay và ngƣời cho vay), trên cơ sở
thỏa thuận về thời hạn nợ, mức lãi cụ thể. Dƣới góc độ kinh tế vĩ mô thì tín dụng là sự
vận động vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu. Để đi đến một khái niệm thống nhất về tín
dụng, cần tìm hiểu thêm biểu hiện bên ngoài của tín dụng.
Biểu hiện ra bên ngoài của tín dụng là sự vận động độc lập tƣơng đối của các
luồng giá trị trong một kỳ hạn cụ thể nào đó. Quá trình vận động của tín dụng đƣợc
biểu hiện qua sơ đồ sau:
65
- Cho vay (giá trị hàng hóa, tiền tệ)
Ngƣời cho vay Ngƣời đi vay
( Ngƣời sở hữu vốn) ( Ngƣời sử dụng vốn)
Hoàn trả vốn gốc và lãi
(giá trị hàng hóa, tiền tệ)
Hình 5.1: Quá trình vận động của tín dụng
Ngƣời cho vay trên cơ sở tín nhiệm về ngƣời đi vay, đó là sự hoàn trả đúng hạn
giá trị tín dụng (cả vốn gốc lẫn lãi) nên sẽ chuyển giao một lƣợng giá trị tín dụng cho
ngƣời đi vay. Niềm tin ấy có thể đƣợc thực hiện trọn vẹn chỉ khi nào quá trình vận
động ngƣợc chiều của một lƣợng giá trị tiền tệ từ ngƣời đi vay trở về ngƣời cho vay.
Niềm tin sẽ không đƣợc thực hiện trọn vẹn hoặc không đƣợc thực hiện khi khoản vay
không đƣợc hoàn trả hoặc hoàn trả sai hẹn.
Từ đó có thể đƣa ra khái niệm tín dụng nhƣ sau:
“Tín dụng là sự vận động đơn phương của giá trị từ người cho vay sang người đi
vay và sẽ quay về với người cho vay (hoặc với người mà được người cho vay chỉ định)
cả vốn và lãi trong một kỳ hạn xác định nào đó”3.
Đã là sự vận động đơn phƣơng của giá trị, mặc nhiên đòi hỏi phải bắt nguồn từ
sự tin tƣởng hoặc tín nhiệm lẫn nhau, và nếu chƣa đủ cơ sở để có đƣợc tín nhiệm đó,
đòi hỏi phải kèm theo những điều kiện bắt buộc để có thể duy trì niềm tin đó. Niềm tin
mà ngƣời cho vay đặt ở chính mình và ở ngƣời vay đó là sự hoàn trả đúng hạn của giá
trị tín dụng.
2.2. Đặc điểm
Tín dụng bao gồm những đặc điểm sau:
Có sự chuyển nhƣợng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang cho người sử
dụng. Xét về mặt bản chất cũng là một hình thức của quan hệ mua bán nhƣng xảy ra
đối với một loại hàng hoá đặc biệt đó là vốn. Nhƣ vậy, quan hệ tín dụng nhất thiết chỉ
có ý nghĩa khi có sự chuyển dịch giữa các chủ sở hữu khác nhau.
Sự chuyển nhƣợng này có thời hạn.
Sự chuyển nhƣợng này có kèm theo chi phí.
Nếu thiếu một trong ba đặc điểm trên thì không còn là quan hệ tín dụng hay quan
hệ cho vay. Chẳng hạn, trong ba đặc điểm trên, nếu chúng ta bỏ bớt đặc điểm thứ ba
thì quan hệ không còn là quan hệ cho vay mà chỉ là quan hệ cho mƣợn, vì không có
chi phí nghĩa là không kèm theo lãi. Nếu thiếu cả đặc điểm thứ hai thì quan hệ cũng
không phải là quan hệ cho vay hay quan hệ cho mƣợn mà là cho luôn. Còn nếu thiếu
cả đặc điểm thứ nhất thì chẳng có quan hệ gì xảy ra cả, vì không có chuyển nhƣợng
vốn có nghĩa là không xảy ra quan hệ giữa hai bên.
3. Bản chất của tín dụng
Để hiểu rõ bản chất của tín dụng cần phải nghiên cứu mối liên hệ kinh tế trong
quá trình hoạt động của tín dụng và mối liên quan của nó với quá trình tái sản xuất.
3
PGS.TS. Lê Văn Tề, Giáo trình Lý thuyết Tài chính – Tiền tệ, NXB Thống kê, 2006.
66
- Thực chất của tín dụng là một quan hệ kinh tế giữa ngƣời đi vay và ngƣời cho
vay thông qua sự vận động giá trị vốn tín dụng, đƣợc biểu hiện dƣới hình thức tiền tệ
hoặc hàng hóa. Quá trình vận động đó đƣợc thể hiện qua các giai đoạn sau:
- Phân phối vốn tín dụng dưới hình thức cho vay
Ở giai đoạn này, vốn tiền tệ hoặc giá trị vật tƣ hàng hoá đƣợc chuyển từ ngƣời
cho vay sang ngƣời đi vay, nhƣ vậy khi cho vay, giá trị vốn tín dụng đƣợc chuyển sang
ngƣời đi vay. Đây là đặc điểm cơ bản khác với việc mua bán hàng hoá thông thường
vì trong quan hệ mua bán hàng hoá thì giá trị chỉ thay đổi hình thái tồn tại4.
- Sử dụng vốn tín dụng
Sau khi nhận đƣợc giá trị vốn tín dụng, ngƣời đi vay đƣợc quyền sử dụng giá trị
đó để thoả mãn những mục đích nhất định. Tuy nhiên, ngƣời đi vay không có quyền sở
hữu về giá trị đó, họ chỉ đƣợc sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định. Nghĩa là
xuất hiện trong thực tế sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng: ngƣời cho vay
có quyền sở hữu nhƣng không có quyền sử dụng và ngƣời đi vay, họ có quyền sử dụng
nhƣng lại không có quyền sở hữu.
Ví dụ:
1. Trong nền kinh tế kế hoạch tập trung, quan hệ giữa ngƣời cho vay và ngƣời
đi vay là quan hệ điều hòa việc sử dụng vốn theo một kế hoạch do nhà nƣớc vạch sẵn.
Nhƣ vậy, quan hệ tín dụng này mang tính chất hình thức chứ không thực sự thể hiện
quan hệ cân nhắc giữa chi phí và hiệu quả.
2. Trong nền kinh tế thị trƣờng, quan hệ giữa ngƣời cho vay và ngƣời đi vay là
quan hệ trao đổi và chuyển nhƣợng quyền sử dụng vốn trên cơ sở so sánh giữa lợi
nhuận và chi phí nên quan hệ ở đây hình thành trên cơ sở có cân nhắc và tính toán cẩn
thận giữa lợi ích thu đƣợc và chi phí sử dụng vốn.
- Sự hoàn trả của tín dụng
Đây là giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn của tín dụng. Sau khi vốn tín dụng
đã hoàn thành một chu kỳ kinh doanh để trở về hình thái tiền tệ thì vốn tín dụng đƣợc
ngƣời đi vay hoàn trả lại cho ngƣời cho vay.
Nhƣ vậy hoàn trả của tín dụng là quá trình quay trở về của giá trị. Hình thái vật
chất của sự hoàn trả là sự vận động dƣới hình thái hàng hoá hoặc giá trị, tuy nhiên sự
vận động đó không phải với tƣ cách là phƣơng tiện lƣu thông, mà với tƣ cách một
lƣợng giá trị đƣợc vận động. Chính vì sự hoàn trả luôn luôn đuợc bảo tồn về mặt giá trị
và có phần tăng thêm dƣới hình thức lợi tức, ngay cả trong điều kiện lạm phát sự hoàn
trả về mặt giá trị cũng phải đƣợc tôn trọng thông qua cơ chế điều tiết bằng lãi suất. Do
đó, hoàn trả tín dụng là đặc trƣng thuộc về bản chất vận động của tín dụng5.
II. Các hình thức tín dụng
4
Mác viết: “Đối với hàng hoá giản đơn, tức là hàng hoá với tƣ cách là hàng hoá thì ở trong một tay ngƣời mua
và trong tay ngƣời bán, nó vẫn là một giá trị nhƣ thế chỉ dƣới hình thức khác nhau mà thôi. Ngƣời bán và ngƣời
mua, cả hai đều có một giá trị nhƣ trƣớc, giá trị mà họ đã nhƣợng đi, ngƣời thứ nhất nhƣợng đi dƣới hình thái
hàng hoá, ngƣời thứ hai nhƣợng đi dƣới hình thái tiền. Trong việc cho vay, chỉ có một bên nhận đƣợc giá trị, vì
cũng chỉ một bên nhƣợng giá trị mà thôi” (Nguồn: Các Mác, Tư bản, quyển III, tập 2, NXB Sự Thật Hà Nội,
1978).
5
Mác viết: “Đem tiền cho vay với tƣ cách là một vật có đặc điểm là sẽ quay trở về điểm xuất phát của nó, mà
vẫn giữ nguyên vẹn giá trị của nó và đồng thời lại lớn thêm trong quá trình vận động” (Nguồn: Các Mác, Tư bản,
quyển III, tập 2, NXB Sự Thật Hà Nội, 1978).
67
- 1. Tín dụng thƣơng mại
Tín dụng thƣơng mại là các quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa những ngƣời sản
xuất kinh doanh, đƣợc thực hiện dƣới hình thức mua bán chịu hàng hoá.
Quá trình vận động của tín dụng thƣơng mại đƣợc thể hiện qua các sơ đồ sau:
(1) Hàng hóa
Ngƣời bán chịu Ngƣời mua chịu
(DN sản xuất KD (DN sản xuất KD
hàng hóa) (2) Thƣơng phiếu hàng hóa)
Hình 5.2: Quá trình vận động của tín dụng thƣơng mại
Sơ đồ hình 5.2 cho thấy:
Giai đoạn 1: Người bán chịu chuyển giao cho ngƣời mua quyền sử dụng vốn
(hàng hoá) trong một thời gian nhất định.
Giai đoạn 2: Đến thời hạn thanh toán, người mua chịu hoàn lại số vốn vay cho
ngƣời bán dƣới hình thức thƣơng phiếu6.
Tín dụng thƣơng mại xuất phát từ những đặc điểm tuần hoàn, luân chuyển vốn
khác nhau trong những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bởi thƣờng xuyên có sự
không ăn khớp giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Tại một thời điểm, trong khi một số
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hàng hoá muốn bán thì một số khác lại muốn
mua hàng hoá đó nhƣng chƣa có tiền. Trong trƣờng hợp này, ngƣời sản xuất muốn tiêu
thụ đƣợc sản phẩm thì có thể bán chịu cho ngƣời mua. Ngƣời bán chuyển giao cho
ngƣời mua quyền sử dụng vốn (hàng hoá) tạm thời trong một thời gian nhất định.
Chính việc gia hạn thanh toán đã làm xuất hiện quan hệ tín dụng thƣơng mại.
Đến thời hạn hoàn trả, ngƣời mua hoàn lại số vốn vay cho ngƣời bán dƣới hình
thức thanh toán. Trong trƣờng hợp này, lãi suất của tín dụng thƣơng mại đƣợc cộng
trong giá cả hàng hóa và đƣợc xác định ngay tại thời điểm bán hàng.
Tín dụng thƣơng mại góp phần đẩy nhanh tốc độ lƣu thông hàng hóa, nâng cao
hiệu quả kinh tế nhờ giảm chi phí giao dịch do không phải qua khâu trung gian mà qua
quan hệ trực tiếp giữa ngƣời đi vay và ngƣời cho vay. Tuy nhiên, tín dụng thƣơng mại
cũng bộc lộ những hạn chế nhất định nhƣ: Về quy mô, tín dụng thƣơng mại do các
doanh nghiệp (ngƣời sản xuất kinh doanh hàng hóa) cung cấp và họ chỉ có thể cung
cấp khối lƣợng tín dụng trong giới hạn khả năng vốn hàng hóa của mình. Về thời hạn
cho vay, tín dụng thƣơng mại là tín dụng ngắn hạn nên không thể đáp ứng nhu cầu vay
dài hạn. Về phạm vi, tín dụng thƣơng mại chỉ đƣợc thực hiện dƣới hình thức hàng hóa,
vì vậy phạm vi hoạt động của nó chỉ giới hạn trong các doanh nghiệp có cung và cầu
hàng hóa phù hợp nhau.
2. Tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là các quan hệ vay mƣợn vốn tiền tệ phát sinh giữa các ngân
hàng với các chủ thể trong nền kinh tế.
Quá trình vận động của tín dụng ngân hàng đƣợc thể hiện qua sơ đồ sau:
6
Xem thêm bài đọc thêm về Thƣơng phiếu trang 45 của giáo trình.
68
- Các NGÂN HÀNG Các
chủ thể Đi vay THƢƠNG MẠI Cho vay chủ thể
kinh tế kinh tế
Hình 5.3: Quá trình vận động của tín dụng ngân hàng
Ngân hàng thƣơng mại đóng vai trò là trung gian tài chính trong quá trình đi vay
và cho vay. Khác với tín dụng thƣơng mại (tín dụng đƣợc cung cấp dƣới hình thức
hàng hóa), tín dụng ngân hàng đƣợc cung cấp dƣới hình thức tiền tệ, bao gồm tiền mặt
và bút tệ, mà chủ yếu là bút tệ.
Ngày nay, tín dụng ngân hàng chiếm vị trí chủ đạo trong nền kinh tế và là một
hình thức tín dụng quan trọng nhất trong mọi hình thức tín dụng.
3. Tín dụng Nhà nƣớc
Tín dụng Nhà nƣớc là quan hệ tín dụng giữa nhà nƣớc và các chủ thể trong và
ngoài nƣớc.
Trong quan hệ tín dụng này, Nhà nƣớc biểu hiện là ngƣời đi vay. Theo đó, Nhà
nƣớc vay tiền của cá nhân, doanh nghiệp hay tổ chức nhằm huy động vốn bù đắp
khoản thâm hụt ngân sách.
Thông thƣờng Nhà nƣớc đi vay bằng cách phát hành chứng khoán Nhà nƣớc vào
lƣu thông, kể cả trong nƣớc và nƣớc ngoài. Trong các loại chứng khoán Nhà nƣớc thì
trái phiếu Chính phủ, trái phiếu của các địa phƣơng, trái phiếu công trình và trái phiếu
quốc tế là những công cụ tài chính dài hạn; tín phiếu kho bạc là công cụ tài chính ngắn
hạn.
Tín dụng Nhà nƣớc có mức độ an toàn cao và các công cụ huy động vốn (tín
phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc) có độ thanh khoản cao. Đối với Nhà nƣớc, loại hình
tín dụng này không những có thể đáp ứng nhu cầu chi tiêu Ngân sách Nhà nƣớc, mà
còn là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, góp phần kiểm soát lạm phát, điều hòa lƣu
thông tiền tệ, thực hiện chính sách xã hội của Nhà nƣớc. Tuy nhiên, nếu mức độ huy
động không hợp lý thì có thể dẫn đến tình trạng gây sức ép tăng lãi suất, khiến cho đầu
tƣ của doanh nghiệp giảm xuống.
69
- Bài đọc thêm:
TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ
Ở Việt Nam hiện nay, vay nợ của Nhà nƣớc thực hiện chủ yếu dƣới hình thức
phát hành trái phiếu chính phủ do Bộ Tài chính phát hành. Trái phiếu Chính phủ có
các hình thức sau đây:
Tín phiếu kho bạc: là loại trái phiếu ngắn hạn dƣới một năm, phát hành với
mục đích để bù đắp thiếu hụt tạm thời của Ngân sách Nhà nƣớc và tạo nên thêm
công cụ của thị trƣờng tiền tệ.
Trái phiếu kho bạc: là loại trái phiếu có thời hạn một năm trở lên, đƣợc phát
hành nhằm mục đích huy động vốn theo kế hoạch Ngân sách Nhà nƣớc hàng năm
đã đƣợc Quốc hội phê duyệt.
Trái phiếu đầu tư: là loại trái phiếu Chính phủ có thời hạn một năm trở lên,
bao gồm các loại nhƣ sau:
Trái phiếu huy động vốn cho từng công trình cụ thể thuộc diện ngân sách
đầu tƣ, theo kế hoạch đầu tƣ đã đƣợc Chính phủ phê duyệt nhƣng chƣa đƣợc bố trí
vốn ngân sách trong năm kế hoạch.
Trái phiếu huy động vốn cho quỹ hỗ trợ phát triển theo kế hoạch tín dụng
đầu tƣ phát triển hàng năm của chính phủ phê duyệt.
Công trái là loại trái phiếu đƣợc phát hành theo mục tiêu đặc biệt đƣợc quốc
hội phê duyệt.
Trái phiếu Chính phủ quốc tế: đƣợc phát hành ra thị trƣờng vốn quốc tế nhằm
huy động vốn của nƣớc ngoài.
(Nguồn: Nghị định 01/2000/NĐ-CP ngày 13/01/2000 của Chính phủ)
4. Tín dụng thuê mua
Tín dụng thuê mua là các quan hệ tín dụng nảy sinh giữa công ty tài chính với
những ngƣời sản xuất kinh doanh dƣới hình thức cho thuê tài chính. Có 3 hình thức tín
dụng thuê mua là:
Thuê vận hành hay gọi là thuê hoạt động là hình thức thuê ngắn hạn tài sản. Đặc
trƣng cho thuê vận hành là thời hạn cho thuê rất ngắn so với thời gian sử dụng của
TSCĐ; ngƣời cho thuê chịu trách nhiệm bảo dƣỡng và chịu những khoản rủi ro thiệt
hại về tài sản cho thuê; trong quá trình thuê, ngƣời thuê có quyền hủy ngang hợp đồng.
Khi hết hạn hợp đồng, ngƣời cho thuê là chủ sở hữu tài sản có thể bán tài sản đó hoặc
gia hạn hợp đồng cho thuê nếu khách hàng có nhu cầu. Chi phí thuê theo hình thức này
thƣờng cao nhƣng ngƣời đi thuê không chịu trách nhiệm bảo trì, bảo dƣỡng.
Thuê tài chính hay còn gọi là thuê vốn là hình thức thuê tài sản trung và dài hạn.
Theo hình thức này ngƣời cho thuê cam kết mua tài sản thiết bị theo yêu cầu của ngƣời
thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Ngƣời thuê sử dụng tài sản thuê
và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã đƣợc thỏa thuận và không đƣợc hủy
bỏ hợp đồng trƣớc thời hạn. Kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng: Bên thuê đƣợc
chuyển quyền sở hữu tài sản thuê hoặc đƣợc tiếp tục thuê theo sự thỏa thuận của hai
70
- bên; bên thuê đƣợc quyền ƣu tiên mua lại với giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế
của tài sản thuê tại thời điểm mua lại.
Bán và tái thuê là hình thức đặc biệt của phƣơng thức thuê tài chính. Đây là hình
thức thuê mua mà doanh nghiệp (ngƣời thuê) bán tài sản của chính họ cho ngƣời cho
thuê và đồng thời ngƣời bán thuê lại tài sản mà họ vừa bán trong khoảng thời gian nhất
định.
Các hình thức tín dụng thuê mua giúp doanh nghiệp có thể hiện đại hoá sản xuất,
theo kịp tốc độ phát triển của công nghệ mới trong khi nguồn vốn tự có còn hạn chế.
Tuy nhiên, so với tín dụng ngân hàng thì tín dụng thuê mua có phạm vi hoạt động hẹp
hơn. Mặt khác, chi phí mà ngƣời thuê phải chịu thƣờng rất cao.
5. Tín dụng quốc tế
Theo nghĩa hẹp, tín dụng quốc tế là quan hệ vay mƣợn sử dụng vốn lẫn nhau giữa
các nƣớc đƣợc thực hiện thông qua chính phủ, tổ chức nhà nƣớc, các tổ chức tài chính
quốc tế, ngân hàng, công ty, cá nhân…
Theo nghĩa rộng, tín dụng quốc tế bao gồm các quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau
giữa các nƣớc, không phụ thuộc vào khối lƣợng nhiều hay ít, thời gian dài hay ngắn,
đầu tƣ trực tiếp hay gián tiếp… Tuy nhiên bắt buộc phải có sự bù đắp hay hoàn trả trở
lại.
Tín dụng quốc tế phản ánh mối quan hệ kinh tế phát sinh giữa các chủ thể kinh tế
của một quốc gia với các chủ thể kinh tế của các quốc gia khác và các tổ chức quốc tế
khi cho vay và trả nợ tiền vay theo những nguyên tắc của tín dụng.
Đối tƣợng tín dụng quốc tế có thể là hàng hóa (dây chuyền sản xuất, thiết bị hàng
hóa), cũng có thể là tiền tệ.
Tín dụng quốc tế có khả năng đáp ứng đƣợc nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế -
xã hội khi mà nguồn vốn trong nƣớc còn hạn hẹp, giải quyết những khó khăn về tài
chính và những thiếu hụt trong cán cân thanh toán quốc tế, tạo điều kiện để mở rộng
đầu tƣ vốn ra nƣớc ngoài, khai thác tài nguyên của các nƣớc khác, thực hiện chuyển
giao những kỹ thuật công nghệ tiên tiến giữa các nƣớc với nhau, góp phần đẩy mạnh
phân công lao động quốc tế.
Tuy nhiên, nguồn vốn này thƣờng bị động do phụ thuộc bởi các yếu tố từ bên
ngoài. Ngoài những rủi ro tín dụng nói chung, tín dụng quốc tế còn bị ảnh hƣởng rủi ro
tỷ giá, các điều kiện về chính trị, ngoại giao quốc tế.
71
- Bài đọc thêm:
PHÁT HÀNH 1 TỶ USD TRÁI PHIẾU CHÍNH
PHỦ TRÊN THỊ TRƢỜNG QUỐC TẾ
Phát hành trái phiếu Chính Phủ (TPCP) ra thị trƣờng quốc tế là một kênh
huy động vốn hữu hiệu với nền kinh tế các nƣớc đang phát triển. Nguồn vốn huy
động đƣợc sẽ đáp ứng nhu cầu phát triển, đầu tƣ của Chính Phủ tuy nhiên, nếu
không quản lý và sử dụng hiệu quả sẽ gây ra những tác động đảo ngƣợc, tiêu cực
và ảnh hƣởng tới an ninh tài chính quốc gia cả theo lý thuyết lẫn thực tế Việt Nam
hiện nay.
Ngày 26/01/2010, Việt Nam đã phát hành thành công 1 tỷ USD trái phiếu
Chính Phủ thời hạn 10 năm trên thị trƣờng quốc tế với lợi tức 6,95%. Số tiền thu
đƣợc từ đợt phát hành 1 tỷ USD trái phiếu quốc tế này đƣợc tập trung vào các
mục tiêu: (i) hoàn trả vốn ngân sách Nhà Nƣớc, (ii) giao Bộ Kế hoạch&Đầu tƣ
phối hợp Bộ Tài chính lựa chọn dự án phù hợp (dự kiến cho các Tập đoàn Dầu
khí, Tổng công ty Hàng hải Việt Nam, Tổng công ty Sông Đà và Tổng Công ty
lắp máy Việt Nam đầu tƣ bổ sung các dự án lọc hóa dầu Dung Quất, dự án xây
dựng thủy điện Xê Ca Mản 3, nhà máy thủy điện Hủa Na và mua tàu vận tải
biển).
Trƣớc đó, vào tháng 10/2005, Việt Nam cũng đã hoàn thành đợt chào bán
trái phiếu quốc tế đầu tiên với giá trị phát hành là 750 triệu USD, thời hạn 10 năm
và lợi suất 7,125% sau đó cho Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam vay lại.
Phát hành trái phiếu Chính phủ trên thị trƣờng quốc tế là một trong ba cách
vay nợ nƣớc ngoài để bù đắp thâm hụt Ngân sách Nhà nƣớc. Việc phát hành
thành công trong 2 lần đầu bƣớc đầu sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam tiếp
cận thị trƣờng vốn quốc tế và tham gia trực tiếp vào thị trƣờng này trong tƣơng
lai. 1 tỷ USD thu về sẽ là một nguồn thu ngoại tệ bổ sung khi nguồn cung ngoại tệ
trong nƣớc đang tƣơng đối căng thẳng do khủng hoảng kinh tế trong và ngoài
nƣớc tác động đến xuất khẩu, kiều hối cũng nhƣ thu ngoại tệ từ du lịch.
Việc sử dụng nguồn vốn huy động đƣợc vào các dự án đầu tƣ từ cơ sở hạ
tầng là hợp lý, đặc biệt khi các dự án này sẽ góp phần đảm bảo an ninh năng
lƣợng quốc gia, giảm bớt sự phụ thuộc vào nhập khẩu dầu và đáp ứng nhu cầu
điện ngày càng tăng. Việc đầu tƣ mua tàu vận tải biển cũng là một khoản đầu tƣ
đúng chỗ khi đội tàu trong nƣớc (có tuổi tàu trung bình già và trọng tải thấp) chỉ
mới đáp ứng đƣợc hơn 20% nhu cầu, tuy nhiên, không bình luận nhiều về khía
cạnh này do kế hoạch giải ngân cụ thể chƣa đƣợc công bố.
(Nguồn: Theo Báo cáo CTCK Artex)
III. Tín dụng ngân hàng
1. Khái niệm và đặc điểm của tín dụng ngân hàng
1.1. Khái niệm
Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhƣợng quyền sử dụng vốn giữa ngân
hàng và khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định.
72
- Trong nền kinh tế thị trƣờng ngân hàng đóng vai trò là một tổ chức tài chính
trung gian, quan hệ tín dụng ngân hàng đƣợc thể hiện qua hai khâu:
Khâu huy động vốn. Ngân hàng là một chủ thể đi vay, huy động khai thác các
nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi chƣa đƣợc sử dụng để hình thành nên nguồn vốn cho vay.
Hoạt động này đƣợc thực hiện dƣới hình thức ngân hàng huy động tiền gửi từ các cá
nhân, doanh nghiệp, vay mƣợn qua các hợp đồng hoặc dƣới hình thức phát hành trái
phiếu, kỳ phiếu ngân hàng trên thị trƣờng...
Khâu cho vay. Trên cơ sở vốn huy động đƣợc, ngân hàng sẽ thực hiện phân phối
cho vay cấp tín dụng lại cho các chủ thể có nhu cầu về vốn trong nền kinh tế. Đối
tƣợng cho vay chủ yếu là các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế với mục đích sử dụng
vốn tín dụng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.2. Đặc điểm
Ngoài đặc điểm chung, của tín dụng, tín dụng ngân hàng còn có những đặc điểm
riêng sau:
Về hình thức biểu hiện
Hoạt động của tín dụng ngân hàng đƣợc thực hiện dƣới hình thái tiền tệ gồm tiền
mặt và bút tệ. Do đặc tính về lĩnh vực ngành nghề kinh doanh, để tập trung đƣợc lƣợng
vốn lớn từ nhiều chủ thể, cũng nhƣ phân phối đáp ứng nhu cầu về vốn cho các chủ thể
kịp thời và đầy đủ, ngân hàng vận dụng dƣới hình thái tiền tệ cho hoạt động kinh
doanh của mình.
Về vai trò trong quan hệ tín dụng ngân hàng
Ngân hàng thƣơng mại, các tổ chức tín dụng đóng vai trò là chủ thể trung tâm.
Ngân hàng vừa thực hiện vai trò là chủ thể đi vay trong khâu huy động vốn, vừa thực
hiện vai trò là chủ thể cho vay trong khâu phân phối vay.
Về quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng không hoàn toàn
phù hợp với quy mô phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa
Xuất phát từ đặc điểm tín dụng ngân hàng đƣợc cấp dƣới hình thái tiền tệ, giá trị
của món tín dụng có thể không đồng nhất với giá trị mở rộng quy mô sản xuất kinh
doanh trong từng giai đoạn phát triển kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trƣờng tín dụng ngân hàng trở thành loại hình tín dụng phổ
biến, đáp ứng mọi nhu cầu bổ sung vốn của nền kinh tế; tín dụng ngân hàng không chỉ
đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vật tƣ hàng hóa, trang trải chi phí sản xuất,
thanh toán các khoản nợ mà còn tham gia cấp vốn đầu tƣ trung, dài hạn, đáp ứng các
nhu cầu về đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng, cải tiến đổi mới kỹ thuật, mua sắm TSCĐ...
Ngoài ra, tín dụng ngân hàng còn đáp ứng một phần nhu cầu tiêu dùng cá nhân.
Tín dụng ngân hàng và tín dụng thƣơng mại có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ và
bổ sung cho nhau. Hoạt động của tín dụng thƣơng mại sẽ tạo cơ sở cho việc mở rộng
tín dụng ngân hàng thông qua nghiệp vụ chiết khấu, cầm cố hoặc tái chiết khấu. Đồng
thời hoạt động của tín dụng ngân hàng góp phần khắc phục những hạn chế của tín
dụng thƣơng mại, mở rộng cung cấp vốn cho các chủ thể kinh tế, tạo điều kiện cho tín
dụng thƣơng mại phát triển.
2. Phân loại tín dụng ngân hàng
2.1. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn tín dụng
2.1.1. Tín dụng phục vụ sản xuất lưu thông hàng hóa
73
- Tín dụng phục vụ sản xuất lƣu thông hàng hóa đƣợc cấp cho các chủ thể kinh
doanh nhằm hỗ trợ vốn để mở rộng hoạt động sản xuất và lƣu thông hàng hóa.
Ví dụ: Cho vay để phát triển công nghiệp và kinh doanh thƣơng mại đối với các
doanh nghiệp, cho vay để tăng cƣờng hoạt động sản xuất và phát triển nông nghiệp.
2.1.2. Tín dụng tiêu dùng
Tín dụng tiêu dùng là loại hình tín dụng đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng của các
cá nhân, hộ gia đình. Mục đích của loại tín dụng này là hỗ trợ cải thiện đời sống vật
chất, sinh hoạt cho các thành viên trong xã hội, kích thích tiêu dùng…Đồng thời, tín
dụng tiêu dùng cũng giúp cho doanh nghiệp tăng doanh số tiêu thụ, mở rộng thị
trƣờng, hƣớng đến tối đa hóa lợi nhuận kinh doanh. Tín dụng tiêu dùng ngày càng mở
rộng và phát triển cả về giá trị cũng nhƣ hình thức, cùng với tiến trình phát triển kinh
tế thị trƣờng.
Ví dụ: Tín dụng tiêu dùng thƣờng đƣợc dùng để mua sắm ô tô, xe máy, tủ lạnh,
máy giặt… cho cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng.
2.2. Căn cứ vào thời hạn tín dụng
Theo tiêu thức phân loại này, tín dụng ngân hàng bao gồm ba loại:
2.2.1. Tín dụng ngắn hạn
Tín dụng ngắn hạn có thời hạn dƣới 1 năm, thƣờng đáp ứng nhu cầu bổ sung vốn
lƣu động cho các doanh nghiệp hoặc phục vụ cho nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của dân
cƣ.
2.2.2. Tín dụng trung hạn
Tín dụng trung hạn có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Loại tín dụng này đƣợc sử
dụng để bổ sung vốn mua sắm TSCĐ, cải tiến đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng và
xây dựng các công trình có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
2.2.3. Tín dụng dài hạn
Tín dụng dài hạn là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Tín dụng dài hạn đƣợc
sử dụng để tài trợ vốn xây dựng cơ bản, đầu tƣ xây dựng các công trình có quy mô lớn,
kỹ thuật và công nghệ hiện đại có thời gian hoàn vốn dài.
2.3. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng
Theo tiêu thức này, tín dụng ngân hàng có thể đƣợc phân chia thành hai loại:
2.3.1. Cho vay không có bảo đảm
Cho vay không có bảo đảm là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố
hoặc bảo lãnh của ngƣời khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng vay vốn
để quyết định cho vay. Vì vậy loại hình tín dụng này còn có tên gọi là tín dụng tín
chấp.
Mặc dù không có tài sản hoặc hàng hóa trực tiếp làm đảm bảo nhƣng tín dụng tín
chấp có mức độ rủi ro thấp. Bởi lẽ, với tín dụng tín chấp khi cấp tín dụng ngƣời cho
vay đã kiểm soát rất chặt chẽ năng lực tài chính, hiệu quả của dự án cho vay, khả năng
hoàn trả vốn vay đúng hạn và những rủi ro tiềm tàng có thể xảy ra đối với bên đi vay.
2.3.2. Cho vay có bảo đảm
Cho vay có bảo đảm là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm cho tiền vay nhƣ
thế chấp, cầm cố, hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào khác.
2.4. Căn cứ vào phƣơng thức cho vay
74
- Theo tiêu thức này, tín dụng ngân hàng có thể chia thành hai loại:
2.4.1. Cho vay theo món vay
Cho vay theo món vay là loại tín dụng của ngân hàng, theo đó ngân hàng xem
xét, quyết định cho vay và khách hàng phải lập hồ sơ vay theo từng món vay. Phƣơng
thức cho vay này áp dụng đối với những khách hàng nào không có nhu cầu vay vốn
thƣờng xuyên và tốc độ quay vòng của vốn tƣơng đối chậm.
2.4.2. Cho vay theo hạn mức tín dụng7
Cho vay theo hạn mức tín dụng là loại tín dụng ngân hàng, theo đó ngân hàng
xem xét, quyết định cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng nhất định. Khách hàng
chỉ cần lập hồ sơ xin vay vào đầu kỳ kế hoạch còn trong kỳ, mỗi khi phát sinh nhu cầu
vay trong phạm vi hạn mức tín dụng đƣợc cấp, không cần phải lập hồ sơ mà chỉ cần
lập các chứng từ chứng minh nhu cầu vốn vay để ngân hàng xem xét phát tiền vay theo
hạn mức tín dụng đã ký trƣớc đó.
2.4.3. Cho vay theo hạn mức thấu chi8
Thấu chi là kỹ thuật cấp tín dụng cho khách hàng, theo đó ngân hàng cho phép
khách hàng chi vƣợt số dƣ trên tài khoản thanh toán của khách hàng để thực hiện các
giao dịch thanh toán kịp thời cho nhu cầu khách hàng. Để đƣợc vay theo hạn mức thấu
chi, khách hàng phải là những khách hàng quen biết, thƣờng xuyên giao dịch với ngân
hàng, tình hình tài chính tƣơng đối ổn định.
2.5. Căn cứ vào phƣơng thức hoàn trả nợ vay
Theo tiêu thức này, tín dụng ngân hàng có thể đƣợc phân chia thành các loại sau:
Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả nợ một lần khi đáo hạn;
cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả góp; cho vay trả nợ nhiều lần
nhƣng không có kỳ hạn nợ cụ thể mà tùy khả năng tài chính của mình ngƣời đi vay có
thể trả nợ vào bất cứ lúc nào.
3. Quy trình tín dụng cơ bản
3.1. Khái niệm quy trình tín dụng
Quy trình tín dụng là bảng tổng hợp mô tả các bƣớc đi cụ thể từ khi tiếp nhận nhu
cầu vay vốn của khách hàng cho đến khi ngân hàng ra quyết định cho vay, giải ngân
và thanh lý hợp đồng tín dụng.
Nhƣ vậy, quy trình tín dụng là một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn mang tính
chất liên hoàn, theo một trình tự nhất định, đồng thời có quan hệ chặt chẽ và gắn bó
với nhau.
Hầu hết các ngân hàng đều tự thiết kế cho mình một quy trình tín dụng cụ thể,
bao gồm nhiều bƣớc đi khác nhau với kết quả cụ thể của từng bƣớc đi.
3.2. Ý nghĩa của quy trình tín dụng
Việc thiết lập và không ngừng hoàn thiện qui trình tín dụng có ý nghĩa rất quan
trọng đối với họat động tín dụng của ngân hàng.
7
Hạn mức tín dụng là mức dƣ nợ vay tối đa đƣợc duy trì trong một thời hạn nhất định mà ngân hàng và khách
hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
8
Thấu chi là một trong những phƣơng thức cho vay mới đƣợc áp dụng ở Việt Nam từ năm 2002 theo quyết định
1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001.
75
- Về mặt hiệu quả, quy trình tín dụng hợp lý góp phần nâng cao chất lƣợng và
giảm thiểu rủi ro tín dụng.
Về mặt quản trị, quy trình tín dụng có tác dụng làm cơ sở cho việc phân định
trách nhiệm và quyền hạn của từng bộ phận liên quan trong hoạt động tín dụng, là cơ
sở cho việc thiết lập các hồ sơ và thủ tục vay vốn về mặt hành chính, và chỉ rõ mối
quan hệ giữa các bộ phận liên quan trong hoạt động tín dụng.
3.3. Nội dung quy trình tín dụng
Tùy theo đặc điểm tổ chức và quản trị, mỗi ngân hàng đều tự thiết kế và xây dựng
cho mình một qui trình tín dụng riêng. Giáo trình này chỉ trình bày các bƣớc cơ bản
của một qui trình tín dụng. Một bảng mô tả quy trình tín dụng có thể tóm tắt nhƣ sau:
3.3.1. Lập hồ sơ yêu cầu cấp tín dụng
Lập hồ sơ tín dụng là khâu căn bản đầu tiên của qui trình tín dụng và đƣợc thực
hiện ngay sau khi cán bộ tín dụng tiếp xúc với khách hàng có nhu cầu vay vốn. Đây là
khâu đặc biệt quan trọng vì nó giúp thu thập thông tin, tạo cơ sở để thực hiện các khâu
sau.
Tùy theo quan hệ khách hàng và ngân hàng, loại tín dụng yêu cầu và qui mô tín
dụng, cán bộ tín dụng hƣớng dẫn khách hàng lập hồ sơ với những thông tin yêu cầu
khác nhau. Nhìn chung, những thông tin mà khách hàng phải cung cấp có thể phân
thành 4 nhóm nhƣ sau:
- Những tài liệu chứng minh năng lực pháp lý của khách hàng.
- Những tài liệu chứng minh khả năng sử dụng và hoàn trả vốn tín dụng của
khách hàng.
- Những tài liệu liên quan đến bảo đảm tín dụng.
- Giấy đề nghị cấp tín dụng.
Nhiệm vụ chủ yếu là của nhân viên ngân hàng trong giai đoạn này là tiếp xúc,
thông báo điều kiện cấp tín dụng đối với từng khách hàng cụ thể với những mục đích
sử dụng vốn đã định. Nhân viên có trách nhiệm hƣớng dẫn cho khách hàng hoàn chỉnh
các thủ tục, giấy tờ. Thời gian thực hiện giai đoạn này chủ yếu phụ thuộc vào khách
hàng. Kết thúc giai đoạn này là hành vi tiếp nhận hồ sơ đề nghị cấp tín dụng. Tùy theo
thể thức cấp tín dụng mà nhân viên ngân hàng có thể trao giấy hẹn phỏng vấn, tham
quan cơ sở vật chất, thẩm định tài sản bảo đảm và thời gian thông báo kết quả.
3.3.2. Thẩm định tín dụng
Thẩm định tín dụng là phân tích khả năng hiện tại và tiềm (tàng) năng của khách
hàng về sử dụng vốn tín dụng, khả năng hoàn trả và khả năng thu hồi vốn vay cả gốc
lẫn lãi. Mục tiêu của thẩm định tín dụng là tìm kiếm những tình huống có thể gây ra
rủi ro cho ngân hàng, tiên lƣợng khả năng kiểm soát những rủi ro đó, tìm kiếm các
biện pháp phòng ngừa và hạn chế thiệt hại xảy ra. Mặt khác, thẩm định tín dụng còn
quan tâm đến việc kiểm tra tính chân thực hồ sơ vay vốn mà khách hàng cung cấp, từ
đó nhận định đƣợc thái độ trả nợ của khách hàng làm cơ sở quyết định cho vay.
3.3.3. Quyết định tín dụng
Quyết định tín dụng là quyết định cho vay hoặc từ chối đối với một hồ sơ vay
vốn của khách hàng. Đây là khâu cực kỳ quan trọng trong qui trình tín dụng vì nó ảnh
76
- hƣởng rất lớn đến các khâu sau và ảnh hƣởng đến uy tín và hiệu quả hoạt động tín
dụng của ngân hàng. Quyết định tín dụng thƣờng là khâu dễ mắc sai lầm nhất. Có hai
loại sai lầm cơ bản thƣờng xảy ra trong khâu này: (1) Quyết định chấp thuận cho vay
đối với một khách hàng không tốt; (2) Từ chối cho vay đối với một khách hàng tốt.
Cả hai loại sai lầm này đều dẫn đến thiệt hại đáng kể cho ngân hàng. Loại sai lầm
thứ nhất dễ dẫn đến thiệt hại do nợ quá hạn hoặc không thể thu hồi, tức là thiệt hại về
mặt tài chính. Loại sai lầm thứ hai thiệt hại về uy tín và mất cơ hội cho vay.
Nhằm hạn chế sai lầm, trong khâu quyết định tín dụng các ngân hàng thƣờng chú
trọng hai vấn đề: (1) Thu thập và xử lý thông tin một cách đầy đủ và chính xác làm cơ
sở để ra quyết định; (2) Trao quyền quyết định cho một hội đồng tín dụng hoặc những
ngƣời có năng lực phân tích và phán quyết .
Cơ sở để ra quyết định tín dụng. Cơ sở để ra quyết định tín dụng trƣớc hết dựa
vào thông tin thu thập và xử lý hồ sơ tín dụng, do giai đoạn trƣớc chuyển sang. Kế đến
dựa vào thông tin khác hoặc thông tin cập nhật hóa có liên quan, chẳng hạn nhƣ thông
tin cập nhật về tình hình thị trƣờng, chính sách tín dụng của ngân hàng Nhà nƣớc,
nguồn vốn cho vay của ngân hàng, kết quả thẩm định các hình thức đảm bảo nợ vay….
Quyền phán quyết tín dụng. Theo qui mô vốn vay lớn hay nhỏ quyền phán quyết
thƣờng đƣợc trao cho hội đồng tín dụng hay một cá nhân phụ trách. Hội đồng tín dụng
bao gồm những ngƣời có quyền hạn và trách nhiệm quan trọng trong ngân hàng,
thƣờng phán quyết những hồ sơ vay vốn có qui mô lớn trong khi quyền phán quyết có
qui mô nhỏ thƣờng đƣợc trao cho cá nhân phụ trách.
Sau khi ra quyết định tín dụng, kết quả có thể là chấp thuận hoặc từ chối cho vay,
tùy vào kết quả phân tích và thẩm định ở khâu trƣớc. Nếu chấp thuận cho vay, cán bộ
tín dụng sẽ hƣớng dẫn khách hàng ký kết hợp đồng tín dụng và làm tiếp các bƣớc tiếp
theo. Nếu từ chối cho vay ngân hàng sẽ có văn bản trả lời và giải thích lý do cho khách
hàng đƣợc rõ.
3.3.4. Giải ngân
Giải ngân là khâu tiếp theo sau khi hợp đồng tín dụng đã đƣợc ký kết. Giải ngân
là phát tiền cho khách hàng vay trên cơ sở mức tín dụng đã cam kết trong hợp đồng.
Tuy là khâu tiếp theo sau của quyết định tín dụng nhƣng giải ngân cũng là khâu quan
trọng vì nó có thể phát hiện và điều chỉnh kịp thời nếu có sai sót ở các khâu trƣớc.
Ngoài ra, cách thức giải ngân còn góp phần kiểm tra và kiểm soát xem vốn tín dụng có
đƣợc sử dụng đúng với mục đích cam kết hay không. Nguyên tắc giải ngân là luôn
luôn gắn liền vận động tiền tệ và vận động hàng hóa hoặc dịch vụ đối ứng nhằm đảm
bảo khả năng thu hồi nợ sau này. Tuy vậy, giải ngân luôn tuân theo nguyên tắc đảm
bảo thuận lợi tránh gây khó khăn và phiền hà cho khách hàng.
3.3.5. Giám sát, thu nợ và thanh lý hợp đồng tín dụng
Giám sát tín dụng là khâu khá quan trọng nhằm mục tiêu đảm bảo cho tiền vay
đƣợc sử dụng đúng mục đích đã cam kết, kiểm soát rủi ro tín dụng, phát hiện và chấn
chỉnh kịp thời những sai phạm có thể ảnh hƣởng đến khả năng thu hồi nợ sau này. Các
phƣơng pháp giám sát tín dụng có thể áp dụng bao gồm:
- Giám sát hoạt động tài khoản của khách hàng tại ngân hàng.
- Phân tích các báo cáo tài chính của khách hàng theo định kỳ.
- Giám sát khách hàng thông qua việc trả lãi định kỳ.
77
- - Viếng thăm và kiểm soát địa điểm hoạt động sản xất kinh doanh hoặc nơi cƣ
ngụ của khách hàng đứng tên vay vốn.
- Kiểm tra các hình thức đảm bảo tiền vay.
- Giám sát hoạt động khách hàng thông qua mối quan hệ với khách hàng khác.
- Giám sát khách hàng thông qua những thông tin thu thập khác.
Thu nợ là khâu ngân hàng tiến hành thu nợ khách hàng đúng nhƣ các điều khoản
đã cam kết trong hợp đồng tín dụng. Tùy theo tính chất khoản vay và tình hình tài
chính của khách hàng, hai bên có thể thỏa thuận và lựa chọn một trong những hình
thức thu nợ sau: thu nợ gốc và lãi khi một lần đáo hạn, thu nợ gốc một lần khi đáo hạn
và thu lãi theo định kỳ, thu nợ gốc và lãi theo nhiều kỳ hạn.
Nếu đến hạn trả nợ mà khách hàng không có khả năng chi trả thì ngân hàng có
thể xem xét cho gia hạn nợ hoặc chuyển sang nợ quá hạn để sau này có biện pháp xử
lý thích hợp nhằm thu hồi nợ.
Tái xét hợp đồng tín dụng thực chất là khâu tiến hành phân tích tín dụng trong
điều kiện khoản tín dụng đã đƣợc cấp nhằm mục tiêu đánh giá chất lƣợng tín dụng,
phát hiện rủi ro để có hƣớng xử lý kịp thời.
Thanh lý hợp đồng tín dụng. Nếu hết thời hạn của hợp đồng tín dụng và khách
hàng đã hoàn tất các nghĩa vụ trả nợ cả gốc lẫn lãi thì ngân hàng và khách hàng làm
thủ tục thanh lý hợp đồng tín dụng, giải chấp tài sản nếu có và lƣu hồ sơ vay vốn của
khách hàng vào kho lƣu trữ.
78
- Bảng 5.1: Bảng tóm tắt quy trình tín dụng
Các giai
Nguồn và nơi cung Nhiệm vụ của ngân Kết quả của mỗi giai
đoạn của
cấp thông tin hàng ở mỗi giai đoạn đoạn
quy trình
(1) (2) (3) (4)
Lập hồ sơ Khách hàng đi Tiếp xúc, phổ biến và Hoàn thành bộ hồ sơ
đề nghị vay cung cấp hƣớng dẫn khách để chuyển sang giai
cấp tín thông tin hàng lập hồ sơ vay đoạn sau.
dụng vốn.
Thẩm định Hồ sơ đề nghị vay Tổ chức thẩm định về Báo cáo kết quả thẩm
tín dụng từ giai đoạn trƣớc các mặt tài chính và định để chuyển sang
chuyển sang. phi tài chính do các bộ phận có thẩm
Các thông tin bổ cá nhân hoặc bộ phận quyền để quyết định
sung từ phỏng thẩm định thực hiện. cho vay.
vấn, hồ sơ lƣu
trữ,...
Quyết Các tài liệu và Quyết định cho vay Quyết định cho vay
định tín thông tin từ giai hoặc từ chối cho vay hoặc từ chối tuỳ theo
dụng đoạn trƣớc dựa vào kết quả phân kết quả thẩm định.
chuyển sang và tích. Tiến hành các thủ tục
báo cáo kết quả pháp lý nhƣ ký hợp
thẩm định. đồng tín dụng, hợp
Các thông tin bổ đồng công chứng, và
sung. các loại hợp đồng
khác.
Giải ngân Quyết định cho Thẩm định các chứng Chuyển tiền vào tài
vay và các hợp từ theo các điều kiện khoản tiền gởi của
đồng liên quan. của hợp đồng tín khách hàng hoặc
Các chứng từ làm dụng trƣớc khi phát chuyển trả cho nhà
cơ sở giải ngân. tiền vay. cung cấp theo yêu
cầu của khách hàng.
Giám sát, Các thông tin từ Phân tích hoạt động Báo cáo kết quả giám
thu nợ và nội bộ ngân hàng. tài khoản, báo cáo tài sát và đƣa ra các giải
thanh lý Các báo cáo tài chính, kiểm tra mục pháp xử lý.
hợp đồng chính theo định đích sử dụng vốn Lập các thủ tục để
tín dụng kỳ của khách vay. thanh lý tín dụng.
hàng. Tái xét và xếp hạng
Các thông tin tín dụng.
khác. Thanh lý hợp đồng
tín dụng.
4. Bảo đảm tín dụng9
Hoạt động tín dụng của ngân hàng một hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro. Mặc
dù, trƣớc khi quyết định cho vay, ngân hàng đã trải qua các khâu thu thập, xử lý, phân
9
Đảm bảo tín dụng hiện nay đƣợc thục hiện theo Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 Về đảm bảo tiền
vay của các tổ chức tín dụng và nghị định 86/2002/NĐ-CP ngày 25/10/2002 về sửa đổi, bổ sung Nghị định 178.
79
- tích và thẩm định kỹ khả năng trả nợ của khách hàng nhƣng vẫn chƣa thể loại bỏ đƣợc
rủi ro tín dụng. Do vậy, bảo đảm tiền vay có thể sử dụng nhƣ là một trong những cách
thức nhằm gia tăng khả năng thu hồi nợ và giảm thiểu rủi ro tín dụng.
4.1. Khái niệm bảo đảm tín dụng
Bảo đảm tín dụng hay còn gọi là bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp
dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi
đƣợc các khoản nợ đã cho khách hàng vay.
4.2. Ý nghĩa của bảo đảm tín dụng
Bất kỳ một khoản tín dụng nào cũng tiềm ẩn những rủi ro nhất định. Trong khi đó
ngân hàng kinh doanh chủ yếu dựa trên vốn của ngƣời khác, nếu một khoản vốn đã cho
vay nhƣng vì một lý do nào đó không thu hồi đƣợc nợ sẽ gây khó khăn cho ngân hàng
trong quá trình hoạt động, thậm chí có thể gây mất khả năng thanh toán dẫn đến phá
sản. Bên cạnh đó, sự tồn tại và phát triển của ngân hàng có tác động rất lớn đến sự phát
triển kinh tế xã hội vì tín dụng ngân hàng góp phần tài trợ, đầu tƣ cho các ngành. Vì
vậy, vấn đề an toàn trong công tác tín dụng đƣợc đặc biệt quan tâm nhằm nâng cao
chất lƣợng tín dụng. Do đó bảo đảm tín dụng có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc
phòng ngừa rủi ro tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển lành mạnh.
4.3. Các hình thức bảo đảm tín dụng
Bảo đảm tín dụng nói chung có thể thực hiện bằng nhiều cách, bao gồm bảo đảm
bằng tài sản thế chấp, bảo đảm bằng tài sản cầm cố, bảo đảm bằng tài sản hình thành
từ vốn vay và bảo đảm hình thức bảo lãnh của bên thứ 3.
4.3.1. Bảo đảm tín dụng bằng tài sản thế chấp
Bảo đảm tín dụng bằng tài sản thế chấp là việc bên đi vay sử dụng bất động sản
thuộc sở hữu của mình hoặc giá trị quyền sử dụng đất hợp pháp để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ đối với bên cho vay. Vấn đề thế chấp tài sản bị chi phối bởi Luật đất đai và
luật dân sự. Theo đó, có 2 loại thế chấp: Thế chấp bất động sản và thế chấp giá trị
quyền sử dụng đất.
Thế chấp bất động sản
Bất động sản là những tài sản không di dời đƣợc nhƣ nhà ở, cơ sở kinh doanh và
các tài sản khác gắn liền với nhà ở hoặc sơ sở sản xuất kinh doanh. Giá trị tài sản thế
chấp bao gồm giá trị tài sản kể cả hoa lợi, lợi tức và các trái quyền có đƣợc từ bất động
sản. Thế chấp bất động sản là việc bên đi vay sƣ̉ dụng bất động sản thuộc sở hƣ̃u của
mình hoặc giá trị quyền sử dụng đất hợp pháp để bảo đảm thực hiện nghĩa v ụ đối với
bên cho vay.
Tất cả các bất động sản thuộc sở hữu hợp pháp của cá nhân hay tổ chức đều có
thể sử dụng thế chấp vay vốn. Khi thế chấp hai bên, ngân hàng và khách hàng phải
thỏa thuận định giá tài sản thế chấp và ký hợp đồng thế chấp có chứng nhận của phòng
công chứng.
Thế chấp giá trị quyền sử dụng đất
Ở Việt Nam đất đai thuộc quyền sở hữu của toàn dân do Nhà nƣớc thống nhất
quản lý và thực hiện việc giao đất hoặc cho thuê đất đối với cá nhân, hộ gia đình, tổ
chức kinh tế, đơn vị vũ trang, cơ quan Nhà nƣớc, tổ chức chính trị, xã hội sử dụng ổn
định lâu dài. Trong các chủ thể đƣợc giao đất hoặc cho thuê đất nói trên chỉ có cá
80
- nhân, hộ gia đình và các tổ chức kinh tế mới có thể sử dụng quyền sử dụng đất đai làm
tài sản thể chấp vay vốn ngân hàng.
4.3.2. Bảo đảm tín dụng bằng tài sản cầm cố
Cầm cố tài sản là việc bên đi vay giao tài sản là các động sản thuộc sở hữu của
mình cho bên cho vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Động sản cầm cố có thể
là loại không cần đăng ký quyền sở hữu hoặc loại cần đăng ký quyền sở hữu (xe cộ,
phƣơng tiện vận chuyển…). Đối với loại tài sản không đăng ký quyền sở hữu, khi cầm
cố tài sản phải đƣợc giao nộp cho bên cho vay. Đối với tài sản có đăng ký sở hữu, khi
cầm cố hai bên có thể thỏa thuận để bên cầm cố giữ tài sản hoặc giao tài sản cầm cố
cho bên thứ ba giữ.
Ví dụ: Cầm cố tài sản hữu hình (xe cộ, máy móc, hàng hóa, tàu biển, máy
bay…); tiền trên tài khoản tiền gửi; giấy tờ có giá (cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu,
thƣơng phiếu); bảo đảm bằng hợp đồng nhận thầu; bảo đảm bằng các khoản phải thu;
quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp; lợi tức và quyền
phát sinh từ tài sản cầm cố...
4.3.3. Bảo đảm tín dụng bằng tài sản hình thành từ vốn vay
Tài sản hình thành từ vốn vay là tài sản của khách hàng mà giá trị tài sản đƣợc
tạo ra từ một phần hoặc toàn bộ khoản cho vay của ngân hàng.
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay là việc khách hàng dùng tài
sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chính khoản vay
đó đối với ngân hàng.
Đảm bảo tài sản hình thành từ vốn vay đƣợc áp dụng cho các trƣờng hợp sau:
- Trƣờng hợp Chính phủ, thủ tƣớng Chính phủ quyết định giao cho ngân hàng
cho vay đối với khách hàng và đối tƣợng vay.
- Ngân hàng cho vay trung hạn, dài hạn với các dự án đầu tƣ phát triển sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ, đời sống nếu khách hàng vay và tài sản hình thành từ vốn vay đáp
ứng đƣợc các điều kiện khách hàng vay có tín nhiệm, có khả năng tài chính để trả nợ,
có dự án đầu tƣ khả thi, có mức vốn tự có tham gia vào dự án và giá trị tài sản bảo đảm
tiền vay tối thiểu bằng 50% vốn đầu tƣ10.
4.3.4. Bảo đảm tín dụng bằng hình thức bảo lãnh
Bảo lãnh là việc bên thứ ba cam kết với bên cho vay (ngƣời nhận bảo lãnh) sẽ
thực hiện nghĩa vụ thay cho bên đi vay (ngƣời đƣợc bảo lãnh) nếu khi đến hạn mà
ngƣời đƣợc bảo lãnh không thể thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ.
Bảo lãnh có thể chia thành hai loại chính: bảo lãnh bằng tài sản và bảo lãnh bằng
tín chấp.
- Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba là việc bên thứ ba (gọi là bên bảo lãnh)
cam kết với bên cho vay về việc sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình để thực hiện
nghĩa vụ trả nợ thay cho bên đi vay, nếu đến hạn trả nợ mà bên đi vay không thực hiện
hoặc không thể thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ.
10
Nghị định 178/1999NĐ/CP ngày 29/12/1999 Về đảm bảo tiền vay của các tổ chức tín dụng.
81
- - Bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội là biện pháp bảo
đảm tiền vay trong trƣờng hợp cho vay không có đảm bảo bằng tài sản, theo đó tổ
chức đoàn thể chính trị - xã hội tại cơ sở bằng uy tín của mình bảo lãnh cho bên đi vay.
IV. Các công cụ thị trƣờng tín dụng
1. Cho vay đơn
Ngƣời đi vay đƣợc ngân hàng cho vay một số tiền nhất định gọi là vốn gốc và
phải cam kết khi đến hạn phải trả nợ cho ngân hàng đúng hạn cả vốn và lãi.
Ví dụ: Ngân hàng cho ông An vay 10.000.000 đồng, với lãi suất 10% năm, kỳ
hạn 1 năm. Khi đến hạn ông An phải trả ngân hàng cả vốn và lãi là:
10.000.000 đồng + 10.000.000 đồng x 10% = 11.000.000 đồng
2. Trái phiếu chiết khấu
Đây là loại tín dụng mà ngƣời đi vay phải trả lãi cho ngƣời cho vay trƣớc khi sử
dụng tiền vay. Hình thức này thƣờng đƣợc áp dụng trong nghiệp vụ chiết khấu thƣơng
phiếu của các ngân hàng thƣơng mại và trong nghiệp vụ phát hành trái phiếu chiết
khấu của Kho bạc nhà nƣớc.
Trong hai trƣờng hợp này, bên đi vay phải trả cho bên vay theo giá trị danh nghĩa
(mệnh giá) của thƣơng phiếu hay trái phiếu khi đến hạn nhƣng chỉ đƣợc nhận một số
tiền nhỏ hơn mệnh giá do ngƣời cho vay đã chiết khấu trƣớc khoản tiền lãi và phí hoa
hồng của thƣơng phiếu hay trái phiếu.
Khi thực hiện chiết khấu thƣơng phiếu hoặc trái phiếu, ngân hàng xác định số
tiền phát ra cho khách hàng nhƣ sau:
Số tiền chuyển Mệnh giá
cho ngƣời xin = thƣơng phiếu - Lãi chiết Hoa hồng
-
chiết khấu khấu phí
(trái phiếu)
Trong đó:
Hoa hồng phí = Mệnh giá thƣơng phiếu (trái phiếu) Tỷ lệ hoa hồng (%)
Mệnh giá Lãi suất Số ngày
thƣơng phiếu chiết khấu nhận chiết
(trái phiếu) (%/năm) khấu
Lãi chiết khấu =
365
Số ngày nhận chiết khấu tính từ ngày xin chiết khấu đến ngày đáo hạn (không
tính ngày xin chiết khấu và ngày đáo hạn).
Ví dụ: Ngày 20/11/2010 nhân viên tín dụng của Ngân hàng Á Châu nhận đƣợc từ
khách hàng thƣơng phiếu xin chiết khấu: Hối phiếu số 1234/10 ký phát hành vào ngày
15/10/2010 sẽ đến hạn thanh toán vào ngày 15/04/2011 có mệnh giá là 100.000 USD.
Yêu cầu:
Hãy xác định số tiền mà khách hàng sẽ nhận đƣợc khi chiết khấu hối phiếu trên.
Biết rằng Ngân hàng Á Châu áp dụng mức hoa hồng là 0,5% trên mệnh giá chứng từ
nhận chiết khấu, lãi suất chiết khấu là 6%/năm đối với USD.
82
- Lời giải:
Mệnh giá hối phiếu 100.000 USD
Thời hạn từ 20/11/2010-15/04/2011 145 ngày
Lãi chiết khấu (100.000 6% 145) : 365 2.383,562 USD
Hoa hồng phí 100.000 0,5% 500 USD
Số tiền khách hàng nhận đƣợc 100.000 - 2.383,562 - 500 97.116,44 USD
3. Trái phiếu Coupon
Hình thức trả lãi bằng phiếu lợi tức (coupon) do những ngƣời đi vay (các doanh
nghiệp, các ngân hàng, kho bạc nhà nƣớc) thực hiện khi họ bán ra loại trái phiếu
coupon (là loại trái phiếu trả bằng phiếu lợi tức).
Ngƣời mua trái phiếu coupon đƣợc trả nợ (vốn và lãi) làm nhiều lần, mỗi lần 6
tháng hay 1 năm và đƣợc thu hồi vốn gốc khi trái phiếu hết hạn lƣu hành. Trên tờ trái
phiếu coupon có ghi rõ ngày hết hạn trái phiếu, mệnh giá, tên và địa chỉ ngƣời phát
hành, lãi suất.
Ví dụ: Ông Bình mua trái phiếu kèm theo phiếu lợi tức có mệnh giá 10.000.000
đồng, thời hạn 10 năm, lãi suất 20% năm, 6 tháng trả lãi một lần. Ông Bình sẽ đƣợc
kho bạc nhà nƣớc trả nợ nhƣ sau:
Tiền lãi trái phiếu trong 1 năm: 10.000.000 đồng x 20% = 2.000.000 đồng,
Tiền lãi trái phiếu trong 10 năm: 2.000.000 đồng x 10 = 20.000.000 đồng
Trong suốt 10 năm, mỗi năm 2 lần, mỗi lần cắt một ô phiếu lợi tức (coupon) đã
in sẵn 1.000.000 đồng, đem đến kho bạc đổi lấy 1.000.000 đồng tiền mặt, liên tiếp 20
lần trong 10 năm khi cắt đến ô thứ 20 cũng là hết hạn của trái phiếu, ngƣời chủ trái
phiếu (ông Bình) sẽ trả lại trái phiếu cho kho bạc để thu hồi 10.000.000 đồng vốn gốc
của mình.
Ngƣời mua trái phiếu coupon (kèm theo phiếu lợi tức) cần chú ý: Tên tổ chức
phát hành trái phiếu, ngày hết hạn của trái phiếu, tiền lãi in trên mỗi ô của phiếu lợi
tức.
4. Cho vay hoàn trả cố định
Hình thức tín dụng này đòi hỏi ngƣời đi vay phải trả nợ dần (cả vốn và lãi) theo
định kỳ đều đặn (quý, 6 tháng, năm). Nhƣ vậy, khi đến hạn trả nợ không phải trả toàn
bộ vốn gốc nhƣ trong hình thức cho vay đơn, chỉ phải trả một lần vốn gốc và lãi.
Ví dụ: Gia đình nông dân ông Mƣời đƣợc ngân hàng Nông nghiệp và phát triển
nông thôn cho vay 20.000.000 đồng để cải tạo một vùng đất hoang thành vƣờn trồng
cây ăn quả, thời hạn 20 năm, lãi suất 10% năm. Nhƣ vậy:
Tiền lãi phải trả mỗi năm: 20.000.000 đồng x 10% = 2.000.000 đồng
Tiền lãi phải trả 20 năm: 2.000.000 đồng x 20 = 40.000.000 đồng
Tiền vốn và lãi phải trả 20 năm: 60.000.000 đồng.
Tiền vốn và lãi phải trả cho 1 năm:
60.000.000 : 20 = 3.000.000 đồng (250.000đ/tháng)
83
nguon tai.lieu . vn