Xem mẫu

  1. Chương 5: QUẢN TRỊ NỢ VÀ TÀI SẢN NGẮN HẠN Mục tiêu của chương: Hiểu được các phương thức thanh toán trong thương mại quốc tế. Hiểu được các hình thức tài trợ thương mại. Hiểu được như thế nào là tài trợ ngắn hạn quốc tế. Biết được các tiêu chuẩn được xem xét trong quyết định tài trợ ngắn hạn. Hiểu các hình thức tài trợ ngắn hạn. Phân tích ưu nhược điểm của từng phương thức tài trợ để lựa chọn hình thức tài trợ nào là tối ưu cho công ty đa quốc gia. Thực hiện quyết định tài chính ngắn hạn, như quyết định tài trợ, quyết định đầu tư, quyết định phân phối nhằm tối đa hóa giá trị cho công ty đa quốc gia. Hiểu được quản trị tiền mặt quốc tế. Nội dung của chương: Gồm 3 phần: Tài trợ thương mại quốc tế. Tài trợ ngắn hạn. Quản trị tiền mặt quốc tế. 5.1. TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 5.1.1. Các phương thức thanh toán trong thương mại quốc tế Có rất nhiều phương thức thanh toán khác nhau trong thanh toán quốc tế. Dưới đây là một số phương thức thanh toán cơ bản thường được áp dụng trong mua bán ngoại thương: trả trước, thư tín dụng, hối phiếu, ủy thác và ghi sổ. 112
  2. 5.1.1.1. Trả trước Phương thức này người mua phải chuyển tiền thanh toán cho người bán, sau khi nhận được tiền thì người bán sẽ giao hàng. Đây là phương thức thanh toán mong muốn nhất của người bán vì họ không phải chịu sức ép về rủi ro phát sinh và có thể thu được tiền hàng ngay nếu sử dụng phương thức điện chuyển tiền. Tuy nhiên, phương thức này gây nhiều khó khăn về dòng tiền và tăng rủi ro cho người mua cho nên thông thường họ ít khi chấp nhận trả tiền trước khi nhận được hàng. Trong phương thức trả trước, nhà xuất khẩu chỉ chuyển hàng hóa cho nhà nhập khẩu khi nhận được tiền từ nhà nhập khẩu. Khoản thanh toán thường được sử dụng dưới hình thức một bức điện tín quốc tế chuyển giao đến tài khoản ngân hàng của nhà xuất khẩu. Ưu nhược điểm của phương thức thanh toán: + Đối với nhà xuất khẩu: Không phát sinh rủi ro trong quá trình bán hàng; luân chuyển vốn nhanh; giảm khả năng cạnh tranh trong môi trường kinh doanh có tính cạnh tranh cao. + Đối với nhà nhập khẩu: Rủi ro rất lớn trong quá trình mua hàng hóa; luân chuyển vốn chậm. 5.1.1.2. Thư tín dụng (L/C) Do phương thức trả tiền ngay mang lại nhiều rủi ro cho người mua (có thể người xuất khẩu không chuyển hàng ngay cả khi đã được thanh toán) nên trong hoạt động mua bán quốc tế, thư tín dụng được sử dụng phổ biến hơn nhằm bảo đảm lợi ích cho cả hai bên. Theo đó, việc thanh toán chỉ được ngân hàng chấp nhận sau khi người bán đã xuất trình đầy đủ bộ chứng từ. Xét về thời gian thực hiện, thư tín dụng có thể là trả ngay (at sight), hoặc trả sau. Thư tín dụng thường được chia thành các loại: thư tín dụng có thể hủy ngang hoặc không hủy ngang, thư tín dụng có xác nhận hoặc không có xác nhận. Thư tín dụng không hủy ngang (irrevocable L/C) là loại thư tín dụng mà trong thời hạn hiệu lực của nó, ngân hàng mở (tức ngân hàng của người mua) hoặc người mua không có quyền hủy bỏ hay sửa đổi nội dung 113
  3. thư tín dụng nếu không có sự đồng ý của người xuất khẩu (người bán). Thư tín dụng hủy ngang (revocable L/C) là loại thư tín dụng mà ngân hàng mở có thể sửa đổi hoặc hủy bỏ vào bất cứ lúc nào mà không cần sự chấp thuận của người bán. Trong thư tín dụng có xác nhận, ngân hàng cam kết trực tiếp trả tiền hàng cho người bán. Còn đối với thư tín dụng không xác nhận, người xuất khẩu có được thanh toán hay không phụ thuộc vào ngân hàng nước ngoài. Dưới đây là trình tự tiến hành thông thường khi thanh toán sử dụng phương thức thư tín dụng không hủy ngang có xác nhận (Confirmed Irre- vocable Letter of Credit) của một ngân hàng Mỹ: 1. Sau khi thống nhất về các điều kiện bán hàng và ký kết hợp đồng, người nhập khẩu làm đơn gửi đến ngân hàng của mình xin mở thư tín dụng cho người xuất khẩu hưởng. 2. Căn cứ vào đơn xin mở thư tín dụng, ngân hàng mở thư tín dụng sẽ lập một thư tín dụng không hủy ngang, bao gồm tất cả những chỉ dẫn cho người bán liên quan đến việc vận chuyển hàng. 3. Sau đó, ngân hàng mở thư tín dụng sẽ gửi thư tín dụng cho một ngân hàng ở Mỹ, yêu cầu ngân hàng này xác nhận. Ngân hàng Mỹ này có thể do người xuất khẩu chỉ định hoặc do ngân hàng mở L/C lựa chọn chi nhánh của mình tại Mỹ làm ngân hàng xác nhận. 4. Ngân hàng Mỹ sẽ gửi thư xác nhận cùng với thư tín dụng không hủy ngang cho người xuất khẩu. 5. Người xuất khẩu sau khi xem xét cẩn thận các điều khoản ghi trong thư tín dụng, sẽ ký hợp đồng vận tải đảm bảo hàng sẽ được chu- yển đến đúng thời hạn. Nếu người xuất khẩu không đồng ý với bất kỳ một điều kiện nào thì phải thông báo ngay cho người mua biết để kịp thời điều chỉnh. 6. Người xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao hàng đến đúng cảng hoặc sân bay quy định. 7. Khi hàng đã được xếp lên tàu/máy bay, người xuất khẩu phải có nghĩa vụ hoàn chỉnh bộ chứng từ gửi hàng theo yêu cầu của thư tín dụng. 114
  4. 8. Sau đó, người xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ đó cho ngân hàng Mỹ. 9. Ngân hàng kiểm tra chứng từ, nếu không có gì trục trặc sẽ thông báo kết quả kiểm tra cho ngân hàng người nhập khẩu. Ngân hàng này sau khi kiểm tra nếu thấy bộ chứng từ đã hoàn chỉnh thì gửi cho người nhập khẩu. 10. Người nhập khẩu (hoặc đại lý của họ) sẽ nhận những chứng từ cần thiết để tiến hành thủ tục nhập hàng. 11. Nếu có hối phiếu đi kèm với thư tín dụng thì hối phiếu đó sẽ được ngân hàng người xuất khẩu thanh toán vào thời gian đã thỏa thuận hoặc sẽ được chiết khấu trước đó. Ngay sau khi nhận được thư tín dụng, người xuất khẩu nên kiểm tra cẩn thận các điều khoản trong thư tín dụng với những nội dung được đề cập trong hóa đơn chiếu lệ. Điều này cực kỳ quan trọng vì các điều khoản cần phải phù hợp với nhau, nếu không thư tín dụng sẽ không có hiệu lực và người xuất khẩu sẽ không được thanh toán. Nếu các điều khoản không phù hợp hoặc có bất kỳ thông tin gì sai lệch, người xuất khẩu phải liên lạc ngay với khách hàng và yêu cầu họ điều chỉnh thư tín dụng cho phù hợp. Người xuất khẩu cũng phải xuất trình bộ chứng từ chứng minh đã giao hàng đúng thời hạn quy định trong thư tín dụng vì nếu không sẽ không được thanh toán tiền hàng. Người xuất khẩu nên kiểm tra, liên lạc với công ty vận tải để đảm bảo không có sự cố bất ngờ làm trì hoãn việc chuyển hàng. Ngoài ra, người xuất khẩu cũng phải xuất trình bộ chứng từ đúng thời hạn ghi trong L/C để làm thủ tục thanh toán. Ưu nhược điểm của phương thức thanh toán: + Đối với nhà xuất khẩu: Có phát sinh rủi ro trong quá trình bán hàng khi bộ chứng từ không đầy đủ; đảm bảo cạnh tranh trong môi trường kinh doanh có tính cạnh tranh cao. + Đối với nhà nhập khẩu: Hạn chế rủi ro trong quá trình mua hàng hóa. 115
  5. 5.1.1.3. Hối phiếu Hối phiếu là giấy đòi nợ vô điều kiện được lập bởi một bên, thường là nhà xuất khẩu, yêu cầu nhà nhập khẩu phải thanh toán một khoản tiền cụ thể ghi trên hối phiếu căn cứ trên việc xuất trình bộ chứng từ hàng hóa. Hối phiếu bảo vệ nhà xuất khẩu ít hơn so với tín dụng thư vì ngân hàng không có nghĩa vụ thanh toán nhân danh người mua. Hối phiếu có 3 chức năng chủ yếu sau: Hối phiếu là phương tiện thanh toán: Hối phiếu là phương tiện giúp người bán đòi tiền người mua và giúp người mua chuyển tiền trả nợ cho người bán. Hối phiếu là phương tiện đảm bảo: Hối phiếu là một chứng từ có giá, do đó nó có thể được mua bán, cầm cố, thế chấp, v.v. Hối phiếu là một phương tiện cung cấp tín dụng: Vì hối phiếu là một chứng từ có giá nên nó có thể là công cụ hữu hiệu trong việc cung ứng các khoản tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng. Ưu nhược điểm của phương thức thanh toán: + Đối với nhà xuất khẩu: Nhược điểm: Rủi ro trong quá trình bán hàng gia tăng khi tình hình tài chính của người mua suy giảm. Ưu điểm: Cạnh tranh tốt trong môi trường kinh doanh có tính cạnh tranh cao. + Đối với nhà nhập khẩu: Hạn chế rủi ro trong quá trình mua hàng hóa; bị động trong thanh toán so với các phương thức bán chịu. 5.1.1.4. Ủy thác Phương thức này nhà xuất khẩu gửi hàng hóa cho nhà nhập khẩu trong khi vẫn sở hữu hàng hóa đó. Nhà nhập khẩu nhận hàng hóa nhưng không phải trả tiền cho đến khi họ bán hàng này cho người thứ ba. Trong trường hợp này nhà xuất khẩu phải chịu mọi rủi ro, do đó phương thức này ít được sử dụng trong thanh toán, chỉ khi giữa các công 116
  6. ty có quan hệ trực thuộc. Ví dụ: Công ty mẹ giao hàng cho công ty con,… Ngoài ra, một số nhà cung cấp thiết bị cũng thường ký gửi hàng hóa của mình với mục đích giới thiệu sản phẩm, khi hàng mẫu được bán hoặc sau một kỳ cung cấp cụ thể thì tiền thanh toán được gửi đến nhà cung cấp. 5.1.1.5. Tài khoản mở, ghi sổ Người xuất khẩu mở một tài khoản để ghi nợ người nhập khẩu, yêu cầu người nhập khẩu trả tiền cho người xuất khẩu vào thời điểm xác định trong tương lai. Phương thức này chỉ thuận tiện và an toàn trong trường hợp hai bên thực sự tin cậy lẫn nhau, đã mua bán hàng nhiều lần và người mua có uy tín thanh toán. Tuy nhiên, sử dụng phương thức ghi sổ có rất nhiều rủi ro. Người xuất khẩu sẽ rất khó khiếu nại do không có sự tham gia của ngân hàng và các chứng từ của ngân hàng. Là người xuất khẩu, bạn có thể phải thu tiền hàng ở nước ngoài, mà việc này rất khó và tốn nhiều chi phí. Ngoài ra, việc theo dõi và xử lý các khoản phải thu gặp rất nhiều khó khăn do không sử dụng hối phiếu hay bất kỳ chứng từ ghi nợ nào. Bảng 5.1. So sánh các phương thức thanh toán Phương Thời gian HH giao Rủi ro đối với Rủi ro đối với nhà thức thanh toán cho NM nhà xuất khẩu nhập khẩu Trả trước Trước khi Sau khi Không Phụ thuộc hoàn toàn giao hàng thanh vào việc nhà XK gửi toán hàng theo đúng hợp đồng đã ký Thư tín Ngay sau Sau khi Rất ít, không phụ Bảo đảm HH được dụng khi giao thanh thuộc vào các giao nhưng phụ hàng toán điều khoản tín thuộc vào nhà XK thác có giao hàng như mô tả trong chứng từ HP trả Khi xuất Sau khi Nếu HP không Giống trường hợp ngay, trình HP cho thanh được thanh toán trên, trừ khi nhà NK chứng từ NM toán phải xử lý hàng kiểm tra HH trước đối thanh hóa khi thanh toán toán 117
  7. HP kỳ Khi đáo hạn Trước Phụ thuộc vào Giống trường hợp hạn, hối phiếu khi thanh việc người mua trên chứng từ toán thanh toán HP đối chấp nhận Ủy thác Thời điểm Trước Cho phép nhà NK Không cải thiện người MB khi thanh bán hàng trước dòng tiền cho người toán khi thanh toán mua Ghi sổ Theo thỏa Trước Phụ thuộc hoàn Không thuận khi thanh toàn vào việc NM toán thanh toán tiền ghi sổ theo thỏa thuận 5.1.2. Các hình thức tài trợ thương mại Tài trợ là một hình thức huy động vốn mà các công ty có thể sử dụng để tìm nguồn tài trợ phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của mình, sao cho nguồn tài trợ đó có chi phí thấp nhất có thể và rủi ro chấp nhận được. Các công ty có thể nghiên cứu các hình thức tài trợ sau đây để lựa chọn phương thức tài trợ phù hợp cho công ty của mình. 5.1.2.1. Tài trợ các khoản phải thu Tài trợ các khoản phải thu: Trong một vài trường hợp, nhà xuất khẩu có thể sẵn sàng xuất hàng hóa cho người nhập khẩu mà không cần có một sự bảo đảm thanh toán nào từ ngân hàng. Điều này sẽ dẫn đến một hình thức bán chịu hoặc hối phiếu trả chậm. Trước khi xuất hàng đi, nhà xuất khẩu nên tiến hành đánh giá rủi ro tín dụng của mình căn cứ trên khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu. Nếu nhà xuất khẩu sẵn lòng chờ cho việc thanh toán thì họ sẽ cho khách hàng nợ. Còn nếu người xuất khẩu cần tiền ngay thì họ có thể yêu cầu tài trợ từ ngân hàng. Trong nghiệp vụ được gọi là tài trợ các khoản phải thu - các ngân hàng cung cấp cho nhà xuất khẩu một khoản vay được đảm bảo bằng các khoản phải thu. Trong trường hợp người nhập khẩu không thể thanh toán do bất cứ một nguyên nhân nào thì người xuất khẩu đều phải có nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng. 118
  8. - Hình thức tài trợ các khoản phải thu còn chứa đựng nhiều rủi ro, chẳng hạn như các biện pháp hạn chế của Chính phủ hoặc việc kiểm soát ngoại hối có thể làm ngăn cản việc chi trả cho nhà xuất khẩu. Vì vậy, lãi suất của khoản nợ này thường cao hơn so với hình thức tài trợ các khoản phải thu trong nước. Thời hạn tài trợ thường là từ một đến sáu tháng. Để giảm thiểu rủi ro của các khoản phải thu nước ngoài, nhà xuất khẩu và ngân hàng thường yêu cầu bảo hiểm tín dụng xuất khẩu trước khi tiến hành tài trợ các khoản phải thu này. Ưu điểm: Phương thức này không đòi hỏi tài sản thế chấp trong quá trình vay vốn. Nhược điểm: Lãi suất sử dụng vốn thường cao hơn lãi suất cho vay thông thường vì ngân hàng có tính đến rủi ro không thu hồi được nợ. 5.1.2.2. Bao thanh toán tương đối - Bao thanh toán tương đối: Khi nhà xuất khẩu xuất hàng trước khi nhận thanh toán thì tài khoản các khoản phải thu sẽ gia tăng. Trừ khi người xuất khẩu vay nợ từ ngân hàng để tài trợ cho các giao dịch này, nếu không thì chính nhà xuất khẩu phải tài trợ cho giao dịch và phải theo dõi thu tiền có rủi ro là khách hàng sẽ không thực hiện chi trả nên người xuất khẩu sẽ xem xét bán khoản phải thu này cho một bên thứ ba, gọi là người bao thanh toán tương đối. Trong hình thức tài trợ này, người xuất khẩu bán các khoản phải thu miễn truy đòi. Khi đó, người nhận chuyển giao sẽ chịu mọi trách nhiệm bao gồm theo dõi việc thanh toán và phòng ngừa rủi ro tín dụng. Vì thế, người bao thanh toán tiến hành đánh giá khả năng chi trả của người nhập khẩu trước khi mua khoản phải thu. Để cung cấp dịch vụ này, người bao thanh toán thường mua lại các khoản phải thu với một mức chiết khấu và thu phí dịch vụ. - Hình thức tài trợ chuyển giao cung cấp cho các nhà xuất khẩu nhiều thuận lợi. Trước hết, bằng việc bán các khoản phải thu, nhà xuất khẩu không phải lo lắng đến việc theo dõi, giám sát tài khoản các khoản phải thu. Kế đến, người nhận chuyển giao gánh chịu các rủi ro tín dụng phát sinh từ phía nhà nhập khẩu, vì vậy người xuất khẩu không phải tự mình đánh giá khả năng thanh toán của khách hàng. Cuối cùng, việc bán khoản 119
  9. phải thu cho người nhận chuyển giao làm cho việc thanh toán được thực hiện tức thời và làm gia tăng dòng tiền của người xuất khẩu. - Vì theo quan điểm của người bao thanh toán, nhà nhập khẩu phải có khả năng thanh toán nên hệ thống bao thanh toán xuyên quốc gia thường được sử dụng. Nó bao gồm một mạng lưới những người nhận chuyển giao ở nhiều quốc gia khác nhau cùng gánh chịu những rủi ro tín dụng. Người nhận chuyển giao của nhà xuất khẩu sẽ tiếp xúc với người nhận chuyển giao của nhà nhập khẩu để đánh giá khả năng thanh toán của người nhập khẩu và để thu các khoản nợ. Dịch vụ tài trợ chuyển giao được cung cấp rộng rãi bởi các chi nhánh của ngân hàng thương mại, các công ty tài chính hoặc các tổ chức tài chính chuyên biệt khác. Người nhận chuyển giao thường tận dụng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu để giảm thiểu rủi ro của các khoản phải thu nước ngoài. Ưu điểm: Phương thức này không đòi hỏi tài sản thế chấp trong quá trình vay vốn. Nhược điểm: Chi phí phải trả cho nguồn tài trợ là rất lớn. 5.1.2.3. Tín dụng thư Tín dụng thư (L/C): Là một trong những hình thức tài trợ thương mại cổ điển nhất còn tồn tại đến ngày nay. Bởi vì những lợi ích và an toàn mà nó mang đến cho cả người xuất khẩu lẫn người nhập khẩu nên nó là một yếu tố quan trọng trong nhiều giao dịch mậu dịch quốc tế. Thư tín dụng là hình thức thanh toán mà theo đó ngân hàng thay mặt cho một bên thực hiện việc chi trả cho bên thụ hưởng nhất định với những điều kiện xác định. Người thụ hưởng (người xuất khẩu) được chi trả dựa trên việc xuất trình các loại chứng từ phù hợp với những điều khoản trong L/C. Quá trình thiết lập L/C thường gồm 2 ngân hàng, ngân hàng của nhà xuất khẩu và ngân hàng của nhà nhập khẩu. Ngân hàng phát hành thư tín dụng được gọi là ngân hàng phát hành. Ngân hàng ở nước người thụ hưởng mà ngân hàng phát hành gửi L/C đến được gọi là ngân hàng tư vấn. Ngân hàng phát hành sẽ thay mặt cho người nhập khẩu thực hiện nghĩa vụ tín dụng. Nó cần phải đảm bảo việc thanh toán cho người xuất khẩu và thông báo đến người xuất khẩu những điều khoản và điều kiện của L/C. 120
  10. Thỉnh thoảng người xuất khẩu không bằng lòng với lời hứa thanh toán của ngân hàng phát hành vì ngân hàng nằm ở nước ngoài. Vì vậy, nhà xuất khẩu sẽ quan tâm đến việc Chính phủ của nước ngoài có áp dụng các biện pháp hạn chế hoặc kiểm soát ngoại hối làm ngăn cản khả năng chi trả của ngân hàng phát hành L/C, trừ phi ngân hàng đó là ngân hàng nổi tiếng khắp thế giới. Vì lý do này mà người xuất khẩu có thể có yêu cầu một ngân hàng địa phương bảo lãnh cho L/C và do đó cam kết rằng mọi trách nhiệm của ngân hàng phát hành phải được thực hiện. Ngân hàng bảo lãnh có trách nhiệm đảm bảo cho việc rút tiền của người thụ hưởng được thực hiện đúng hẹn dựa trên những điều khoản phù hợp với L/C, bất chấp khả năng thanh toán của ngân hàng phát hành thiết lập. Vì thế cho nên ngân hàng bảo lãnh tin tưởng rằng ngân hàng phát hành L/C ở nước ngoài là một ngân hàng vững mạnh. Tuy nhiên, người xuất khẩu thì chỉ lo lắng duy nhất về khả năng tín dụng của ngân hàng bảo lãnh. Những loại thư tín dụng liên quan đến thương mại gọi là tín dụng thư thương mại hoặc tín dụng thư xuất nhập khẩu, được chia làm hai loại: tín dụng thư có thể hủy ngang và tín dụng thư không thể hủy ngang. Tín dụng thư có thể hủy ngang có thể được hủy bỏ hoặc thu hồi vào bất cứ thời điểm nào mà không cần thông báo đến người thụ hưởng và nó hiếm khi được sử dụng. Tín dụng thư không thể hủy ngang thì không thể hủy bỏ hoặc thay đổi mà không có sự đồng ý của người thụ hưởng. Tín dụng thư không thể hủy ngang bắt buộc ngân hàng phát hành có nghĩa vụ phải thực hiện việc chi trả cho người thụ hưởng đúng hẹn và phù hợp với những điều khoản trong L/C. Ngân hàng phát hành L/C sẽ thực hiện thanh toán ngay khi bộ chứng từ yêu cầu xuất trình phù hợp với những điều khoản ghi trong L/C. Người nhập khẩu thường có tài khoản mở tại ngân hàng phát hành dùng để rút tiền phục vụ việc thanh toán, vì vậy mà ngân hàng phát hành không bị cột chặt nguồn ngân quỹ. Tuy nhiên, nếu người nhập khẩu không có đủ tiền trong tài khoản thì ngân hàng phát hành vẫn có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ việc thanh toán dựa trên L/C. Điều đó giải thích vì sao quyết định mở L/C của ngân hàng phát hành phải dựa trên việc phân tích khả năng tín dụng của người nhập khẩu. Quy trình thanh toán L/C được mô tả trong Hình 121
  11. 5.1. Trong hình thức gọi là tài trợ lại cho L/C thanh toán ngay, ngân hàng ngay lập tức sẽ cung cấp một khoản cho vay để thanh toán cho L/C thay vì khấu trừ vào tài khoản của người nhập khẩu. Người nhập khẩu có nghĩa vụ thanh toán lại cho ngân hàng cả phần gốc và lãi khi đến hạn. Đó cũng chỉ là một hình thức khác của việc bổ sung điều kiện thanh toán cho người nhập khẩu khi người xuất khẩu đòi hỏi được thanh toán ngay. (1) Hợp đồng mua Người mua bán Người bán (Người nhập khẩu) (Người xuất khẩu) 5 2 8 6 4 7 Ngân hàng người NK Ngân hàng người XK (ngân hàng phát hành) (ngân hàng tư vấn) 3 Hình 5.1. Quy trình thanh toán bằng L/C (1) Nhà nhập khẩu ký hợp đồng mua hàng. (2) Nhà nhập khẩu ký quỹ (mở L/C). Lãi, vốn/trên tiền mặt phụ trội do công ty (3) con Ngân đầu tư hàng nhà nhập khẩu Chithông mua CKbáo cho ngânChứnghàng nhà xuất khẩu. khoán CácNgân khoản hàng nhà xuất khẩu thông ngắn hạn (4) báoCK Thu bán cho nhà xuất khẩu. vay, đầu tư (5) Nhà xuất khẩu giao hàng. (6) mặt Tiền Nhàphụ xuất khẩu cầm bộ chứng từ nhận tiền thanh toán. ty con 1 (7) Đầu tư dài Các DA trội Ngân đầu tư hàng nhà xuất khẩu báo cho ngân hàng nhà nhập khẩu. hạn dài (8) Ngân hàng nhà nhập khẩu thông báo cho nhà nhập khẩu. hạn Lợi nhuận đầu Ngân hàng phát hành thanh toán chotư người thụ hưởng (người xuất khẩu) dựa trên việc xuất trình bộ chứng từ hàng hóa phù hợp với những ỹ cho n cung điều khoản quy định trong MNC L/C. Thư tín dụng hoặc được chi trả ngay (vào ng mẹ chứng từ hàng thời điểm xuất trình bộ Khoảnhóa) vay hoặc vào Nguồn một ngày cụ thể nợ Trả nợ vay 122 ty con 2 Phí và lợi nhuận
  12. trong tương lai. Bộ chứng từ hàng hóa chuẩn bao gồm hối phiếu (trả ngay hoặc trả chậm), hóa đơn thương mại và vận đơn. Tùy thuộc vào bản hợp đồng, sản phẩm hay quốc gia mà các loại giấy tờ khác (chẳng hạn như giấy chứng nhận xuất xứ, chứng nhận qua kiểm duyệt, phiếu đóng gói hoặc chứng nhận bảo hiểm) có thể được yêu cầu. Ba loại chứng từ thường được yêu cầu nhất là các loại sau: 5.1.2.4. Hối phiếu Hối phiếu là một mệnh lệnh đòi nợ vô điều kiện được lập bởi một bên, thường là người xuất khẩu, yêu cầu người nhập khẩu phải thanh toán một khoản tiền cụ thể ghi trên hối phiếu vào thời điểm xuất trình bộ chứng từ (hối phiếu trả ngay) hoặc vào một ngày xác định trong tương lai (hối phiếu trả chậm). Hối phiếu trả ngay là hối phiếu được thanh toán dựa trên việc xuất trình bộ chứng từ hàng hóa. Còn nếu việc thanh toán được thực hiện vào một ngày cụ thể trong tương lai và được chấp thuận bởi người nhập khẩu thì nó được gọi là hối phiếu được người mua chấp nhận. Hối phiếu được ngân hàng chấp nhận là một hối phiếu trả chậm và được ký nhận bởi một ngân hàng. Khi được xuất trình cùng với thư tín dụng, hối phiếu sẽ tượng trưng cho yêu cầu thanh toán. Thời hạn hoặc kỳ hạn của hầu hết hối phiếu trả chậm ở bất cứ nơi đâu thường là từ 30 đến 180 ngày. Vận đơn: Một loại chứng từ quan trọng trong vận chuyển hàng hóa quốc tế trong phương thức thanh toán L/C là vận đơn (B/L). Vận đơn có hình thức của một hóa đơn vận tải và tóm lược tổng chi phí vận chuyển, quan trọng nhất là nó chứa đựng tên gọi của hàng hóa. Nếu hàng được vận chuyển bằng tàu thủy thì hãng vận tải sẽ phát hành vận đơn hàng hải, còn nếu hàng hóa được vận chuyển bằng máy bay thì hãng vận tải sẽ phát hành vận đơn hàng không. Hãng vận tải sẽ giao vận đơn cho người xuất khẩu để người xuất khẩu xuất trình cho ngân hàng cùng với các chứng từ khác theo yêu cầu. Một đặc trưng quan trọng của B/L là khả năng chuyển nhượng. B/L trực tiếp được giao thẳng đến người nhập khẩu vì nó không chứa đựng tên hàng hóa nên người nhập khẩu cũng không cần có nó mới nhận hàng được. Tuy nhiên, khi B/L được lập để đặt hàng thì nó được gọi là B/L chuyển nhượng. Người xuất khẩu thường ký hậu B/L và gửi cho ngân hàng khi 123
  13. nhận được thanh toán của ngân hàng. Ngân hàng sẽ không ký hậu B/L cho người nhập khẩu cho đến khi người nhập khẩu thực hiện việc thanh toán. Người nhập khẩu cần phải có B/L gốc mới được nhận hàng hóa. Với B/L chuyển nhượng được, quyền sở hữu B/L sẽ chuyển cho người có tên được ký hậu trong B/L. Vì B/L chuyển nhượng được chuyển quyền sở hữu cho người nắm giữ nên ngân hàng có thể giữ lô hàng như một tài sản ký quỹ. Những phần quan trọng trong một B/L bao gồm: - Mô tả về hàng hóa. - Những dấu hiệu để nhận biết hàng hóa. - Chứng từ của cảng cất hàng. - Tên nhà xuất khẩu. - Tên nhà nhập khẩu. - Hình thức phí vận chuyển (trả trước hay trả sau). - Ngày xuất hàng. Hóa đơn thương mại: Bảng mô tả chi tiết hàng hóa của người xuất khẩu bán cho người nhập khẩu được gọi là hóa đơn thương mại, thường chứa đựng những thông tin sau: + Tên và địa chỉ của người bán. + Tên và địa chỉ của người mua. + Ngày tháng. + Phương thức thanh toán. + Giá cả, bao gồm phí vận chuyển, cất giữ và bảo hiểm (nếu có). + Chất lượng, trọng lượng, đóng gói, … + Thông tin về con tàu chở hàng. Trong phương thức thanh toán bằng L/C thì những thông tin về hàng hóa trong hóa đơn thương mại phải trùng khớp với những gì ghi trong L/C. 124
  14. Các hình thức L/C: Có nhiều hình thức L/C được sử dụng trong tài trợ thương mại. Thư tín dụng dự phòng được sử dụng để bảo đảm việc thanh toán cho người cung cấp. Nó cam kết sẽ thanh toán cho người thụ hưởng nếu người mua bị mất khả năng chi trả. Trên thế giới, L/C dự phòng thường được sử dụng trong các hợp đồng mua bán có liên quan đến các cơ quan chính phủ và dưới hình thức giấy bảo đảm nhận thầu, giấy bảo đảm thực hiện hoặc cam kết thanh toán. Trong các giao dịch thương mại quốc tế và nội địa, người bán sẽ đồng ý xuất hàng cho người mua theo phương thức bán chịu miễn là người mua phải phát hành L/C dự phòng với khoản tiền và những điều kiện cụ thể. Chỉ cần người mua thực hiện thanh toán cho người bán sẽ xuất trình các chứng từ kèm theo L/C cho ngân hàng và yêu cầu ngân hàng phải thanh toán. Bản chất của L/C là ngân hàng bên mua phải đảm bảo là người mua phải thanh toán cho người bán. Thư tín dụng có thể chuyển nhượng là một dạng của tín dụng thư thương mại chuẩn nhằm cho phép người thụ hưởng đầu tiên có thể chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần L/C gốc cho một bên thứ ba. Người thụ hưởng mới sẽ có cùng quyền lợi và sự đảm bảo như người thụ hưởng đầu tiên. Loại L/C này được những nhà môi giới sử dụng một cách rộng rãi, mặc dù những người này không thực sự là người cung cấp. Ví dụ, nhà môi giới yêu cầu người mua ở nước ngoài phát hành một L/C trị giá 100.000USD. Trong L/C này phải có ghi chú rằng đây là L/C chuyển nhượng được. Nhà môi giới sẽ chọn nhà cung cấp lô hàng với giá 80.000USD. Tuy nhiên, người cung cấp yêu cầu người môi giới thanh toán đủ. Với L/C chuyển nhượng được, nhà môi giới có thể chuyển 80.000 USD trong L/C cho người cung cấp cuối cùng với những điều khoản và điều kiện, trừ tổng trị giá số tiền, ngày xuất hàng cuối cùng, hóa đơn và thời hạn hợp đồng. Khi người cung cấp xuất hàng, họ sẽ xuất trình bộ chứng từ cho ngân hàng. Khi ngân hàng thanh toán L/C thì 80.000USD sẽ được trả cho nhà cung cấp và 20.000USD cho nhà môi giới. Như vậy nhà môi giới đã tận dụng được tín dụng của người mua để tài trợ cho toàn bộ giao dịch này. Quy trình chuyển nhượng: L/C là một hình thức khác để tài trợ cho các giao dịch của nhà môi giới. Người thụ hưởng đầu tiên của L/C có thể thực hiện (hoặc giao lại) L/C cho người cung cấp cuối cùng. Người cung 125
  15. cấp cuối cùng có được lời cam kết từ phía ngân hàng rằng khi bộ chứng từ hàng hóa được xuất trình phù hợp với những điều khoản trong L/C, ngân hàng sẽ cung cấp cho người cung cấp cuối cùng theo những điều khoản thỏa thuận. Việc thanh toán chỉ có giá trị nếu người thụ hưởng xuất trình bộ chứng từ phù hợp với L/C. Người cung cấp cuối cùng phải nhận thức được rằng ngân hàng phát hành không có nghĩa vụ thanh toán nếu như người thụ hưởng đầu tiên không thực hiện việc xuất hàng hoặc không đảm bảo với những điều khoản ghi trong L/C. Hối phiếu được ngân hàng chấp nhận: Hối phiếu được ngân hàng chấp nhận. Như đã trình bày ở trên, hối phiếu được ngân hàng chấp nhận là một loại hối phiếu trả chậm được thiết lập và ký chấp nhận bởi một ngân hàng. Nó là nghĩa vụ của ngân hàng bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho người nắm giữ hối phiếu vào ngày đáo hạn. Bước đầu tiên của việc lập hối phiếu được ngân hàng chấp nhận là người nhập khẩu đặt hàng từ người xuất khẩu. Sau đó, người nhập khẩu sẽ yêu cầu ngân hàng nhân danh mình phát hành L/C. L/C sẽ cho phép người xuất khẩu được rút số tiền ghi trên hối phiếu về khoản thanh toán cho số hàng xuất. Người xuất khẩu xuất trình hối phiếu cùng với bộ chứng từ hàng hóa cho ngân hàng của mình, sau đó ngân hàng của người xuất khẩu sẽ gửi hối phiếu và bộ chứng từ cho nhà nhập khẩu. Ngân hàng người nhập khẩu ký nhận hối phiếu, theo cách đó hối phiếu chấp nhận được hình thành. Nếu người xuất khẩu không muốn chờ cho đến ngày đáo hạn hối phiếu để được thanh toán thì họ có thể bán hối phiếu được chấp nhận trên thị trường tiền tệ. Trong trường hợp này, khoản tiền nhận được từ việc bán hối phiếu sẽ ít hơn số tiền người xuất khẩu đợi đến ngày thanh toán. Khoản chiết khấu này phản ảnh giá trị của tiền tệ theo thời gian. Một nhà đầu tư nào đó trên thị trường tiền tệ có sẵn lòng mua hối phiếu được chấp nhận với một mức chiết khấu và đợi cho đến ngày được thanh toán. Nhà đầu tư này sẽ được khoản thanh toán đầy đủ bởi vì hối phiếu được ngân hàng chấp nhận tượng trưng cho một lời hứa sẽ thanh toán trong tương lai về một khoản tiền của ngân hàng. Ngân hàng sẽ thực 126
  16. hiện việc chi trả đầy đủ tại ngày đáo hạn bởi vì nó cũng nhận lại từ người nhập khẩu một khoản tiền tương ứng cộng với một khoản phí dịch vụ. Nếu người xuất khẩu giữ hối phiếu chấp nhận cho đến ngày đáo hạn thì người xuất khẩu sẽ là nguồn tài trợ cho người nhập khẩu cũng giống như trong trường hợp tài trợ cho các khoản phải thu. Trong trường hợp này, điểm khác nhau cơ bản giữa sử dụng hối phiếu chấp nhận và tài trợ các khoản phải thu là hối phiếu chấp nhận tượng trưng cho một lời bảo đảm từ phía ngân hàng sẽ thực hiện thanh toán cho người xuất khẩu. Tuy nhiên, nếu người xuất khẩu bán hối phiếu chấp nhận trên thị trường thứ cấp thì họ không còn là nguồn tài trợ cho người nhập khẩu nữa. Thay vào đó người nắm giữ hối phiếu chấp nhận sẽ đóng vai trò tài trợ này. Hối phiếu được ngân hàng chấp nhận mang đến lợi ích cho người xuất khẩu, người nhập khẩu và ngân hàng phát hành. Người xuất khẩu không phải lo lắng về rủi ro tín dụng của người nhập khẩu, do đó có thể tiến hành việc thâm nhập các thị trường nước ngoài mà không phải quan tâm đến rủi ro tín dụng của khách hàng. Hơn nữa, có rất ít các rủi ro quốc gia và việc kiểm soát ngoại hối của Chính phủ, các ngân hàng có thể thực hiện nghĩa vụ thanh toán của mình ngay cả khi tồn tại việc kiểm soát. Tuy nhiên, người nhập khẩu sẽ khó khăn hơn trong việc thanh toán cho người xuất khẩu khi có những sự kiểm soát này. Nếu không có hối phiếu được ngân hàng chấp nhận, người xuất khẩu có thể không được thanh toán, thậm chí khi người nhập khẩu sẵn lòng chi trả, nguyên nhân là do kiểm soát ngoại hối. Cuối cùng người xuất khẩu có thể bán hối phiếu chấp nhận với một mức chiết khấu trước khi đến hạn thanh toán và do đó có thể nhận được sự trả trước từ ngân hàng phát hành. Lợi ích cho người nhập khẩu từ hối phiếu được ngân hàng chấp nhận là họ có khả năng to lớn hơn trong việc thâm nhập các thị trường nước ngoài để mua hàng và tìm nguồn cung cấp. Không có hối phiếu được ngân hàng chấp nhận, người xuất khẩu sẽ không chấp nhận rủi ro tín dụng của người nhập khẩu. Bộ chứng từ hàng hóa được xuất trình cùng với hối phiếu chấp nhận đảm bảo cho người nhập khẩu rằng hàng đã được xuất đi. Thậm chí khi người nhập khẩu không trả tiền trước 127
  17. thì sự đảm bảo này vẫn có giá trị vì người nhập khẩu cần biết là hàng có đến hay không và khi nào hàng sẽ đến. Cuối cùng, bởi vì hối phiếu chấp nhận cho phép người nhập khẩu trả tiền sau nên việc thanh toán của người nhập khẩu được tài trợ cho đến ngày đáo hạn của hối phiếu chấp nhận. Không có hối phiếu chấp nhận, người nhập khẩu sẽ bị bắt buộc phải trả tiền trước nên nguồn vốn sẽ bị cột chặt. Ngân hàng ký chấp nhận hối phiếu sẽ hưởng lợi bằng việc hưởng phí hoa hồng cho việc chấp nhận hối phiếu. Phần hoa hồng mà ngân hàng thu của khách hàng phản ánh khả năng thanh toán của khách hàng. Lãi suất thu của khách hàng, gọi là lãi tổng hợp, bao gồm lãi suất chiết khấu và phí hoa hồng. Nói chung, lãi suất tổng hợp của việc ký chấp nhận hối phiếu thấp hơn lãi suất vay cơ bản của ngân hàng, điều này được so sánh trong bảng sau: Cho vay Chấp nhận hối phiếu Số tiền $ 1.000.000 $ 1.000.000 Thời hạn 180 ngày 180 ngày Lãi suất Lãi suất cơ bản + 1,5% Lãi suất B/A + 1,5% 10,0% + 1,5% = 11,5% 7,60% + 1,5% = 9,10% Chi phí lãi vay $ 57,50 $ 45,50% Trong ví dụ này, lãi suất tiết kiệm 6 tháng là 12.000 USD. Vì hối phiếu được chấp nhận là một loại công cụ tài chính có thể đem bán với một thị trường thứ cấp năng động cho nên lãi suất của nó thường ở khoảng giữa lãi suất trái phiếu ngắn hạn ngân khố Mỹ và lãi suất của các loại thương phiếu. Các nhà đầu tư thường sẵn lòng mua các loại hối phiếu chấp nhận vì lợi nhuận, sự an toàn và tính thanh khoản của nó. Khi một ngân hàng phát hành, ký chấp nhận và bán hối phiếu, xét về thực chất là họ đã sử dụng tiền của các nhà đầu tư để tài trợ cho khách hàng của mình. Kết quả là ngân hàng đã tạo ra tài sản với một mức giá, bán lại nó với một mức giá khác và hưởng phí hoa hồng như một loại phí dịch vụ. Tài trợ bằng hối phiếu được ngân hàng chấp nhận cũng có thể được sắp xếp thông qua việc tái tài trợ cho các L/C thanh toán ngay. Trong 128
  18. trường hợp này, nhà xuất khẩu (người thụ hưởng) của thư tín dụng có thể nhất định đòi được thanh toán ngay. Do đó, người nhập khẩu cần phải chấp nhận điều kiện này, ngân hàng sẽ sắp xếp cho việc tài trợ thư tín dụng trả ngay bằng việc ký một hợp đồng tài trợ bằng hối phiếu chấp nhận. Người nhập khẩu (người đi vay) đơn giản sử dụng hối phiếu được ngân hàng chấp nhận và kèm theo một khoản chiết khấu. Quy trình được sử dụng nhằm thực hiện việc chi trả cho người xuất khẩu. Đến ngày đáo hạn, người nhập khẩu có trách nhiệm thanh toán lại cho ngân hàng. Tài trợ bằng hối phiếu được ngân hàng chấp nhận cũng có thể được thực hiện dưới hình thức hợp đồng chấp nhận riêng biệt mà không cần có thư tín dụng. Cũng như các hợp đồng cho vay thông thường, ngân hàng sẽ quy định các điều khoản và điều kiện cho người đi vay và sử dụng hối phiếu chấp nhận thay vì là giấy hẹn trả tiền. Chỉ cần việc chấp nhận hối phiếu thỏa mãn một trong các yêu cầu giao dịch thì ngân hàng và người đi vay đã tận dụng được hối phiếu chấp nhận như một công cụ tài trợ. 5.1.2.5. Tài trợ vốn luân chuyển Tài trợ vốn luân chuyển: Như vừa giải thích, hối phiếu được ngân hàng chấp nhận cho phép người xuất khẩu có thể nhận tiền ngay, trong khi đó người nhập khẩu có thể trì hoãn việc thanh toán cho đến một ngày trong tương lai. Ngân hàng cung cấp một khoản nợ ngắn hạn dựa trên thời hạn của hối phiếu được chấp nhận. Trong trường hợp một nhà nhập khẩu mua hàng từ nước ngoài và thường xuyên có nhu cầu về hàng tồn kho. Khoản nợ vay tài trợ cho vòng quay vốn luân chuyển bắt đầu bằng việc mua hàng tồn kho và tiếp tục bằng việc bán hàng, hình thành các khoản phải thu và chuyển đổi sang tiền mặt. Với một nhà xuất khẩu, các khoản nợ ngắn hạn có thể tài trợ cho việc sản xuất hàng hóa dành cho xuất khẩu (tài trợ trước xuất khẩu) hoặc cho khoảng thời gian từ khi hàng hóa được bán cho đến khi nhận được thanh toán từ người mua. Ví dụ, một công ty nhập bia từ nước ngoài và có kế hoạch phân phối cho các cửa hàng tạp hóa và rượu bia. Ngân hàng không chỉ cung cấp thư tín dụng để tài trợ cho hoạt động thương mại mà còn có thể tài trợ cho chi phí của người nhập khẩu trong khoảng thời gian từ khi phân phối hàng cho đến khi thu được tiền. 129
  19. 5.1.2.6. Tài trợ trung hạn cho tư liệu sản xuất Tài trợ trung hạn cho tư liệu sản xuất (bao thanh toán tuyệt đối). Bởi vì tư liệu sản xuất khá đắt nên nhà nhập khẩu có thể không có khả năng thanh toán trong thời gian ngắn. Vì thế, trong trường hợp này cần đến tài trợ dài hạn. Nhà xuất khẩu có thể cung cấp nguồn tài trợ cho nhà nhập khẩu nhưng thường là họ không thích như thế bởi vì khoản tài trợ có thể kéo dài trong vài năm. Trong trường hợp này, có thể sử dụng phương thức bao thanh toán tuyệt đối. Tài trợ chuyển giao tuyệt đối hàm ý việc mua các nghĩa vụ tài chính, chẳng hạn như hối phiếu hoặc giấy báo thanh toán miễn truy đòi đối với người sử dụng đầu tiên, thường là người xuất khẩu. Trong giao dịch này, nhà nhập khẩu sẽ phát hành một giấy báo thanh toán theo yêu cầu của nhà xuất khẩu để chi trả cho những tư liệu đã mua. Thời hạn thường kéo dài từ 3 đến 7 năm. Sau đó, nhà xuất khẩu sẽ bán những hối phiếu này cho ngân hàng. Ở một khía cạnh nào đó phương thức này tương tự như phương thức bao thanh toán tương đối, ở đó các nhà bao thanh toán có trách nhiệm phải thu hồi các khoản thanh toán từ người mua, gánh chịu những rủi ro tín dụng và rủi ro quốc gia. Bởi vì ngân hàng bao thanh toán đã chấp nhận rủi ro không có khả năng thanh toán nên những ngân hàng này sẽ đánh giá khả năng trả nợ của nhà nhập khẩu mặc dù đó là một khoản cho vay trung hạn. Giao dịch bao thanh toán tuyệt đối được chấp nhận bởi một bảo đảm của ngân hàng hoặc là thư tín dụng do ngân hàng của nhà nhập khẩu phát hành theo những điều kiện giao dịch. Bởi vì ngân hàng bao thanh toán khó biết được những thông tin về khả năng tài chính của nhà nhập khẩu nên họ áp đặt các ràng buộc lên bảo đảm ngân hàng như là những thế chấp khi người mua không có khả năng thanh toán. Bảo đảm này đã hỗ trợ cho các giao dịch và điều này đã thúc đẩy sự phát triển của thị trường bao thanh toán tuyệt đối, đặc biệt là ở châu Âu. Các giao dịch này thường vượt quá $ 500.000 và có thể được định danh bằng hầu hết các loại tiền. Đối với các giao dịch lớn hơn, có sự tham gia của nhiều ngân hàng. Trong trường hợp này, một hội đồng sẽ được thành lập, ở đó mỗi thành viên chia sẻ một phần rủi ro và lợi nhuận. Ngân hàng bao thanh toán tuyệt đối có thể có quyết định bán các giấy bao thanh toán của người nhập khẩu cho các định chế tài chính. Tuy nhiên, ngân hàng 130
  20. này vẫn còn chịu trách nhiệm cho các khoản thanh toán trên giấy báo trong trường hợp nhà nhập khẩu không có khả năng chi trả. 5.1.2.7. Thương mại đối lưu Thương mại đối lưu: Là loại giao dịch thương mại quốc tế, ở đó việc bán hàng hóa của một quốc gia gắn liền với việc mua hoặc trao đổi của một quốc gia khác. Một vài loại thương mại đối lưu chẳng hạn như hàng đổi hàng đã tồn tại hàng ngàn năm. Tuy nhiên, chỉ trong những năm gần đây thương mại đối lưu mới trở nên phổ biến và có tầm quan trọng trong thương mại quốc tế. Sự tăng trưởng của các loại hình thương mại đối lưu khác nhau được thúc đẩy bởi sự mất cân bằng trong cán cân thanh toán, sự khan hiếm ngoại tệ, vấn đề nợ nần ở các quốc gia đang phát triển và sự sụt giảm trong nhu cầu trên thế giới. Kết quả đưa đến cho MNC nhiều cơ hội giao dịch thương mại đối lưu, đặc biệt là ở châu Á, châu Mỹ Latinh và Đông Âu. Các loại thương mại đối lưu phổ biến nhất là hàng đổi hàng, giao dịch bù trừ, mua đối lưu. Hàng đổi hàng là sự trao đổi giữa hai bên mà không sử dụng tiền tệ làm trung gian. Hầu hết các thỏa thuận hàng đổi hàng được thực hiện một lần trên hợp đồng. Ví dụ như việc trao đổi 100 tấn lúa mì từ Canada để đổi lấy 20 tấn tôm từ Ecuador. Trong giao dịch bù trừ việc bán hàng cho một đối tác được bù trừ bằng việc mua một số lượng hàng hóa nhất định từ chính đối tác đó. Giao dịch này được thực hiện bởi một hợp đồng và giá trị của hàng hóa được thể hiện bằng tiền. Có hai hình thức giao dịch bù trừ, đó là bù trừ từng phần và bù trừ toàn phần. Mua đối lưu là việc trao đổi hàng hóa bằng hai hợp đồng khác nhau. Việc giao hàng và việc thanh toán hàng là hai giao dịch riêng lẻ. Thị trường mua đối lưu hiện nay vẫn đang phát triển và những người tham gia chủ yếu trong thị trường này là các Chính phủ với sự trợ giúp của các chuyên gia trong các lĩnh vực, chẳng hạn như các định chế tài chính, các công ty thương mại, v.v. Các giao dịch này thường rất phức tạp và rất lớn. 5.2. TÀI TRỢ NGẮN HẠN Tất cả các công ty đều phải định kỳ thực hiện các quyết định ngắn hạn. Ngoài những tài trợ thương mại được trình bày phần trước, công ty đa quốc gia (MNC) còn tài trợ cho các hoạt động khác. Bởi vì MNC tiếp cận 131
nguon tai.lieu . vn