Xem mẫu

  1. CHƢƠNG V. TÍN DỤNG Mục tiêu Chương này trình bày các vấn đề cơ bản về tín dụng và lãi suất, gồm: - Sự ra đời và phát triển của tín dụng, bản chất của tín dụng, các hình thức tín dụng. Trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến hình thức tín dụng ngân hàng và các công cụ của thị trường tín dụng. - Khái niệm lãi suất, phân loại lãi suất, phương pháp xác định lãi suất và các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất. I. Khái niệm, đặc điểm và bản chất của tín dụng 1. Sự ra đời và phát triển của tín dụng Sự phân công lao động xã hội và sự xuất hiện sở hữu tƣ nhân về tƣ liệu sản xuất là cơ sở ra đời của tín dụng. Khi có sự phân công lao động thì trao đổi hàng hoá với nhau là điều tất yếu. Tuy nhiên, việc mua bán hay trao đổi hàng hóa theo nghĩa thông thƣờng chỉ có thể thực hiện đƣợc khi ngƣời bán có hàng hoá và ngƣời mua có đủ lƣợng tiền tƣơng ứng về giá trị. Nếu điều kiện này không đƣợc thoả mãn thì những nhu cầu trao đổi mua bán nói trên sẽ chỉ thực hiện đƣợc khi có sự vay mƣợn lẫn nhau, nhằm khắc phục sự không ăn khớp trong quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Khi nào và ở đâu có những cơ sở cho hoạt động sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó quan hệ tín dụng sẽ đƣợc nảy sinh và phát triển. Xét về mặt cơ sở hình thành sự phân hóa xã hội thì của cải, tiền tệ có xu hƣớng tập trung vào một nhóm ngƣời, trong lúc đó một nhóm ngƣời khác có thu nhập thấp hoặc thu nhập không đáp ứng đủ cho nhu cầu tối thiểu của cuộc sống, đặc biệt khi gặp những biến cố bất thƣờng xảy ra. Trong điều kiện nhƣ vậy đòi hỏi sự ra đời của tín dụng để giải quyết mâu thuẫn nội tại của xã hội, thực hiện việc điều hòa nhu cầu tạm thời của cuộc sống. Nhƣ vậy, có thể kết luận: Cơ sở lý luận ra đời của tín dụng là sự ra đời và tồn tại của các quan hệ kinh tế tư hữu, gắn với diễn biến của quá trình phân công lao động xã hội, tín dụng góp phần thực hiện phân bổ điều tiết sử dụng nguồn lực của cải xã hội hiệu quả hơn. Để nghiên cứu về lịch sử phát triển của tín dụng, chúng ta nghiên cứu quan hệ tín dụng trong hai giai đoạn – hai mức độ phát triển của nền sản xuất hàng hoá. - Tín dụng thời kỳ tiền sản xuất hàng hoá Đây là thời kỳ chế độ phong kiến, phần lớn tƣ liệu sản xuất và các điều kiện lao động chủ yếu do giai cấp thống trị (địa chủ phong kiến, quý tộc, chủ tu viện nhà thờ…) nắm giữ. Trong khi đa số nông dân và thợ thủ công là những ngƣời lao động trực tiếp nhƣng không có tƣ liệu sản xuất hoặc không đủ những điều kiện lao động. Họ buộc phải trở thành những ngƣời làm thuê, chịu sự chi phối quá trình sản xuất và phân phối của giai cấp thống trị với thù lao, tiền công rẻ mạt. Trong bối cảnh đó, để có thể duy trì cuộc sống, những ngƣời dân nghèo phải vay thóc gạo, tiền bạc của tầng lớp địa chủ và quý tộc với mức lãi rất cao. Do đó, hoạt động cho vay trong thời kỳ này còn đƣợc gọi 64
  2. là “tín dụng nặng lãi”. Nguyên nhân là do việc tích lũy cho vay chỉ tập trung ở một số ít ngƣời dƣ thừa của cải, trong khi nhu cầu vay là rất lớn và cấp thiết. Thêm vào đó, xã hội chƣa phát triển, chƣa có những quy phạm ràng buộc đối với quan hệ tín dụng nên ngƣời có tiền cho vay tùy ý áp đặt lãi suất. Mức lãi suất trong thời kỳ này phổ biến ở mức từ 100% đến 150%, thậm chí có khi lên tới 200%. Chính vì vậy, những ngƣời vay tiền dù cố gắng làm việc bao nhiêu cũng không đủ trả nợ, nên họ phải trở thành ngƣời ở trừ nợ hoặc gán kết cả tài sản của mình cho chủ nợ. Tín dụng nặng lãi tác động đến nền kinh tế xã hội theo cả hai hƣớng: Một mặt, kìm hãm sự phát triển do mang tính chất đặc thù là tín dụng phi sản xuất. Điều này thể hiện quan điểm của giai cấp thống trị là duy trì tình trạng nghèo nàn lạc hậu để tiếp tục áp đặt sự thống trị và bóc lột nặng nề đối với ngƣời đi vay. Mặt khác, tín dụng nặng lãi góp phần tích lũy tập trung vốn trong tay một số ngƣời vốn đã thừa của cải cho vay và vô sản hoá những ngƣời đi vay. - Tín dụng trong điều kiện nền kinh tế thị trường Nền kinh tế thị trƣờng ra đời đồng nghĩa với sự phát triển mạnh mẽ của lực lƣợng sản xuất và trao đổi hàng hoá, với rất nhiều những đơn vị kinh tế - các doanh nghiệp hay các chủ thể kinh tế khác nhau. Những doanh nghiệp này không chỉ khác nhau bởi quyền sở hữu, lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà còn khác nhau về đặc điểm tuần hoàn và luân chuyển vốn. Do vậy mà luôn có sự không ăn khớp giữa các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh. Cụ thể là, tại một thời điểm bất kỳ, sẽ có một số doanh nghiệp tạm thời thừa vốn trong khi đó một số doanh nghiệp khác lại tạm thời thiếu vốn, cần có nhu cầu bổ sung vốn. Nhƣ vậy, nếu xét trên góc độ toàn nền kinh tế thì tại bất kỳ một thời điểm nào đó sẽ luôn xuất hiện hai loại nhu cầu sử dụng vốn khác nhau: cho vay và đi vay. Nhằm thoả mãn hai nhu cầu nói trên, quan hệ tín dụng đƣợc coi là phƣơng thức tối ƣu vì nó đảm bảo vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh tế và lợi ích của tất cả các bên tham gia. Nói cách khác, sự tồn tại và phát triển của tín dụng trong nền kinh tế thị trƣờng là tất yếu khách quan. Thực tế ở tất cả các nƣớc cho thấy trong điều kiện nền kinh tế thị trƣờng, tín dụng đƣợc vận dụng và phát triển dƣới nhiều hình thức khác nhau, bởi các chủ thể khác nhau và mang lại những ích lợi khác nhau tùy vào trình độ phát triển của mỗi quốc gia. 2. Khái niệm và đặc điểm của tín dụng 2.1. Khái niệm Tín dụng đã xuất hiện, phát triển và trở nên phổ biến từ rất lâu trong lịch sử. Tín dụng, theo tiếng Latinh gọi là creditium, tiếng Anh gọi là credit, có nghĩa tin tƣởng và tín nhiệm. Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam, tín dụng có nghĩa là sự vay mƣợn. Nếu nghiên cứu tín dụng dƣới góc độ quan hệ kinh tế ở tầm vi mô thì tín dụng là sự vay mƣợn giữa hai chủ thể kinh tế (giữa ngƣời đi vay và ngƣời cho vay), trên cơ sở thỏa thuận về thời hạn nợ, mức lãi cụ thể. Dƣới góc độ kinh tế vĩ mô thì tín dụng là sự vận động vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu. Để đi đến một khái niệm thống nhất về tín dụng, cần tìm hiểu thêm biểu hiện bên ngoài của tín dụng. Biểu hiện ra bên ngoài của tín dụng là sự vận động độc lập tƣơng đối của các luồng giá trị trong một kỳ hạn cụ thể nào đó. Quá trình vận động của tín dụng đƣợc biểu hiện qua sơ đồ sau: 65
  3. Cho vay (giá trị hàng hóa, tiền tệ) Ngƣời cho vay Ngƣời đi vay ( Ngƣời sở hữu vốn) ( Ngƣời sử dụng vốn) Hoàn trả vốn gốc và lãi (giá trị hàng hóa, tiền tệ) Hình 5.1: Quá trình vận động của tín dụng Ngƣời cho vay trên cơ sở tín nhiệm về ngƣời đi vay, đó là sự hoàn trả đúng hạn giá trị tín dụng (cả vốn gốc lẫn lãi) nên sẽ chuyển giao một lƣợng giá trị tín dụng cho ngƣời đi vay. Niềm tin ấy có thể đƣợc thực hiện trọn vẹn chỉ khi nào quá trình vận động ngƣợc chiều của một lƣợng giá trị tiền tệ từ ngƣời đi vay trở về ngƣời cho vay. Niềm tin sẽ không đƣợc thực hiện trọn vẹn hoặc không đƣợc thực hiện khi khoản vay không đƣợc hoàn trả hoặc hoàn trả sai hẹn. Từ đó có thể đƣa ra khái niệm tín dụng nhƣ sau: “Tín dụng là sự vận động đơn phương của giá trị từ người cho vay sang người đi vay và sẽ quay về với người cho vay (hoặc với người mà được người cho vay chỉ định) cả vốn và lãi trong một kỳ hạn xác định nào đó”3. Đã là sự vận động đơn phƣơng của giá trị, mặc nhiên đòi hỏi phải bắt nguồn từ sự tin tƣởng hoặc tín nhiệm lẫn nhau, và nếu chƣa đủ cơ sở để có đƣợc tín nhiệm đó, đòi hỏi phải kèm theo những điều kiện bắt buộc để có thể duy trì niềm tin đó. Niềm tin mà ngƣời cho vay đặt ở chính mình và ở ngƣời vay đó là sự hoàn trả đúng hạn của giá trị tín dụng. 2.2. Đặc điểm Tín dụng bao gồm những đặc điểm sau:  Có sự chuyển nhƣợng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang cho người sử dụng. Xét về mặt bản chất cũng là một hình thức của quan hệ mua bán nhƣng xảy ra đối với một loại hàng hoá đặc biệt đó là vốn. Nhƣ vậy, quan hệ tín dụng nhất thiết chỉ có ý nghĩa khi có sự chuyển dịch giữa các chủ sở hữu khác nhau.  Sự chuyển nhƣợng này có thời hạn.  Sự chuyển nhƣợng này có kèm theo chi phí. Nếu thiếu một trong ba đặc điểm trên thì không còn là quan hệ tín dụng hay quan hệ cho vay. Chẳng hạn, trong ba đặc điểm trên, nếu chúng ta bỏ bớt đặc điểm thứ ba thì quan hệ không còn là quan hệ cho vay mà chỉ là quan hệ cho mƣợn, vì không có chi phí nghĩa là không kèm theo lãi. Nếu thiếu cả đặc điểm thứ hai thì quan hệ cũng không phải là quan hệ cho vay hay quan hệ cho mƣợn mà là cho luôn. Còn nếu thiếu cả đặc điểm thứ nhất thì chẳng có quan hệ gì xảy ra cả, vì không có chuyển nhƣợng vốn có nghĩa là không xảy ra quan hệ giữa hai bên. 3. Bản chất của tín dụng Để hiểu rõ bản chất của tín dụng cần phải nghiên cứu mối liên hệ kinh tế trong quá trình hoạt động của tín dụng và mối liên quan của nó với quá trình tái sản xuất. 3 PGS.TS. Lê Văn Tề, Giáo trình Lý thuyết Tài chính – Tiền tệ, NXB Thống kê, 2006. 66
  4. Thực chất của tín dụng là một quan hệ kinh tế giữa ngƣời đi vay và ngƣời cho vay thông qua sự vận động giá trị vốn tín dụng, đƣợc biểu hiện dƣới hình thức tiền tệ hoặc hàng hóa. Quá trình vận động đó đƣợc thể hiện qua các giai đoạn sau: - Phân phối vốn tín dụng dưới hình thức cho vay Ở giai đoạn này, vốn tiền tệ hoặc giá trị vật tƣ hàng hoá đƣợc chuyển từ ngƣời cho vay sang ngƣời đi vay, nhƣ vậy khi cho vay, giá trị vốn tín dụng đƣợc chuyển sang ngƣời đi vay. Đây là đặc điểm cơ bản khác với việc mua bán hàng hoá thông thường vì trong quan hệ mua bán hàng hoá thì giá trị chỉ thay đổi hình thái tồn tại4. - Sử dụng vốn tín dụng Sau khi nhận đƣợc giá trị vốn tín dụng, ngƣời đi vay đƣợc quyền sử dụng giá trị đó để thoả mãn những mục đích nhất định. Tuy nhiên, ngƣời đi vay không có quyền sở hữu về giá trị đó, họ chỉ đƣợc sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định. Nghĩa là xuất hiện trong thực tế sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng: ngƣời cho vay có quyền sở hữu nhƣng không có quyền sử dụng và ngƣời đi vay, họ có quyền sử dụng nhƣng lại không có quyền sở hữu. Ví dụ: 1. Trong nền kinh tế kế hoạch tập trung, quan hệ giữa ngƣời cho vay và ngƣời đi vay là quan hệ điều hòa việc sử dụng vốn theo một kế hoạch do nhà nƣớc vạch sẵn. Nhƣ vậy, quan hệ tín dụng này mang tính chất hình thức chứ không thực sự thể hiện quan hệ cân nhắc giữa chi phí và hiệu quả. 2. Trong nền kinh tế thị trƣờng, quan hệ giữa ngƣời cho vay và ngƣời đi vay là quan hệ trao đổi và chuyển nhƣợng quyền sử dụng vốn trên cơ sở so sánh giữa lợi nhuận và chi phí nên quan hệ ở đây hình thành trên cơ sở có cân nhắc và tính toán cẩn thận giữa lợi ích thu đƣợc và chi phí sử dụng vốn. - Sự hoàn trả của tín dụng Đây là giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn của tín dụng. Sau khi vốn tín dụng đã hoàn thành một chu kỳ kinh doanh để trở về hình thái tiền tệ thì vốn tín dụng đƣợc ngƣời đi vay hoàn trả lại cho ngƣời cho vay. Nhƣ vậy hoàn trả của tín dụng là quá trình quay trở về của giá trị. Hình thái vật chất của sự hoàn trả là sự vận động dƣới hình thái hàng hoá hoặc giá trị, tuy nhiên sự vận động đó không phải với tƣ cách là phƣơng tiện lƣu thông, mà với tƣ cách một lƣợng giá trị đƣợc vận động. Chính vì sự hoàn trả luôn luôn đuợc bảo tồn về mặt giá trị và có phần tăng thêm dƣới hình thức lợi tức, ngay cả trong điều kiện lạm phát sự hoàn trả về mặt giá trị cũng phải đƣợc tôn trọng thông qua cơ chế điều tiết bằng lãi suất. Do đó, hoàn trả tín dụng là đặc trƣng thuộc về bản chất vận động của tín dụng5. II. Các hình thức tín dụng 4 Mác viết: “Đối với hàng hoá giản đơn, tức là hàng hoá với tƣ cách là hàng hoá thì ở trong một tay ngƣời mua và trong tay ngƣời bán, nó vẫn là một giá trị nhƣ thế chỉ dƣới hình thức khác nhau mà thôi. Ngƣời bán và ngƣời mua, cả hai đều có một giá trị nhƣ trƣớc, giá trị mà họ đã nhƣợng đi, ngƣời thứ nhất nhƣợng đi dƣới hình thái hàng hoá, ngƣời thứ hai nhƣợng đi dƣới hình thái tiền. Trong việc cho vay, chỉ có một bên nhận đƣợc giá trị, vì cũng chỉ một bên nhƣợng giá trị mà thôi” (Nguồn: Các Mác, Tư bản, quyển III, tập 2, NXB Sự Thật Hà Nội, 1978). 5 Mác viết: “Đem tiền cho vay với tƣ cách là một vật có đặc điểm là sẽ quay trở về điểm xuất phát của nó, mà vẫn giữ nguyên vẹn giá trị của nó và đồng thời lại lớn thêm trong quá trình vận động” (Nguồn: Các Mác, Tư bản, quyển III, tập 2, NXB Sự Thật Hà Nội, 1978). 67
  5. 1. Tín dụng thƣơng mại Tín dụng thƣơng mại là các quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa những ngƣời sản xuất kinh doanh, đƣợc thực hiện dƣới hình thức mua bán chịu hàng hoá. Quá trình vận động của tín dụng thƣơng mại đƣợc thể hiện qua các sơ đồ sau: (1) Hàng hóa Ngƣời bán chịu Ngƣời mua chịu (DN sản xuất KD (DN sản xuất KD hàng hóa) (2) Thƣơng phiếu hàng hóa) Hình 5.2: Quá trình vận động của tín dụng thƣơng mại Sơ đồ hình 5.2 cho thấy: Giai đoạn 1: Người bán chịu chuyển giao cho ngƣời mua quyền sử dụng vốn (hàng hoá) trong một thời gian nhất định. Giai đoạn 2: Đến thời hạn thanh toán, người mua chịu hoàn lại số vốn vay cho ngƣời bán dƣới hình thức thƣơng phiếu6. Tín dụng thƣơng mại xuất phát từ những đặc điểm tuần hoàn, luân chuyển vốn khác nhau trong những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bởi thƣờng xuyên có sự không ăn khớp giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Tại một thời điểm, trong khi một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hàng hoá muốn bán thì một số khác lại muốn mua hàng hoá đó nhƣng chƣa có tiền. Trong trƣờng hợp này, ngƣời sản xuất muốn tiêu thụ đƣợc sản phẩm thì có thể bán chịu cho ngƣời mua. Ngƣời bán chuyển giao cho ngƣời mua quyền sử dụng vốn (hàng hoá) tạm thời trong một thời gian nhất định. Chính việc gia hạn thanh toán đã làm xuất hiện quan hệ tín dụng thƣơng mại. Đến thời hạn hoàn trả, ngƣời mua hoàn lại số vốn vay cho ngƣời bán dƣới hình thức thanh toán. Trong trƣờng hợp này, lãi suất của tín dụng thƣơng mại đƣợc cộng trong giá cả hàng hóa và đƣợc xác định ngay tại thời điểm bán hàng. Tín dụng thƣơng mại góp phần đẩy nhanh tốc độ lƣu thông hàng hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế nhờ giảm chi phí giao dịch do không phải qua khâu trung gian mà qua quan hệ trực tiếp giữa ngƣời đi vay và ngƣời cho vay. Tuy nhiên, tín dụng thƣơng mại cũng bộc lộ những hạn chế nhất định nhƣ: Về quy mô, tín dụng thƣơng mại do các doanh nghiệp (ngƣời sản xuất kinh doanh hàng hóa) cung cấp và họ chỉ có thể cung cấp khối lƣợng tín dụng trong giới hạn khả năng vốn hàng hóa của mình. Về thời hạn cho vay, tín dụng thƣơng mại là tín dụng ngắn hạn nên không thể đáp ứng nhu cầu vay dài hạn. Về phạm vi, tín dụng thƣơng mại chỉ đƣợc thực hiện dƣới hình thức hàng hóa, vì vậy phạm vi hoạt động của nó chỉ giới hạn trong các doanh nghiệp có cung và cầu hàng hóa phù hợp nhau. 2. Tín dụng ngân hàng Tín dụng ngân hàng là các quan hệ vay mƣợn vốn tiền tệ phát sinh giữa các ngân hàng với các chủ thể trong nền kinh tế. Quá trình vận động của tín dụng ngân hàng đƣợc thể hiện qua sơ đồ sau: 6 Xem thêm bài đọc thêm về Thƣơng phiếu trang 45 của giáo trình. 68
  6. Các NGÂN HÀNG Các chủ thể Đi vay THƢƠNG MẠI Cho vay chủ thể kinh tế kinh tế Hình 5.3: Quá trình vận động của tín dụng ngân hàng Ngân hàng thƣơng mại đóng vai trò là trung gian tài chính trong quá trình đi vay và cho vay. Khác với tín dụng thƣơng mại (tín dụng đƣợc cung cấp dƣới hình thức hàng hóa), tín dụng ngân hàng đƣợc cung cấp dƣới hình thức tiền tệ, bao gồm tiền mặt và bút tệ, mà chủ yếu là bút tệ. Ngày nay, tín dụng ngân hàng chiếm vị trí chủ đạo trong nền kinh tế và là một hình thức tín dụng quan trọng nhất trong mọi hình thức tín dụng. 3. Tín dụng Nhà nƣớc Tín dụng Nhà nƣớc là quan hệ tín dụng giữa nhà nƣớc và các chủ thể trong và ngoài nƣớc. Trong quan hệ tín dụng này, Nhà nƣớc biểu hiện là ngƣời đi vay. Theo đó, Nhà nƣớc vay tiền của cá nhân, doanh nghiệp hay tổ chức nhằm huy động vốn bù đắp khoản thâm hụt ngân sách. Thông thƣờng Nhà nƣớc đi vay bằng cách phát hành chứng khoán Nhà nƣớc vào lƣu thông, kể cả trong nƣớc và nƣớc ngoài. Trong các loại chứng khoán Nhà nƣớc thì trái phiếu Chính phủ, trái phiếu của các địa phƣơng, trái phiếu công trình và trái phiếu quốc tế là những công cụ tài chính dài hạn; tín phiếu kho bạc là công cụ tài chính ngắn hạn. Tín dụng Nhà nƣớc có mức độ an toàn cao và các công cụ huy động vốn (tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc) có độ thanh khoản cao. Đối với Nhà nƣớc, loại hình tín dụng này không những có thể đáp ứng nhu cầu chi tiêu Ngân sách Nhà nƣớc, mà còn là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, góp phần kiểm soát lạm phát, điều hòa lƣu thông tiền tệ, thực hiện chính sách xã hội của Nhà nƣớc. Tuy nhiên, nếu mức độ huy động không hợp lý thì có thể dẫn đến tình trạng gây sức ép tăng lãi suất, khiến cho đầu tƣ của doanh nghiệp giảm xuống. 69
  7.  Bài đọc thêm: TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ Ở Việt Nam hiện nay, vay nợ của Nhà nƣớc thực hiện chủ yếu dƣới hình thức phát hành trái phiếu chính phủ do Bộ Tài chính phát hành. Trái phiếu Chính phủ có các hình thức sau đây:  Tín phiếu kho bạc: là loại trái phiếu ngắn hạn dƣới một năm, phát hành với mục đích để bù đắp thiếu hụt tạm thời của Ngân sách Nhà nƣớc và tạo nên thêm công cụ của thị trƣờng tiền tệ.  Trái phiếu kho bạc: là loại trái phiếu có thời hạn một năm trở lên, đƣợc phát hành nhằm mục đích huy động vốn theo kế hoạch Ngân sách Nhà nƣớc hàng năm đã đƣợc Quốc hội phê duyệt.  Trái phiếu đầu tư: là loại trái phiếu Chính phủ có thời hạn một năm trở lên, bao gồm các loại nhƣ sau:  Trái phiếu huy động vốn cho từng công trình cụ thể thuộc diện ngân sách đầu tƣ, theo kế hoạch đầu tƣ đã đƣợc Chính phủ phê duyệt nhƣng chƣa đƣợc bố trí vốn ngân sách trong năm kế hoạch.  Trái phiếu huy động vốn cho quỹ hỗ trợ phát triển theo kế hoạch tín dụng đầu tƣ phát triển hàng năm của chính phủ phê duyệt.  Công trái là loại trái phiếu đƣợc phát hành theo mục tiêu đặc biệt đƣợc quốc hội phê duyệt.  Trái phiếu Chính phủ quốc tế: đƣợc phát hành ra thị trƣờng vốn quốc tế nhằm huy động vốn của nƣớc ngoài. (Nguồn: Nghị định 01/2000/NĐ-CP ngày 13/01/2000 của Chính phủ) 4. Tín dụng thuê mua Tín dụng thuê mua là các quan hệ tín dụng nảy sinh giữa công ty tài chính với những ngƣời sản xuất kinh doanh dƣới hình thức cho thuê tài chính. Có 3 hình thức tín dụng thuê mua là: Thuê vận hành hay gọi là thuê hoạt động là hình thức thuê ngắn hạn tài sản. Đặc trƣng cho thuê vận hành là thời hạn cho thuê rất ngắn so với thời gian sử dụng của TSCĐ; ngƣời cho thuê chịu trách nhiệm bảo dƣỡng và chịu những khoản rủi ro thiệt hại về tài sản cho thuê; trong quá trình thuê, ngƣời thuê có quyền hủy ngang hợp đồng. Khi hết hạn hợp đồng, ngƣời cho thuê là chủ sở hữu tài sản có thể bán tài sản đó hoặc gia hạn hợp đồng cho thuê nếu khách hàng có nhu cầu. Chi phí thuê theo hình thức này thƣờng cao nhƣng ngƣời đi thuê không chịu trách nhiệm bảo trì, bảo dƣỡng. Thuê tài chính hay còn gọi là thuê vốn là hình thức thuê tài sản trung và dài hạn. Theo hình thức này ngƣời cho thuê cam kết mua tài sản thiết bị theo yêu cầu của ngƣời thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Ngƣời thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã đƣợc thỏa thuận và không đƣợc hủy bỏ hợp đồng trƣớc thời hạn. Kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng: Bên thuê đƣợc chuyển quyền sở hữu tài sản thuê hoặc đƣợc tiếp tục thuê theo sự thỏa thuận của hai 70
  8. bên; bên thuê đƣợc quyền ƣu tiên mua lại với giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê tại thời điểm mua lại. Bán và tái thuê là hình thức đặc biệt của phƣơng thức thuê tài chính. Đây là hình thức thuê mua mà doanh nghiệp (ngƣời thuê) bán tài sản của chính họ cho ngƣời cho thuê và đồng thời ngƣời bán thuê lại tài sản mà họ vừa bán trong khoảng thời gian nhất định. Các hình thức tín dụng thuê mua giúp doanh nghiệp có thể hiện đại hoá sản xuất, theo kịp tốc độ phát triển của công nghệ mới trong khi nguồn vốn tự có còn hạn chế. Tuy nhiên, so với tín dụng ngân hàng thì tín dụng thuê mua có phạm vi hoạt động hẹp hơn. Mặt khác, chi phí mà ngƣời thuê phải chịu thƣờng rất cao. 5. Tín dụng quốc tế Theo nghĩa hẹp, tín dụng quốc tế là quan hệ vay mƣợn sử dụng vốn lẫn nhau giữa các nƣớc đƣợc thực hiện thông qua chính phủ, tổ chức nhà nƣớc, các tổ chức tài chính quốc tế, ngân hàng, công ty, cá nhân… Theo nghĩa rộng, tín dụng quốc tế bao gồm các quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa các nƣớc, không phụ thuộc vào khối lƣợng nhiều hay ít, thời gian dài hay ngắn, đầu tƣ trực tiếp hay gián tiếp… Tuy nhiên bắt buộc phải có sự bù đắp hay hoàn trả trở lại. Tín dụng quốc tế phản ánh mối quan hệ kinh tế phát sinh giữa các chủ thể kinh tế của một quốc gia với các chủ thể kinh tế của các quốc gia khác và các tổ chức quốc tế khi cho vay và trả nợ tiền vay theo những nguyên tắc của tín dụng. Đối tƣợng tín dụng quốc tế có thể là hàng hóa (dây chuyền sản xuất, thiết bị hàng hóa), cũng có thể là tiền tệ. Tín dụng quốc tế có khả năng đáp ứng đƣợc nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế - xã hội khi mà nguồn vốn trong nƣớc còn hạn hẹp, giải quyết những khó khăn về tài chính và những thiếu hụt trong cán cân thanh toán quốc tế, tạo điều kiện để mở rộng đầu tƣ vốn ra nƣớc ngoài, khai thác tài nguyên của các nƣớc khác, thực hiện chuyển giao những kỹ thuật công nghệ tiên tiến giữa các nƣớc với nhau, góp phần đẩy mạnh phân công lao động quốc tế. Tuy nhiên, nguồn vốn này thƣờng bị động do phụ thuộc bởi các yếu tố từ bên ngoài. Ngoài những rủi ro tín dụng nói chung, tín dụng quốc tế còn bị ảnh hƣởng rủi ro tỷ giá, các điều kiện về chính trị, ngoại giao quốc tế. 71
  9.  Bài đọc thêm: PHÁT HÀNH 1 TỶ USD TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ TRÊN THỊ TRƢỜNG QUỐC TẾ Phát hành trái phiếu Chính Phủ (TPCP) ra thị trƣờng quốc tế là một kênh huy động vốn hữu hiệu với nền kinh tế các nƣớc đang phát triển. Nguồn vốn huy động đƣợc sẽ đáp ứng nhu cầu phát triển, đầu tƣ của Chính Phủ tuy nhiên, nếu không quản lý và sử dụng hiệu quả sẽ gây ra những tác động đảo ngƣợc, tiêu cực và ảnh hƣởng tới an ninh tài chính quốc gia cả theo lý thuyết lẫn thực tế Việt Nam hiện nay. Ngày 26/01/2010, Việt Nam đã phát hành thành công 1 tỷ USD trái phiếu Chính Phủ thời hạn 10 năm trên thị trƣờng quốc tế với lợi tức 6,95%. Số tiền thu đƣợc từ đợt phát hành 1 tỷ USD trái phiếu quốc tế này đƣợc tập trung vào các mục tiêu: (i) hoàn trả vốn ngân sách Nhà Nƣớc, (ii) giao Bộ Kế hoạch&Đầu tƣ phối hợp Bộ Tài chính lựa chọn dự án phù hợp (dự kiến cho các Tập đoàn Dầu khí, Tổng công ty Hàng hải Việt Nam, Tổng công ty Sông Đà và Tổng Công ty lắp máy Việt Nam đầu tƣ bổ sung các dự án lọc hóa dầu Dung Quất, dự án xây dựng thủy điện Xê Ca Mản 3, nhà máy thủy điện Hủa Na và mua tàu vận tải biển). Trƣớc đó, vào tháng 10/2005, Việt Nam cũng đã hoàn thành đợt chào bán trái phiếu quốc tế đầu tiên với giá trị phát hành là 750 triệu USD, thời hạn 10 năm và lợi suất 7,125% sau đó cho Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam vay lại. Phát hành trái phiếu Chính phủ trên thị trƣờng quốc tế là một trong ba cách vay nợ nƣớc ngoài để bù đắp thâm hụt Ngân sách Nhà nƣớc. Việc phát hành thành công trong 2 lần đầu bƣớc đầu sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam tiếp cận thị trƣờng vốn quốc tế và tham gia trực tiếp vào thị trƣờng này trong tƣơng lai. 1 tỷ USD thu về sẽ là một nguồn thu ngoại tệ bổ sung khi nguồn cung ngoại tệ trong nƣớc đang tƣơng đối căng thẳng do khủng hoảng kinh tế trong và ngoài nƣớc tác động đến xuất khẩu, kiều hối cũng nhƣ thu ngoại tệ từ du lịch. Việc sử dụng nguồn vốn huy động đƣợc vào các dự án đầu tƣ từ cơ sở hạ tầng là hợp lý, đặc biệt khi các dự án này sẽ góp phần đảm bảo an ninh năng lƣợng quốc gia, giảm bớt sự phụ thuộc vào nhập khẩu dầu và đáp ứng nhu cầu điện ngày càng tăng. Việc đầu tƣ mua tàu vận tải biển cũng là một khoản đầu tƣ đúng chỗ khi đội tàu trong nƣớc (có tuổi tàu trung bình già và trọng tải thấp) chỉ mới đáp ứng đƣợc hơn 20% nhu cầu, tuy nhiên, không bình luận nhiều về khía cạnh này do kế hoạch giải ngân cụ thể chƣa đƣợc công bố. (Nguồn: Theo Báo cáo CTCK Artex) III. Tín dụng ngân hàng 1. Khái niệm và đặc điểm của tín dụng ngân hàng 1.1. Khái niệm Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhƣợng quyền sử dụng vốn giữa ngân hàng và khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định. 72
  10. Trong nền kinh tế thị trƣờng ngân hàng đóng vai trò là một tổ chức tài chính trung gian, quan hệ tín dụng ngân hàng đƣợc thể hiện qua hai khâu: Khâu huy động vốn. Ngân hàng là một chủ thể đi vay, huy động khai thác các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi chƣa đƣợc sử dụng để hình thành nên nguồn vốn cho vay. Hoạt động này đƣợc thực hiện dƣới hình thức ngân hàng huy động tiền gửi từ các cá nhân, doanh nghiệp, vay mƣợn qua các hợp đồng hoặc dƣới hình thức phát hành trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng trên thị trƣờng... Khâu cho vay. Trên cơ sở vốn huy động đƣợc, ngân hàng sẽ thực hiện phân phối cho vay cấp tín dụng lại cho các chủ thể có nhu cầu về vốn trong nền kinh tế. Đối tƣợng cho vay chủ yếu là các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế với mục đích sử dụng vốn tín dụng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. 1.2. Đặc điểm Ngoài đặc điểm chung, của tín dụng, tín dụng ngân hàng còn có những đặc điểm riêng sau: Về hình thức biểu hiện Hoạt động của tín dụng ngân hàng đƣợc thực hiện dƣới hình thái tiền tệ gồm tiền mặt và bút tệ. Do đặc tính về lĩnh vực ngành nghề kinh doanh, để tập trung đƣợc lƣợng vốn lớn từ nhiều chủ thể, cũng nhƣ phân phối đáp ứng nhu cầu về vốn cho các chủ thể kịp thời và đầy đủ, ngân hàng vận dụng dƣới hình thái tiền tệ cho hoạt động kinh doanh của mình. Về vai trò trong quan hệ tín dụng ngân hàng Ngân hàng thƣơng mại, các tổ chức tín dụng đóng vai trò là chủ thể trung tâm. Ngân hàng vừa thực hiện vai trò là chủ thể đi vay trong khâu huy động vốn, vừa thực hiện vai trò là chủ thể cho vay trong khâu phân phối vay. Về quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng không hoàn toàn phù hợp với quy mô phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa Xuất phát từ đặc điểm tín dụng ngân hàng đƣợc cấp dƣới hình thái tiền tệ, giá trị của món tín dụng có thể không đồng nhất với giá trị mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh trong từng giai đoạn phát triển kinh tế. Trong nền kinh tế thị trƣờng tín dụng ngân hàng trở thành loại hình tín dụng phổ biến, đáp ứng mọi nhu cầu bổ sung vốn của nền kinh tế; tín dụng ngân hàng không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vật tƣ hàng hóa, trang trải chi phí sản xuất, thanh toán các khoản nợ mà còn tham gia cấp vốn đầu tƣ trung, dài hạn, đáp ứng các nhu cầu về đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng, cải tiến đổi mới kỹ thuật, mua sắm TSCĐ... Ngoài ra, tín dụng ngân hàng còn đáp ứng một phần nhu cầu tiêu dùng cá nhân. Tín dụng ngân hàng và tín dụng thƣơng mại có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ và bổ sung cho nhau. Hoạt động của tín dụng thƣơng mại sẽ tạo cơ sở cho việc mở rộng tín dụng ngân hàng thông qua nghiệp vụ chiết khấu, cầm cố hoặc tái chiết khấu. Đồng thời hoạt động của tín dụng ngân hàng góp phần khắc phục những hạn chế của tín dụng thƣơng mại, mở rộng cung cấp vốn cho các chủ thể kinh tế, tạo điều kiện cho tín dụng thƣơng mại phát triển. 2. Phân loại tín dụng ngân hàng 2.1. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn tín dụng 2.1.1. Tín dụng phục vụ sản xuất lưu thông hàng hóa 73
  11. Tín dụng phục vụ sản xuất lƣu thông hàng hóa đƣợc cấp cho các chủ thể kinh doanh nhằm hỗ trợ vốn để mở rộng hoạt động sản xuất và lƣu thông hàng hóa. Ví dụ: Cho vay để phát triển công nghiệp và kinh doanh thƣơng mại đối với các doanh nghiệp, cho vay để tăng cƣờng hoạt động sản xuất và phát triển nông nghiệp. 2.1.2. Tín dụng tiêu dùng Tín dụng tiêu dùng là loại hình tín dụng đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng của các cá nhân, hộ gia đình. Mục đích của loại tín dụng này là hỗ trợ cải thiện đời sống vật chất, sinh hoạt cho các thành viên trong xã hội, kích thích tiêu dùng…Đồng thời, tín dụng tiêu dùng cũng giúp cho doanh nghiệp tăng doanh số tiêu thụ, mở rộng thị trƣờng, hƣớng đến tối đa hóa lợi nhuận kinh doanh. Tín dụng tiêu dùng ngày càng mở rộng và phát triển cả về giá trị cũng nhƣ hình thức, cùng với tiến trình phát triển kinh tế thị trƣờng. Ví dụ: Tín dụng tiêu dùng thƣờng đƣợc dùng để mua sắm ô tô, xe máy, tủ lạnh, máy giặt… cho cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. 2.2. Căn cứ vào thời hạn tín dụng Theo tiêu thức phân loại này, tín dụng ngân hàng bao gồm ba loại: 2.2.1. Tín dụng ngắn hạn Tín dụng ngắn hạn có thời hạn dƣới 1 năm, thƣờng đáp ứng nhu cầu bổ sung vốn lƣu động cho các doanh nghiệp hoặc phục vụ cho nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của dân cƣ. 2.2.2. Tín dụng trung hạn Tín dụng trung hạn có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Loại tín dụng này đƣợc sử dụng để bổ sung vốn mua sắm TSCĐ, cải tiến đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng và xây dựng các công trình có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. 2.2.3. Tín dụng dài hạn Tín dụng dài hạn là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Tín dụng dài hạn đƣợc sử dụng để tài trợ vốn xây dựng cơ bản, đầu tƣ xây dựng các công trình có quy mô lớn, kỹ thuật và công nghệ hiện đại có thời gian hoàn vốn dài. 2.3. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng Theo tiêu thức này, tín dụng ngân hàng có thể đƣợc phân chia thành hai loại: 2.3.1. Cho vay không có bảo đảm Cho vay không có bảo đảm là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của ngƣời khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng vay vốn để quyết định cho vay. Vì vậy loại hình tín dụng này còn có tên gọi là tín dụng tín chấp. Mặc dù không có tài sản hoặc hàng hóa trực tiếp làm đảm bảo nhƣng tín dụng tín chấp có mức độ rủi ro thấp. Bởi lẽ, với tín dụng tín chấp khi cấp tín dụng ngƣời cho vay đã kiểm soát rất chặt chẽ năng lực tài chính, hiệu quả của dự án cho vay, khả năng hoàn trả vốn vay đúng hạn và những rủi ro tiềm tàng có thể xảy ra đối với bên đi vay. 2.3.2. Cho vay có bảo đảm Cho vay có bảo đảm là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm cho tiền vay nhƣ thế chấp, cầm cố, hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào khác. 2.4. Căn cứ vào phƣơng thức cho vay 74
  12. Theo tiêu thức này, tín dụng ngân hàng có thể chia thành hai loại: 2.4.1. Cho vay theo món vay Cho vay theo món vay là loại tín dụng của ngân hàng, theo đó ngân hàng xem xét, quyết định cho vay và khách hàng phải lập hồ sơ vay theo từng món vay. Phƣơng thức cho vay này áp dụng đối với những khách hàng nào không có nhu cầu vay vốn thƣờng xuyên và tốc độ quay vòng của vốn tƣơng đối chậm. 2.4.2. Cho vay theo hạn mức tín dụng7 Cho vay theo hạn mức tín dụng là loại tín dụng ngân hàng, theo đó ngân hàng xem xét, quyết định cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng nhất định. Khách hàng chỉ cần lập hồ sơ xin vay vào đầu kỳ kế hoạch còn trong kỳ, mỗi khi phát sinh nhu cầu vay trong phạm vi hạn mức tín dụng đƣợc cấp, không cần phải lập hồ sơ mà chỉ cần lập các chứng từ chứng minh nhu cầu vốn vay để ngân hàng xem xét phát tiền vay theo hạn mức tín dụng đã ký trƣớc đó. 2.4.3. Cho vay theo hạn mức thấu chi8 Thấu chi là kỹ thuật cấp tín dụng cho khách hàng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng chi vƣợt số dƣ trên tài khoản thanh toán của khách hàng để thực hiện các giao dịch thanh toán kịp thời cho nhu cầu khách hàng. Để đƣợc vay theo hạn mức thấu chi, khách hàng phải là những khách hàng quen biết, thƣờng xuyên giao dịch với ngân hàng, tình hình tài chính tƣơng đối ổn định. 2.5. Căn cứ vào phƣơng thức hoàn trả nợ vay Theo tiêu thức này, tín dụng ngân hàng có thể đƣợc phân chia thành các loại sau: Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả nợ một lần khi đáo hạn; cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả góp; cho vay trả nợ nhiều lần nhƣng không có kỳ hạn nợ cụ thể mà tùy khả năng tài chính của mình ngƣời đi vay có thể trả nợ vào bất cứ lúc nào. 3. Quy trình tín dụng cơ bản 3.1. Khái niệm quy trình tín dụng Quy trình tín dụng là bảng tổng hợp mô tả các bƣớc đi cụ thể từ khi tiếp nhận nhu cầu vay vốn của khách hàng cho đến khi ngân hàng ra quyết định cho vay, giải ngân và thanh lý hợp đồng tín dụng. Nhƣ vậy, quy trình tín dụng là một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn mang tính chất liên hoàn, theo một trình tự nhất định, đồng thời có quan hệ chặt chẽ và gắn bó với nhau. Hầu hết các ngân hàng đều tự thiết kế cho mình một quy trình tín dụng cụ thể, bao gồm nhiều bƣớc đi khác nhau với kết quả cụ thể của từng bƣớc đi. 3.2. Ý nghĩa của quy trình tín dụng Việc thiết lập và không ngừng hoàn thiện qui trình tín dụng có ý nghĩa rất quan trọng đối với họat động tín dụng của ngân hàng. 7 Hạn mức tín dụng là mức dƣ nợ vay tối đa đƣợc duy trì trong một thời hạn nhất định mà ngân hàng và khách hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. 8 Thấu chi là một trong những phƣơng thức cho vay mới đƣợc áp dụng ở Việt Nam từ năm 2002 theo quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001. 75
  13. Về mặt hiệu quả, quy trình tín dụng hợp lý góp phần nâng cao chất lƣợng và giảm thiểu rủi ro tín dụng. Về mặt quản trị, quy trình tín dụng có tác dụng làm cơ sở cho việc phân định trách nhiệm và quyền hạn của từng bộ phận liên quan trong hoạt động tín dụng, là cơ sở cho việc thiết lập các hồ sơ và thủ tục vay vốn về mặt hành chính, và chỉ rõ mối quan hệ giữa các bộ phận liên quan trong hoạt động tín dụng. 3.3. Nội dung quy trình tín dụng Tùy theo đặc điểm tổ chức và quản trị, mỗi ngân hàng đều tự thiết kế và xây dựng cho mình một qui trình tín dụng riêng. Giáo trình này chỉ trình bày các bƣớc cơ bản của một qui trình tín dụng. Một bảng mô tả quy trình tín dụng có thể tóm tắt nhƣ sau: 3.3.1. Lập hồ sơ yêu cầu cấp tín dụng Lập hồ sơ tín dụng là khâu căn bản đầu tiên của qui trình tín dụng và đƣợc thực hiện ngay sau khi cán bộ tín dụng tiếp xúc với khách hàng có nhu cầu vay vốn. Đây là khâu đặc biệt quan trọng vì nó giúp thu thập thông tin, tạo cơ sở để thực hiện các khâu sau. Tùy theo quan hệ khách hàng và ngân hàng, loại tín dụng yêu cầu và qui mô tín dụng, cán bộ tín dụng hƣớng dẫn khách hàng lập hồ sơ với những thông tin yêu cầu khác nhau. Nhìn chung, những thông tin mà khách hàng phải cung cấp có thể phân thành 4 nhóm nhƣ sau: - Những tài liệu chứng minh năng lực pháp lý của khách hàng. - Những tài liệu chứng minh khả năng sử dụng và hoàn trả vốn tín dụng của khách hàng. - Những tài liệu liên quan đến bảo đảm tín dụng. - Giấy đề nghị cấp tín dụng. Nhiệm vụ chủ yếu là của nhân viên ngân hàng trong giai đoạn này là tiếp xúc, thông báo điều kiện cấp tín dụng đối với từng khách hàng cụ thể với những mục đích sử dụng vốn đã định. Nhân viên có trách nhiệm hƣớng dẫn cho khách hàng hoàn chỉnh các thủ tục, giấy tờ. Thời gian thực hiện giai đoạn này chủ yếu phụ thuộc vào khách hàng. Kết thúc giai đoạn này là hành vi tiếp nhận hồ sơ đề nghị cấp tín dụng. Tùy theo thể thức cấp tín dụng mà nhân viên ngân hàng có thể trao giấy hẹn phỏng vấn, tham quan cơ sở vật chất, thẩm định tài sản bảo đảm và thời gian thông báo kết quả. 3.3.2. Thẩm định tín dụng Thẩm định tín dụng là phân tích khả năng hiện tại và tiềm (tàng) năng của khách hàng về sử dụng vốn tín dụng, khả năng hoàn trả và khả năng thu hồi vốn vay cả gốc lẫn lãi. Mục tiêu của thẩm định tín dụng là tìm kiếm những tình huống có thể gây ra rủi ro cho ngân hàng, tiên lƣợng khả năng kiểm soát những rủi ro đó, tìm kiếm các biện pháp phòng ngừa và hạn chế thiệt hại xảy ra. Mặt khác, thẩm định tín dụng còn quan tâm đến việc kiểm tra tính chân thực hồ sơ vay vốn mà khách hàng cung cấp, từ đó nhận định đƣợc thái độ trả nợ của khách hàng làm cơ sở quyết định cho vay. 3.3.3. Quyết định tín dụng Quyết định tín dụng là quyết định cho vay hoặc từ chối đối với một hồ sơ vay vốn của khách hàng. Đây là khâu cực kỳ quan trọng trong qui trình tín dụng vì nó ảnh 76
  14. hƣởng rất lớn đến các khâu sau và ảnh hƣởng đến uy tín và hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng. Quyết định tín dụng thƣờng là khâu dễ mắc sai lầm nhất. Có hai loại sai lầm cơ bản thƣờng xảy ra trong khâu này: (1) Quyết định chấp thuận cho vay đối với một khách hàng không tốt; (2) Từ chối cho vay đối với một khách hàng tốt. Cả hai loại sai lầm này đều dẫn đến thiệt hại đáng kể cho ngân hàng. Loại sai lầm thứ nhất dễ dẫn đến thiệt hại do nợ quá hạn hoặc không thể thu hồi, tức là thiệt hại về mặt tài chính. Loại sai lầm thứ hai thiệt hại về uy tín và mất cơ hội cho vay. Nhằm hạn chế sai lầm, trong khâu quyết định tín dụng các ngân hàng thƣờng chú trọng hai vấn đề: (1) Thu thập và xử lý thông tin một cách đầy đủ và chính xác làm cơ sở để ra quyết định; (2) Trao quyền quyết định cho một hội đồng tín dụng hoặc những ngƣời có năng lực phân tích và phán quyết . Cơ sở để ra quyết định tín dụng. Cơ sở để ra quyết định tín dụng trƣớc hết dựa vào thông tin thu thập và xử lý hồ sơ tín dụng, do giai đoạn trƣớc chuyển sang. Kế đến dựa vào thông tin khác hoặc thông tin cập nhật hóa có liên quan, chẳng hạn nhƣ thông tin cập nhật về tình hình thị trƣờng, chính sách tín dụng của ngân hàng Nhà nƣớc, nguồn vốn cho vay của ngân hàng, kết quả thẩm định các hình thức đảm bảo nợ vay…. Quyền phán quyết tín dụng. Theo qui mô vốn vay lớn hay nhỏ quyền phán quyết thƣờng đƣợc trao cho hội đồng tín dụng hay một cá nhân phụ trách. Hội đồng tín dụng bao gồm những ngƣời có quyền hạn và trách nhiệm quan trọng trong ngân hàng, thƣờng phán quyết những hồ sơ vay vốn có qui mô lớn trong khi quyền phán quyết có qui mô nhỏ thƣờng đƣợc trao cho cá nhân phụ trách. Sau khi ra quyết định tín dụng, kết quả có thể là chấp thuận hoặc từ chối cho vay, tùy vào kết quả phân tích và thẩm định ở khâu trƣớc. Nếu chấp thuận cho vay, cán bộ tín dụng sẽ hƣớng dẫn khách hàng ký kết hợp đồng tín dụng và làm tiếp các bƣớc tiếp theo. Nếu từ chối cho vay ngân hàng sẽ có văn bản trả lời và giải thích lý do cho khách hàng đƣợc rõ. 3.3.4. Giải ngân Giải ngân là khâu tiếp theo sau khi hợp đồng tín dụng đã đƣợc ký kết. Giải ngân là phát tiền cho khách hàng vay trên cơ sở mức tín dụng đã cam kết trong hợp đồng. Tuy là khâu tiếp theo sau của quyết định tín dụng nhƣng giải ngân cũng là khâu quan trọng vì nó có thể phát hiện và điều chỉnh kịp thời nếu có sai sót ở các khâu trƣớc. Ngoài ra, cách thức giải ngân còn góp phần kiểm tra và kiểm soát xem vốn tín dụng có đƣợc sử dụng đúng với mục đích cam kết hay không. Nguyên tắc giải ngân là luôn luôn gắn liền vận động tiền tệ và vận động hàng hóa hoặc dịch vụ đối ứng nhằm đảm bảo khả năng thu hồi nợ sau này. Tuy vậy, giải ngân luôn tuân theo nguyên tắc đảm bảo thuận lợi tránh gây khó khăn và phiền hà cho khách hàng. 3.3.5. Giám sát, thu nợ và thanh lý hợp đồng tín dụng Giám sát tín dụng là khâu khá quan trọng nhằm mục tiêu đảm bảo cho tiền vay đƣợc sử dụng đúng mục đích đã cam kết, kiểm soát rủi ro tín dụng, phát hiện và chấn chỉnh kịp thời những sai phạm có thể ảnh hƣởng đến khả năng thu hồi nợ sau này. Các phƣơng pháp giám sát tín dụng có thể áp dụng bao gồm: - Giám sát hoạt động tài khoản của khách hàng tại ngân hàng. - Phân tích các báo cáo tài chính của khách hàng theo định kỳ. - Giám sát khách hàng thông qua việc trả lãi định kỳ. 77
  15. - Viếng thăm và kiểm soát địa điểm hoạt động sản xất kinh doanh hoặc nơi cƣ ngụ của khách hàng đứng tên vay vốn. - Kiểm tra các hình thức đảm bảo tiền vay. - Giám sát hoạt động khách hàng thông qua mối quan hệ với khách hàng khác. - Giám sát khách hàng thông qua những thông tin thu thập khác. Thu nợ là khâu ngân hàng tiến hành thu nợ khách hàng đúng nhƣ các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng tín dụng. Tùy theo tính chất khoản vay và tình hình tài chính của khách hàng, hai bên có thể thỏa thuận và lựa chọn một trong những hình thức thu nợ sau: thu nợ gốc và lãi khi một lần đáo hạn, thu nợ gốc một lần khi đáo hạn và thu lãi theo định kỳ, thu nợ gốc và lãi theo nhiều kỳ hạn. Nếu đến hạn trả nợ mà khách hàng không có khả năng chi trả thì ngân hàng có thể xem xét cho gia hạn nợ hoặc chuyển sang nợ quá hạn để sau này có biện pháp xử lý thích hợp nhằm thu hồi nợ. Tái xét hợp đồng tín dụng thực chất là khâu tiến hành phân tích tín dụng trong điều kiện khoản tín dụng đã đƣợc cấp nhằm mục tiêu đánh giá chất lƣợng tín dụng, phát hiện rủi ro để có hƣớng xử lý kịp thời. Thanh lý hợp đồng tín dụng. Nếu hết thời hạn của hợp đồng tín dụng và khách hàng đã hoàn tất các nghĩa vụ trả nợ cả gốc lẫn lãi thì ngân hàng và khách hàng làm thủ tục thanh lý hợp đồng tín dụng, giải chấp tài sản nếu có và lƣu hồ sơ vay vốn của khách hàng vào kho lƣu trữ. 78
  16. Bảng 5.1: Bảng tóm tắt quy trình tín dụng Các giai Nguồn và nơi cung Nhiệm vụ của ngân Kết quả của mỗi giai đoạn của cấp thông tin hàng ở mỗi giai đoạn đoạn quy trình (1) (2) (3) (4) Lập hồ sơ  Khách hàng đi  Tiếp xúc, phổ biến và  Hoàn thành bộ hồ sơ đề nghị vay cung cấp hƣớng dẫn khách để chuyển sang giai cấp tín thông tin hàng lập hồ sơ vay đoạn sau. dụng vốn. Thẩm định  Hồ sơ đề nghị vay  Tổ chức thẩm định về  Báo cáo kết quả thẩm tín dụng từ giai đoạn trƣớc các mặt tài chính và định để chuyển sang chuyển sang. phi tài chính do các bộ phận có thẩm  Các thông tin bổ cá nhân hoặc bộ phận quyền để quyết định sung từ phỏng thẩm định thực hiện. cho vay. vấn, hồ sơ lƣu trữ,... Quyết  Các tài liệu và  Quyết định cho vay  Quyết định cho vay định tín thông tin từ giai hoặc từ chối cho vay hoặc từ chối tuỳ theo dụng đoạn trƣớc dựa vào kết quả phân kết quả thẩm định. chuyển sang và tích.  Tiến hành các thủ tục báo cáo kết quả pháp lý nhƣ ký hợp thẩm định. đồng tín dụng, hợp  Các thông tin bổ đồng công chứng, và sung. các loại hợp đồng khác. Giải ngân  Quyết định cho  Thẩm định các chứng  Chuyển tiền vào tài vay và các hợp từ theo các điều kiện khoản tiền gởi của đồng liên quan. của hợp đồng tín khách hàng hoặc  Các chứng từ làm dụng trƣớc khi phát chuyển trả cho nhà cơ sở giải ngân. tiền vay. cung cấp theo yêu cầu của khách hàng. Giám sát,  Các thông tin từ  Phân tích hoạt động  Báo cáo kết quả giám thu nợ và nội bộ ngân hàng. tài khoản, báo cáo tài sát và đƣa ra các giải thanh lý  Các báo cáo tài chính, kiểm tra mục pháp xử lý. hợp đồng chính theo định đích sử dụng vốn  Lập các thủ tục để tín dụng kỳ của khách vay. thanh lý tín dụng. hàng.  Tái xét và xếp hạng  Các thông tin tín dụng. khác.  Thanh lý hợp đồng tín dụng. 4. Bảo đảm tín dụng9 Hoạt động tín dụng của ngân hàng một hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro. Mặc dù, trƣớc khi quyết định cho vay, ngân hàng đã trải qua các khâu thu thập, xử lý, phân 9 Đảm bảo tín dụng hiện nay đƣợc thục hiện theo Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 Về đảm bảo tiền vay của các tổ chức tín dụng và nghị định 86/2002/NĐ-CP ngày 25/10/2002 về sửa đổi, bổ sung Nghị định 178. 79
  17. tích và thẩm định kỹ khả năng trả nợ của khách hàng nhƣng vẫn chƣa thể loại bỏ đƣợc rủi ro tín dụng. Do vậy, bảo đảm tiền vay có thể sử dụng nhƣ là một trong những cách thức nhằm gia tăng khả năng thu hồi nợ và giảm thiểu rủi ro tín dụng. 4.1. Khái niệm bảo đảm tín dụng Bảo đảm tín dụng hay còn gọi là bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi đƣợc các khoản nợ đã cho khách hàng vay. 4.2. Ý nghĩa của bảo đảm tín dụng Bất kỳ một khoản tín dụng nào cũng tiềm ẩn những rủi ro nhất định. Trong khi đó ngân hàng kinh doanh chủ yếu dựa trên vốn của ngƣời khác, nếu một khoản vốn đã cho vay nhƣng vì một lý do nào đó không thu hồi đƣợc nợ sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trong quá trình hoạt động, thậm chí có thể gây mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản. Bên cạnh đó, sự tồn tại và phát triển của ngân hàng có tác động rất lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội vì tín dụng ngân hàng góp phần tài trợ, đầu tƣ cho các ngành. Vì vậy, vấn đề an toàn trong công tác tín dụng đƣợc đặc biệt quan tâm nhằm nâng cao chất lƣợng tín dụng. Do đó bảo đảm tín dụng có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc phòng ngừa rủi ro tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển lành mạnh. 4.3. Các hình thức bảo đảm tín dụng Bảo đảm tín dụng nói chung có thể thực hiện bằng nhiều cách, bao gồm bảo đảm bằng tài sản thế chấp, bảo đảm bằng tài sản cầm cố, bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay và bảo đảm hình thức bảo lãnh của bên thứ 3. 4.3.1. Bảo đảm tín dụng bằng tài sản thế chấp Bảo đảm tín dụng bằng tài sản thế chấp là việc bên đi vay sử dụng bất động sản thuộc sở hữu của mình hoặc giá trị quyền sử dụng đất hợp pháp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên cho vay. Vấn đề thế chấp tài sản bị chi phối bởi Luật đất đai và luật dân sự. Theo đó, có 2 loại thế chấp: Thế chấp bất động sản và thế chấp giá trị quyền sử dụng đất. Thế chấp bất động sản Bất động sản là những tài sản không di dời đƣợc nhƣ nhà ở, cơ sở kinh doanh và các tài sản khác gắn liền với nhà ở hoặc sơ sở sản xuất kinh doanh. Giá trị tài sản thế chấp bao gồm giá trị tài sản kể cả hoa lợi, lợi tức và các trái quyền có đƣợc từ bất động sản. Thế chấp bất động sản là việc bên đi vay sƣ̉ dụng bất động sản thuộc sở hƣ̃u của mình hoặc giá trị quyền sử dụng đất hợp pháp để bảo đảm thực hiện nghĩa v ụ đối với bên cho vay. Tất cả các bất động sản thuộc sở hữu hợp pháp của cá nhân hay tổ chức đều có thể sử dụng thế chấp vay vốn. Khi thế chấp hai bên, ngân hàng và khách hàng phải thỏa thuận định giá tài sản thế chấp và ký hợp đồng thế chấp có chứng nhận của phòng công chứng. Thế chấp giá trị quyền sử dụng đất Ở Việt Nam đất đai thuộc quyền sở hữu của toàn dân do Nhà nƣớc thống nhất quản lý và thực hiện việc giao đất hoặc cho thuê đất đối với cá nhân, hộ gia đình, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang, cơ quan Nhà nƣớc, tổ chức chính trị, xã hội sử dụng ổn định lâu dài. Trong các chủ thể đƣợc giao đất hoặc cho thuê đất nói trên chỉ có cá 80
  18. nhân, hộ gia đình và các tổ chức kinh tế mới có thể sử dụng quyền sử dụng đất đai làm tài sản thể chấp vay vốn ngân hàng. 4.3.2. Bảo đảm tín dụng bằng tài sản cầm cố Cầm cố tài sản là việc bên đi vay giao tài sản là các động sản thuộc sở hữu của mình cho bên cho vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Động sản cầm cố có thể là loại không cần đăng ký quyền sở hữu hoặc loại cần đăng ký quyền sở hữu (xe cộ, phƣơng tiện vận chuyển…). Đối với loại tài sản không đăng ký quyền sở hữu, khi cầm cố tài sản phải đƣợc giao nộp cho bên cho vay. Đối với tài sản có đăng ký sở hữu, khi cầm cố hai bên có thể thỏa thuận để bên cầm cố giữ tài sản hoặc giao tài sản cầm cố cho bên thứ ba giữ. Ví dụ: Cầm cố tài sản hữu hình (xe cộ, máy móc, hàng hóa, tàu biển, máy bay…); tiền trên tài khoản tiền gửi; giấy tờ có giá (cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu, thƣơng phiếu); bảo đảm bằng hợp đồng nhận thầu; bảo đảm bằng các khoản phải thu; quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp; lợi tức và quyền phát sinh từ tài sản cầm cố... 4.3.3. Bảo đảm tín dụng bằng tài sản hình thành từ vốn vay Tài sản hình thành từ vốn vay là tài sản của khách hàng mà giá trị tài sản đƣợc tạo ra từ một phần hoặc toàn bộ khoản cho vay của ngân hàng. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay là việc khách hàng dùng tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chính khoản vay đó đối với ngân hàng. Đảm bảo tài sản hình thành từ vốn vay đƣợc áp dụng cho các trƣờng hợp sau: - Trƣờng hợp Chính phủ, thủ tƣớng Chính phủ quyết định giao cho ngân hàng cho vay đối với khách hàng và đối tƣợng vay. - Ngân hàng cho vay trung hạn, dài hạn với các dự án đầu tƣ phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống nếu khách hàng vay và tài sản hình thành từ vốn vay đáp ứng đƣợc các điều kiện khách hàng vay có tín nhiệm, có khả năng tài chính để trả nợ, có dự án đầu tƣ khả thi, có mức vốn tự có tham gia vào dự án và giá trị tài sản bảo đảm tiền vay tối thiểu bằng 50% vốn đầu tƣ10. 4.3.4. Bảo đảm tín dụng bằng hình thức bảo lãnh Bảo lãnh là việc bên thứ ba cam kết với bên cho vay (ngƣời nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên đi vay (ngƣời đƣợc bảo lãnh) nếu khi đến hạn mà ngƣời đƣợc bảo lãnh không thể thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ. Bảo lãnh có thể chia thành hai loại chính: bảo lãnh bằng tài sản và bảo lãnh bằng tín chấp. - Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba là việc bên thứ ba (gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên cho vay về việc sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bên đi vay, nếu đến hạn trả nợ mà bên đi vay không thực hiện hoặc không thể thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ. 10 Nghị định 178/1999NĐ/CP ngày 29/12/1999 Về đảm bảo tiền vay của các tổ chức tín dụng. 81
  19. - Bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội là biện pháp bảo đảm tiền vay trong trƣờng hợp cho vay không có đảm bảo bằng tài sản, theo đó tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội tại cơ sở bằng uy tín của mình bảo lãnh cho bên đi vay. IV. Các công cụ thị trƣờng tín dụng 1. Cho vay đơn Ngƣời đi vay đƣợc ngân hàng cho vay một số tiền nhất định gọi là vốn gốc và phải cam kết khi đến hạn phải trả nợ cho ngân hàng đúng hạn cả vốn và lãi. Ví dụ: Ngân hàng cho ông An vay 10.000.000 đồng, với lãi suất 10% năm, kỳ hạn 1 năm. Khi đến hạn ông An phải trả ngân hàng cả vốn và lãi là: 10.000.000 đồng + 10.000.000 đồng x 10% = 11.000.000 đồng 2. Trái phiếu chiết khấu Đây là loại tín dụng mà ngƣời đi vay phải trả lãi cho ngƣời cho vay trƣớc khi sử dụng tiền vay. Hình thức này thƣờng đƣợc áp dụng trong nghiệp vụ chiết khấu thƣơng phiếu của các ngân hàng thƣơng mại và trong nghiệp vụ phát hành trái phiếu chiết khấu của Kho bạc nhà nƣớc. Trong hai trƣờng hợp này, bên đi vay phải trả cho bên vay theo giá trị danh nghĩa (mệnh giá) của thƣơng phiếu hay trái phiếu khi đến hạn nhƣng chỉ đƣợc nhận một số tiền nhỏ hơn mệnh giá do ngƣời cho vay đã chiết khấu trƣớc khoản tiền lãi và phí hoa hồng của thƣơng phiếu hay trái phiếu. Khi thực hiện chiết khấu thƣơng phiếu hoặc trái phiếu, ngân hàng xác định số tiền phát ra cho khách hàng nhƣ sau: Số tiền chuyển Mệnh giá cho ngƣời xin = thƣơng phiếu - Lãi chiết Hoa hồng - chiết khấu khấu phí (trái phiếu) Trong đó: Hoa hồng phí = Mệnh giá thƣơng phiếu (trái phiếu)  Tỷ lệ hoa hồng (%) Mệnh giá Lãi suất Số ngày thƣơng phiếu  chiết khấu  nhận chiết (trái phiếu) (%/năm) khấu Lãi chiết khấu = 365 Số ngày nhận chiết khấu tính từ ngày xin chiết khấu đến ngày đáo hạn (không tính ngày xin chiết khấu và ngày đáo hạn). Ví dụ: Ngày 20/11/2010 nhân viên tín dụng của Ngân hàng Á Châu nhận đƣợc từ khách hàng thƣơng phiếu xin chiết khấu: Hối phiếu số 1234/10 ký phát hành vào ngày 15/10/2010 sẽ đến hạn thanh toán vào ngày 15/04/2011 có mệnh giá là 100.000 USD. Yêu cầu: Hãy xác định số tiền mà khách hàng sẽ nhận đƣợc khi chiết khấu hối phiếu trên. Biết rằng Ngân hàng Á Châu áp dụng mức hoa hồng là 0,5% trên mệnh giá chứng từ nhận chiết khấu, lãi suất chiết khấu là 6%/năm đối với USD. 82
  20. Lời giải: Mệnh giá hối phiếu 100.000 USD Thời hạn từ 20/11/2010-15/04/2011 145 ngày Lãi chiết khấu (100.000  6%  145) : 365 2.383,562 USD Hoa hồng phí 100.000  0,5% 500 USD Số tiền khách hàng nhận đƣợc 100.000 - 2.383,562 - 500 97.116,44 USD 3. Trái phiếu Coupon Hình thức trả lãi bằng phiếu lợi tức (coupon) do những ngƣời đi vay (các doanh nghiệp, các ngân hàng, kho bạc nhà nƣớc) thực hiện khi họ bán ra loại trái phiếu coupon (là loại trái phiếu trả bằng phiếu lợi tức). Ngƣời mua trái phiếu coupon đƣợc trả nợ (vốn và lãi) làm nhiều lần, mỗi lần 6 tháng hay 1 năm và đƣợc thu hồi vốn gốc khi trái phiếu hết hạn lƣu hành. Trên tờ trái phiếu coupon có ghi rõ ngày hết hạn trái phiếu, mệnh giá, tên và địa chỉ ngƣời phát hành, lãi suất. Ví dụ: Ông Bình mua trái phiếu kèm theo phiếu lợi tức có mệnh giá 10.000.000 đồng, thời hạn 10 năm, lãi suất 20% năm, 6 tháng trả lãi một lần. Ông Bình sẽ đƣợc kho bạc nhà nƣớc trả nợ nhƣ sau: Tiền lãi trái phiếu trong 1 năm: 10.000.000 đồng x 20% = 2.000.000 đồng, Tiền lãi trái phiếu trong 10 năm: 2.000.000 đồng x 10 = 20.000.000 đồng Trong suốt 10 năm, mỗi năm 2 lần, mỗi lần cắt một ô phiếu lợi tức (coupon) đã in sẵn 1.000.000 đồng, đem đến kho bạc đổi lấy 1.000.000 đồng tiền mặt, liên tiếp 20 lần trong 10 năm khi cắt đến ô thứ 20 cũng là hết hạn của trái phiếu, ngƣời chủ trái phiếu (ông Bình) sẽ trả lại trái phiếu cho kho bạc để thu hồi 10.000.000 đồng vốn gốc của mình. Ngƣời mua trái phiếu coupon (kèm theo phiếu lợi tức) cần chú ý: Tên tổ chức phát hành trái phiếu, ngày hết hạn của trái phiếu, tiền lãi in trên mỗi ô của phiếu lợi tức. 4. Cho vay hoàn trả cố định Hình thức tín dụng này đòi hỏi ngƣời đi vay phải trả nợ dần (cả vốn và lãi) theo định kỳ đều đặn (quý, 6 tháng, năm). Nhƣ vậy, khi đến hạn trả nợ không phải trả toàn bộ vốn gốc nhƣ trong hình thức cho vay đơn, chỉ phải trả một lần vốn gốc và lãi. Ví dụ: Gia đình nông dân ông Mƣời đƣợc ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn cho vay 20.000.000 đồng để cải tạo một vùng đất hoang thành vƣờn trồng cây ăn quả, thời hạn 20 năm, lãi suất 10% năm. Nhƣ vậy: Tiền lãi phải trả mỗi năm: 20.000.000 đồng x 10% = 2.000.000 đồng Tiền lãi phải trả 20 năm: 2.000.000 đồng x 20 = 40.000.000 đồng Tiền vốn và lãi phải trả 20 năm: 60.000.000 đồng. Tiền vốn và lãi phải trả cho 1 năm: 60.000.000 : 20 = 3.000.000 đồng (250.000đ/tháng) 83
nguon tai.lieu . vn