- Trang Chủ
- Xã hội học
- Giáo trình Quản trị công tác xã hội (Nghề: Công tác xã hội) - CĐ Cơ Giới Ninh Bình
Xem mẫu
- BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CƠ GIỚI NINH BÌNH
GIÁO TRÌNH
MÔN HỌC: QUẢN TRỊ CÔNG TÁC XÃ HỘI
NGHỀ: CÔNG TÁC XÃ HỘI
TRÌNH ĐỘ: CAO ĐẲNG NGHỀ
Ban hành kèm theo Quyết định số: /QĐTCDCGNB ngày…….tháng….năm 2017
của Hiệu trưởng Trường cao đẳng Cơ giới Ninh Bình
1
- Ninh Bình, năm 2017
2
- TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN
Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thông tin có thể
được pháp dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và
tham khảo.
Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh
doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm.
3
- LỜI GIỚI THIỆU
Quản trị ngành công tác xã hội là môn khoa học chiếm vị trí quan trọng
trong nội dung chương trình đào tạo ngành công tác xã hội thuộc các khối
trường có đào tạo ngành công tác xã hội. Môn học giúp trang bị những kiến
thức, kỹ năng, thái độ nghề nghiệp cho người cán sự xã hội trong lĩnh vực
quản trị các cơ sở dịch vụ xã hội; giúp họ đảm nhận tốt chức năng nhà quản
lý, tổ chức cơ sở và người cán sự xã hội tận tụy với công việc giúp đỡ con
người.
Trong một cơ sở xã hội, nhà quản trị công tác xã hội có thể đảm đương
nhiều vai trò ở nhiều cương vị công tác khác nhau, ví dụ: Người hoạch định,
nhà lãnh đạo, người điều hành công việc chuyên môn, nhà tham vấn kiểm
huấn nhân viên, người cộng tác tích cực với đồng nghiệp và nhà ngoại giao
tài ba trong công tác huy động nguồn lực... giúp cho sự phát triển vững mạnh
của tổ chức. Vì thế, yêu cầu với nhà quản trị công tác xã hội không chỉ giỏi về
chuyên môn, tay nghề trong quản lý ca, làm việc nhóm, tổ chức cộng đồng, mà
còn phải giỏi về các kỹ năng quản trị, điền khiển con người trong các lĩnh
vực hoạt động công tác xã hội rộng lớn hơn.
Để có thể cung cấp những kiến thức, kỹ năng cơ bản nhằm đáp ứng
cho nhu cầu học tập và giảng dạy môn quản trị ngành công tác xã hội trong
trường Cao đẳng Cơ giới Ninh Bình, nhóm tác giả đã mạnh dạn biên soạn
cuốn tài liệu này. Nội dung được kết cấu làm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề chung về quản trị ngành công tác xã hội
Chương II: Quản trị ở cấp độ nhân viên công tác xã hội
Chương II: Quản trị công tác xã hội ở cấp độ tổ chức
Chương III: Quản trị công tác xã hội trong các cơ sở bảo trợ xã hội
Do kiến thức về quản trị công tác xã hội mới được đưa vào giảng dạy
trong nhà trường và tài liệu này được biên soạn lần đầu nên không tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của độc giả để
tài liệu được tái bản lần sau sẽ tốt hơn.
…............, ngày…..........tháng…........... năm……
Tham gia biên soạn:
1. Chủ biên Lê Hùng Cườn
2. Vũ Ánh Dương
4
- MỤC LỤC
LỜI GIỚI THIỆU
........................................................................................................................
4
MỤC LỤC
....................................................................................................................................
5
GIÁO TRÌNH MÔN HỌC
...........................................................................................................
6
Chương I
.......................................................................................................................................
6
Một số vấn đề chung về quản trị công tác xã hội
......................................................................
6
I. Một số vấn đề chung về quản trị
........................................................................................
7
II. Một số vấn đề chung về quản trị công tác xã hội
...........................................................
22
Chương II
...................................................................................................................................
27
Quản trị ở cấp độ nhân viên công tác xã hội
............................................................................
27
1. Thực hiện các công việc của người cán bộ xã hội
........................................................
28
2. Quản lý case
.................................................................................................................
37
3. Liên kết với đồng nghiệp trong hỗ trợ, bảo vệ thân chủ
................................................
47
Chương III
..................................................................................................................................
48
Quản trị công tác xã hội ở cấp độ tổ chức
...............................................................................
48
I. Hoạch định
..........................................................................................................................
48
II. Tổ chức và nhân sự
...........................................................................................................
56
III. Lãnh đạo (điều hành)
.......................................................................................................
73
IV. Kiểm tra
............................................................................................................................
78
Chương IV
..................................................................................................................................
82
Quản trị công tác xã hội trong các cơ sở bảo trợ xã hội
..........................................................
82
I. Khái niệm cơ sở bảo trợ xã hội
.........................................................................................
82
II. Tổ chức và nhân sự
...........................................................................................................
84
III. Quản lý đối tượng
...........................................................................................................
87
V. Quản lý tài chính tài sản
.................................................................................................
87
TÀI LIỆU THAM KHẢO
...........................................................................................................
89
5
- GIÁO TRÌNH MÔN HỌC
Tên môn học: Quản trị ngành công tác xã hội
Mã số môn học: MH 24
Thời gian thực hiện môn học: 90 giờ; (Lý thuyết: 30 giờ; Thực hành,
thảo luận, bài tập: 57 giờ; Kiểm tra: 3 giờ)
Vị trí, tính chất, ý nghĩa và vai trò của môn học:
Vị trí môn học: Quản trị ngành công tác xã hội là môn học chuyên môn
nghề quan trọng của chương trình đào tạo Cao đẳng nghề công tác xã hội, liên
quan tới quản lý đối tượng và kiểm huấn trong công tác xã hội.
Tính chất của môn học: Là môn học lý thuyết chuyên môn nghề bắt
buộc.
Mục tiêu môn học:
Về kiến thức: Trình bày đượcmột số vấn đề về quản trị ngành công
tác xã hội, các khái niệm, nguyên tắc quản lý case, quản trị công tác xã hội ở
cấp độ tổ chức và quản trị ngành công tác xã hội ở cơ sở bảo trợ.
Về kỹ năng:
+ Thực hiện được các công việc của cán bộ quản trị xã hội;
+ Vận dụng được quản lý case trong một số trường hợp quản trị công
tác xã hội theo yêu cầu;
+ Vận dụng được công tác quản trị xã hội ở cấp độ tổ chức và trong cơ
sở bảo trợ.
Về năng lực tự chủ và trách nhiệm: Rèn luyện đạo đức nghề nghiệp,
có thái độ tôn trọng đối tượng, phối hợp, chia sẻ công việc với đồng nghiệp.
Nội dung môn học:
Chương I
Một số vấn đề chung về quản trị công tác xã hội
Mã chương: MH24_CH01
Mục tiêu của chương:
Kiến thức:
+ Trình bày được về quản trị hoc, quan tri ngành công tác xã h
̣ ̉ ̣ ội và vai
trò của quản trị trong công tác xã hội;
̉ ược muc đich va nguyên tăc trong quan tri công tac xa hôi.
+ Mô ta đ ̣ ́ ̀ ́ ̉ ̣ ́ ̃ ̣
6
- Kỹ năng: Vân dung đ
̣ ̣ ược kiên th
́ ưc vê quan tri vao công tác xã h
́ ̀ ̉ ̣ ̀ ội.
Năng lực tự chủ và trách nhiệm: Hòa nhã với nhân viên, đúng mức với
đối tượng, tôn trọng quyền con người và quyền của thân chủ.
Nội dung chính:
I. Một số vấn đề chung về quản trị
1. Khái niệm và sự cần thiết của quản trị
1.1. Khái niệm về quản trị
Theo gốc chữ La tinh, "Quản trị" có nghĩa là: "Giúp đỡ cho ai đó thực
hiện một hoạt động theo một loạt các mẫu hay quy định".
Theo James H.Donnelly, JR. , James L.Gibson và John M.Ivancevich trong
giáo trình "Quản trị học căn bản" cho rằng: "Quản trị là một quá trình do một
hay nhiều người thực hiện, nhằm phối hợp các hoạt động của những người
khác để đạt được những kết quả mà một người hành động riêng rẽ không thể
nào đạt được"
Stoner và Robbins lại cho rằng: Quản trị là một tiến trình bao gồm việc
hoạch định, tổ chức, quản trị con người và kiểm tra các hoạt động trong một
đơn vị, một cách có hệ thống, nhằm hoàn thành mục tiêu của đơn vị đó.
Stein cho rằng định nghĩa về quản trị thì có nhiều, nhưng tựu trung được
chấp nhận hiện nay là quan niệm coi "quản trị là một tiến trình xác định và đạt
tới những mục tiêu của một tổ chức thông qua một hệ thống phối hợp và hợp
tác các nỗ lực".
Tóm lại: Quản trị là một phương pháp, một quá trình do một hay nhiều
người thực hiện, nhằm phối hợp các hoạt động của nhiều người để tiến tới
hoàn thành mục tiêu của một tổ chức với một kết quả và hiệu quả cao. Tiến
trình này bao gồm việc hoạch định, tổ chức, lãnh đạo (điều khiển) và kiểm
tra.
1.2. Quản trị và quản lý
Khái niệm quản lý bao hàm việc thiết kế một môi trường mà trong đó
con người cùng làm việc với nhau trong các nhóm có thể hoàn thành các mục
tiêu. Thiết kế là việc áp dụng kiến thức vào một vấn đề thực tiễn, nhằm mục
đích xác định những kết quả tốt nhất có thể có trong tình huống đang xét. Áp
dụng kiến thức vào thực tại nhằm thu được các kết quả mong muốn. (Những
vấn đề cốt yếu của quản lý NXB Khoa học và Kỹ thuật, 1998).
7
- Hiện đang có nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau khi phân
biệt quản trị và quản lý.
Nhóm ý kiến thứ nhất cho rằng "quản lý" là một phạm trù rộng lớn
hơn so với quản trị, bao trùm lên cả quản trị. Theo cách tiếp cận này, thì quản
lý có mặt ở mọi cấp độ tổ chức, kể cả ở tầm vi mô và vĩ mô, thường nghiêng
về các chức năng quản lý tổ chức. Còn "quản trị" được xem như là một hoạt
động tác nghiệp cụ thể, mang tính chất thừa hành, nhằm bảo đảm thực hiện
những công việc cụ thể do yêu cầu của quản lý đặt ra.
Nhóm ý kiến thứ hai lại cho rằng "quản trị" là một phạm trù rộng hơn
so với "quản lý", bao trùm lên cả quản lý. Theo cách tiếp cận này, thì quản trị
được xem là một hoạt động của tất cả mọi người trong mỗi cơ sở, tổ chức.
Còn "quản lý" được xem như là một phạm trù giới hạn ở một số người làm
chức trách lãnh đạo, quản lý trong một tổ chức thực hiện một vai trò của
công tác quản trị.
Nhưng dường như, những cố gắng để phân biệt giữa quản trị và quản lý
xem ra không được chấp thuận rộng rãi theo mỗi cách tiếp cận. Theo lý thuyết
và trên thực tế, khái niệm quản trị có tính phổ biến cho tất cả những thể loại
tổ chức, là công việc của mọi người, từ người nhân viên đến người làm lãnh
đạo. Những tổ chức khác nhau đều phải đối phó với những vấn đề quản trị
như nhau và những nhà quản trị của họ thực hiện các chức năng giống nhau.
Vì vậy, nhiều nhà quản trị cho rằng trong nhiều trường hợp, hai từ quản lý và
quản trị không có khác biệt nào đáng kể. Ví dụ, một người làm Hiệu trưởng ở
một trường học, ông ta làm các công việc của người quản lý đối với chức
trách của một Hiệu trưởng, đồng thời làm các công việc cụ thể của một giáo
viên, như: chuẩn bị bài giảng, lên lớp, chấm bài… Hay một nhân viên xã hội,
ngoài các công việc có tính tác nghiệp cụ thể trong việc cung cấp các dịch vụ
cho con người, nhưng để cung cấp dịch vụ có hiệu quả, người nhân viên xã
hội phải lập kế hoạch can thiệp, quan hệ với các tổ chức xã hội và quản lý
ca ... Như vậy, dù là một giám đốc hay một nhân viên xã hội thì đều phải thực
hiện những chức năng chung của quản trị: hoạch định, tổ chức, điều khiển và
kiểm tra.
Ở Việt Nam, do thói quen từ lâu trong xã hội, đã và đang sử dụng đồng
thời 2 thuật ngữ "Quản trị" và "Quản lý". Trong nhiều trường hợp, thuật ngữ
8
- quản trị đồng nghĩa với quản lý. Tuy nhiên, ở một số trường hợp cụ thể quản
lý và quản trị có một số điểm khác biệt đáng kể. Từ tương đương trong tiếng
Anh là Mangement, và cả từ Administration vẫn được quen dùng từ xưa.
Trong tài liệu này, chúng tôi dùng thuật ngữ quản trị là chủ yếu và trong
một số chỗ có sử dụng cả từ quản lý.
1.3. Sự cần thiết của quản trị.
Quản trị là những hoạt động cần thiết được thực hiện khi con người kết
hợp với nhau trong các tổ chức nhằm đạt được những mục tiêu chung.
Các hoạt động quản trị không những phát sinh khi con người kết hợp
thành tổ chức, mà còn cần thiết, bởi vì nếu không có những hoạt động quản trị
thì trong tổ chức sẽ dẫn tới tình trạng mạnh ai nấy làm, lộn xộn theo kiểu
"trống đánh xuôi, kèn thổi ngược". Ví như 2 người cùng khiêng một khúc gỗ
hay cùng bơi một chiếc thuyền, thay vì hai người cùng bước hay cùng đưa mái
chèo về cùng một hướng thì mỗi người lại bước hay đẩy mái chèo về mỗi
hướng khác nhau. Những hoạt động khiến hai người cùng bước hay đẩy mái
chèo về cùng một hướng là những hoạt động quản trị.
Trong Bộ Tư Bản, Mác đưa ra một hình ảnh về một hoạt động quản trị,
đó là hoạt động của người chỉ huy một dàn nhạc. Người này không chơi một
loại nhạc cụ nào mà dùng cây đũa chỉ huy để điều khiển các nhạc công chơi
các nhạc cụ khác nhau để tạo nên một bản giao hưởng. Điều đó nói nên rằng
một nghệ sỹ độc tấu thì tự điều khiển lấy mình, còn đối với một dàn nhạc thì
cần phải có một nhạc trưởng.
Hoạt động của mỗi tổ chức mang lại những kết quả, hiệu quả khác
nhau đều liên quan đến quản trị. Hiệu quả cao khi kết quả đạt được nhiều
hơn so với chi phí; và hiệu quả thấp khi chi phí nhiều hơn so với kết quả đạt
được.
Trong thực tế, hoạt động quản trị sẽ có hiệu quả khi:
Giảm thiểu chi phí các nguồn lực ở đầu vào mà vẫn bảo đảm đạt
được kết quả thực hiện các mục tiêu ở đầu ra.
Giữ nguyên các yếu tố đầu vào (chi phí nhân lực, vật lực, tài chính) mà
gia tăng kết quả thực hiện các mục tiêu ở đầu ra.
Vừa giảm được các chi phí ở đầu vào, vừa tăng kết quả thực hiện các
mục tiêu ở đầu ra.
9
- 2. Các chức năng của quản trị.
Có nhiều ý kiến khác nhau về sự phân chia các chức năng của quản trị.
Vào thập niên 30, Gulik và Urwich nêu ra 7 chức năng của quản trị:
Hoạch định, tổ chức, nhân sự, chỉ huy, phối hợp, kiểm tra và tài chính. Henri
Fayol thì đưa ra 5 chức năng: Hoạch định, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm
tra.
Những năm cuối của thập niên 80 trở lại đây, giữa các nhà khoa học và
quản trị ở Mỹ có sự bàn luận về việc phân chia các chức năng của quản trị là 4
hay 5 chức năng.
Gần đây, những tác phẩm về quản trị của James Stoner và Stephen
Robbins chia các chức năng của quản trị thành: Hoạch định, tổ chức, điều
khiển và kiểm tra.
Trong tài liệu này, chúng tôi sử dụng việc phân chia quản trị thành 4
chức năng: Hoạch định, tổ chức, lãnh đạo (điều khiển) và kiểm tra.
Chức năng hoạch định: Bao gồm việc định rõ những mục tiêu của tổ
chức, thiết lập một chiến lược hành động để thực hiện mục tiêu, và sự phối
hợp các hoạt động.
Chức năng tổ chức: Nhà quản trị có trách nhiệm vạch ra cấu trúc của
tổ chức, nó bao gồm việc xác định những nhiệm vụ phải làm, ai sẽ thực hiện
những nhiệm vụ đó, những nhiệm vụ đó được tập hợp như thế nào?
Chức năng lãnh đạo (hay điều khiển): Một tổ chức bao giờ cũng
gồm nhiều người. Công việc của nhà quản trị là lãnh đạo, điều khiển và phối
hợp hoạt động của con người trong tổ chức. Nó còn bao gồm việc động viên
những người dưới quyền, giải quyết xung đột giữa các các cá nhân và bộ phận
trong tổ chức ...
Chức năng kiểm tra: Kiểm tra là chức năng sau cùng của nhà quản trị.
Sau khi những mục tiêu đã được đặt ra; những kế hoạch đã được xác định;
việc thiết lập cơ cấu tổ chức và việc tuyển chọn, huấn luyện và bố trí nhân
lực đã được tiến hành nhưng quá trình thực hiện công việc của cá nhân và bộ
phận trong tổ chức vẫn có thể có chỗ sai sót, hạn chế. Để bảo đảm công việc
thực hiện như dự tính, nhà quản trị phải theo dõi, kiểm tra hoạt động của nhân
viên, của tổ chức và so sánh kết quả thực hiện với mục tiêu, kế hoạch đặt ra
10
- để điều khiển những hoạt động chệch hướng nhằm đưa hoạt động của tổ
chức trở lại đúng hướng.
Ở mỗi cấp bậc quản trị khác nhau, vai trò của nhà quản trị thực hiện các
chức năng có sự khác nhau, thể hiện ở thời gian dành cho việc thực hiện từng
chức năng. Các kết quả nghiên cứu, khảo sát cho thấy:
Quản trị ở cấp cơ sở và cấp trung gian: Nhà quản trị dành thời gian
nhiều hơn để thực hiện chức năng lãnh đạo, điều hành. Sau đó đến thời gian
dành cho việc thực hiện chức năng tổ chức, hoạch định và cuối cùng là cho
công việc kiểm tra. Tuy nhiên, tỷ trọng thời gian dành cho việc thực hiện các
chức năng của quản trị giữa cấp cơ sở và cấp trung gian có sự khác nhau đôi
chút.
Quản trị ở cấp cao: Nhà quản trị dành thời gian nhiều hơn để thực hiện
chức năng tổ chức, hoạch định. Sau đó là thời gian dành cho việc lãnh đạo,
điều hành và kiểm tra.
3. Nhà quản trị
3.1. Nhà quản trị
Nhà quản trị là thành viên của tổ chức, họ là người điều khiển công việc
của người khác. Cũng có khi người quản trị ở một cấp tổ chức làm cả công
việc của người thừa hành. Ví dụ: một người Hiệu trưởng ở một trường đại
học, ông ta hay bà ta vừa lãnh đạo, điều khiển hoạt động của những nhà sư
phạm vừa thực hiện những công việc của một nhà giáo khi làm nhiệm vụ
giảng bài cho sinh viên. Hoặc một người tổ trưởng tổ máy vi tính, ông ta vừa
điều khiển tổ viên vừa làm việc trên máy vi tính.
Định nghĩa trên về nhà quản trị đã giả thuyết rằng ông ta phải có người
dưới quyền. Tuy nhiên, ở các cấp quản trị khác nhau (cấp cao, cấp giữa hay
cấp cơ sở), các nhà quản trị có những đặc tính chung mặc dù họ mang những
chức năng khác nhau.
3.2. Cấp bậc quản trị trong tổ chức.
Để làm dễ ràng cho việc nghiên cứu về quản trị, người ta thường chia
các nhà quản trị trong một tổ chức thành 3 cấp: Các nhà quản trị cấp cơ sở, các
nhà quản trị ở cấp giữa (cấp trung gian) và các nhà quản trị cấp cao trong một
tổ chức.
11
- Nhà quản trị cấp cơ sở: Nhà quản trị cấp cơ sở là những nhà quản trị
ở cấp bậc cuối cùng trong hệ thống cấp bậc của các nhà quản trị trong cùng
một tổ chức. Chức danh của các nhà quản trị cấp cơ sở thường là tổ trưởng
của một tổ công tác và họ cũng thường là những người trực tiếp làm các công
việc tác nghiệp thừa hành như những người dưới quyền.
Nhà quản trị cấp giữa (cấp trung gian): Nhà quản trị cấp giữa là một
khái niệm rộng, dùng để chỉ những nhà quản trị ở cấp trung gian trong tổ chức,
họ đứng trên nhà quản trị cấp cơ sở và đứng dưới nhà quản trị ở cấp cao nhất
trong cùng một tổ chức. Chức danh của các nhà quản trị cấp trung gian thường
là trưởng phòng, ban, khoa, phân xưởng sản xuất ...
Nhà quản trị cấp cao: Nhà quản trị cấp cao là các nhà quản trị ở cấp
bậc tối cao trong cùng một tổ chức, chịu trách nhiệm cuối cùng về thành quả
của tổ chức. Chức năng chính là xây dựng chiến lược hành động và phát triển
của tổ chức. Chức danh của các nhà quản trị cấp cao trong một tổ chức
thường là giám đốc, hiệu trưởng, viện trưởng ...
3.3. Kỹ năng của nhà quản trị.
Để có thể thực hiện các chức năng của nhà quản trị, nhà quản trị cần
phải có một số kỹ năng cần thiết. Đó là 3 kỹ năng cơ bản: 1) Kỹ năng kỹ
thuật, 2) Kỹ năng nhân sự, 3) Kỹ năng tư duy.
Kỹ năng kỹ thuật: Là những khả năng cần thiết để thực hiện một công
việc cụ thể; hay nói cách khác, là trình độ chuyên môn nghiệp vụ của nhà quản
trị. Để có được trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nhà quản trị phải được đào
tạo, bồi dưỡng tại các cơ sở đào tạo hoặc do cơ quan tổ chức.
Kỹ năng nhân sự: Là kỹ năng liên quan đến khả năng cùng làm việc,
động viên và điều khiển con người trong một tập thể lao động. Kỹ năng nhân
sự là tài năng đặc biệt của nhà quản trị trong việc quan hệ với người khác để
nhằm tạo thuận lợi và thúc đẩy sự hoàn thành công việc chung nhằm đạt được
các mục tiêu của nhóm, của tổ chức..
Kỹ năng tư duy: Là khả năng nhà quản trị có óc tư duy khoa học, hiểu
rõ mức độ phức tạp của môi trường quản trị, nhạy bén trong phán đoán và
năng động trong việc đưa ra các cách thức kiểm soát và giảm thiểu sự phức
tạp của môi trường quản trị ở mức độ tối thiểu có thể đối phó được.
12
- Tuy nhiên, mức độ đòi hỏi về từng kỹ năng có sự khác nhau giữa các nhà
quản trị ở vị trí các cấp quản trị khác nhau. Chẳng hạn: kỹ năng kỹ thuật giảm
dần từ cấp quản trị cơ sở đến quản trị cấp trung gian và quản trị cấp cao.
Ngược lại, kỹ năng tư duy tăng dần từ quản trị cấp cơ sở đến cấp trung gian
và cấp cao.
3.4. Vai trò của nhà quản trị.
Các vai trò người đại diện cho tổ chức.
Vai trò đầu tiên của nhà quản trị trong tổ chức là vai trò đại diện, hay
tượng trưng, có tính chất nghi lễ trong tổ chức, với tư cách đại diện cho tổ
chức của họ. Xét trong mối tương quan giữa con người ở trong và ngoài tổ
chức, vai trò này của nhà quản trị cho thấy hình ảnh của tổ chức mà họ quản
trị, và ở mức độ nhất định cũng cho thấy những nét cơ bản của tổ chức đó.
Vai trò của người lãnh đạo
Nhà quản trị phải phối hợp và kiểm tra công việc của những nhân viên
dưới quyền. Vai trò này có thể được nhà quản trị thực hiện trực tiếp hay gián
tiếp. Việc tuyển dụng, đào tạo và động viên có thể là những việc mà nhà quản
trị phải trực tiếp làm. Trái lại, khi có sự phân quyền và uỷ quyền thì nhà quản
trị thực hiện vai trò lãnh đạo một cách gián tiếp.
Các vai trò liên lạc thông tin.
Khi nhà quản trị quan hệ với nhiều người trong hay ngoài tổ chức để
nhằm góp phần hoàn thành công việc được giao cho đơn vị của họ, nhà quản
trị đã thực hiện vai trò liên lạc. Vai trò liên lạc cho phép nhà quản trị phát triển
hệ thống thu thập thông tin. Nhà quản trị vừa đảm nhiệm vai trò thu thập
thông tin từ nhiều kênh khác nhau để phục vụ cho công việc quản trị; đồng
thời là người có vai trò phổ biến và truyền đạt thông tin đến những người liên
quan, có thể cho nhân viên hoặc cho người quản trị ở cấp trên.
Các vai trò quyết định.
Người quản trị có vai trò lựa chọn và đưa ra các quyết định về những
vấn đề thuộc chức năng của nhà quản trị, liên quan đến quá trình hoạt động và
phát triển của tổ chức, như: kế hoạch hoạt động, công tác nhân sự và phân
phối các nguồn lực, giải quyết các xung đột ...
4. Thông tin trong quản trị.
4.1. Khái niệm và vai trò của thông tin trong quản trị.
13
- Thông tin trong quản trị là tất cả những tin tức nảy sinh trong quá trình
cũng như trong môi trường quản trị và cần thiết cho việc ra quyết định hoặc
để giải quyết một vấn đề nào đó trong hoạt động quản trị ở một tổ chức nào
đó.
Thông tin trong quản trị có vai trò hết sức quan trọng đối với việc ra các
quyết định quản trị, và hơn thế nữa nó có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc
thực hiện các chức năng quản trị (tổ chức, hoạch định, lãnh đạo điều hành và
kiểm tra), cũng như trong phân tích, dự báo.
4.2. Nguồn thông tin và phân loại
Nguồn thông tin: Trên phương diện lý thuyết, người ta có thể phân loại
các nguồn thông tin trong quản trị thành các loại: nguồn sơ cấp và nguồn thứ
cấp; nguồn bên trong và nguồn bên ngoài; nguồn mới và nguồn cũ; nguồn quan
trọng và nguồn ít quan trọng ...
Phân loại: Tuỳ theo cách thức tiếp cận, thông thường người ta phân
loại thông tin quản trị như sau:
+ Theo nguồn gốc: Thông tin từ người ra quyết định, thông tin từ kết
quả ...
+ Theo vật mang: Thông tin bằng văn bản, bằng âm thanh, bằng băng,
đĩa, tranh ảnh ...
+ Theo tầm quan trọng: Thông tin rất quan trọng, quan trọng và không
quan trọng.
+ Theo phạm vi: Thông tin toàn diện, thông tin từng mặt ...
+ Theo đối tượng sử dụng: Thông tin cho người ra quyết định, thông tin
cho người thực hiện ...
+ Theo giá trị: Thông tin có giá trị, ít giá trị và không có giá trị.
+ Theo tính thời sự: Thông tin mới, thông tin cũ ...
+ Theo kỹ thuật thu thập, xử lý và trình bày: Thông tin thu thập bằng kỹ
thuật điện tử, bằng phỏng vấn ...
+ Theo phương pháp truyền thông tin: Thông tin bằng miệng, bằng sóng
điện từ, bằng điện thoại, bằng máy tính ...
+ Theo mức độ bảo mật: Thông tin tuyệt mật, mật và thông tin bình
thường.
+ Theo mức độ xử lý: Thông tin sơ cấp, thông tin thứ cấp.
14
- Trên thực tế, việc sử dụng cách phân loại thông tin quản trị nào là tuỳ
thuộc vào từng vụ việc cụ thể, vào mục đích và khả năng nghiên cứu cùng
nhiều yếu tố chủ quan và khách quan ở mỗi tổ chức.
4.3. Chức năng của thông tin
Xét về mặt tổng thể, những chức năng chủ yếu của hệ thống thông tin
trong quản trị sẽ là:
Thu thập thông tin
Xử lý thông tin
Phổ biến thông tin
Phục vụ thông tin
Làm cơ sở cho việc ra các quyết định quản trị
Kiểm soát và đánh giá các hoạt động về quản trị
4.4. Nội dung và chất lượng thông tin
Nội dung thông tin: Nội dung thông tin là một trong những khâu cơ bản
và quan trọng nhất của quá trình thực hiện thông tin trong quản trị. Những nội
dung thông tin chủ yếu trong quản trị thường là những vấn đề sau: Thông tin
đầu vào, thông tin đầu ra, thông tin phản hồi, thông tin về môi trường quản trị,
thông tin về đối tượng quản trị, thông tin về quá trình quản trị ...
Chất lượng của thông tin: Muốn đánh giá chất lượng thông tin, người
ta thường dựa vào các tiêu chuẩn đánh giá. Những tiêu chuẩn chung đánh giá
chất lượng thông tin trong quản trị thường là: nhanh, chính xác, đầy đủ, kịp
thời, bí mật ... Chất lượng thông tin thường ảnh hưởng bởi các yếu tố: trình
độ con người, tiến bộ khoa học công nghệ, môi trường thông tin, phương
pháp tổ chức ...
4.5. Phương pháp thu thập, xử lý thông tin
Phương pháp thu thập thông tin: Có nhiều phương pháp để thu thập
thông tin, như: quan sát; điều tra, khảo sát; phỏng vấn; thực nghiệm; thăm dò
dư luận; tài liệu; các kênh truyền thông (báo chí, đài truyền thanh, truyền
hình...) và sử dụng công nghệ thông tin (inter net) ... Việc lựa chọn phương
pháp thu thập thông tin thường căn cứ vào những yêu cầu cần phải đạt được
trong quản trị, như mục tiêu sử dụng, nội dung thông tin và hoàn cảnh thực tế
cũng như khả năng của tổ chức đó.
15
- Phương pháp xử lý thông tin: Hiện có nhiều phương pháp để xử lý thông
tin, như: Phương pháp thủ công; phương pháp máy tính điện tử, phương pháp
toán xác suất thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, phương
pháp giám định ... Mỗi phương pháp xử lý thông tin đều có những ưu nhược điểm
riêng của chúng, tuy nhiên việc lựa chọn phương pháp xử lý thông tin cần thoả
mãn các yêu cầu về tính khoa học, kinh tế, hiệu quả, phù hợp với điều kiện thực
tế ở mỗi tổ chức.
Phương pháp phổ biến thông tin: Trên thực tế ngày nay, người ta
thường sử dụng các phương pháp phổ biến thông tin sau đây: Bằng văn bản
(công văn, báo cáo, thông báo, …), thông qua các cuộc hội nghị, truyền
miệng ... Đặc biệt, trong xu thế hội nhập và sự phát triển của công nghệ, nhà
quản trị sử dụng công nghệ thông tin mạng INTERNET để phổ biến thông tin
là hiệu quả nhất. Những cơ sở dữ liệu khổng lồ được bố trí trong hệ thống
ngân hàng thông tin để mọi người truy cập, trở thành xa lộ thông tin và văn
minh điện toán.
4.6. Các giai đoạn của quá trình thông tin
Sơ đồ:
Thu nhận Xử lý
thông tin thông tin
Nhiễu
Phản hồi Truyền đạt
thông tin thông tin
Hệ thống thông tin trong quản trị là một hệ thống rất phức tạp và bị chi
phối bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, như: Nguồn thông tin; nội dung
thông tin; các phương tiện truyền thông tin; người nhận thông tin. Các yếu tố
này ảnh hưởng đến độ chính xác của thông tin.
4.7. Truyền thông hiệu quả
Truyền thông trong quản trị là một bộ phận tất yếu của của các mối
quan hệ nhân sự. Người lãnh đạo với các cấp trung gian và nhân viên luôn trao
16
- đổi, quan tâm lắng nghe lẫn nhau sẽ làm sâu đậm thêm các mối quan hệ của
họ. Từ đó có thể xúc tiến công việc được thuận lợi và hiệu quả.
Trec Ker, một nhà giáo dục quản trị tiên phong đã đưa ra 6 tiêu chuẩn
truyền thông hiệu quả cho nhà quản trị công tác xã hội:
Mục đích của truyền thông phải rõ ràng và phải được người thực hiện
và người nhận hiểu rõ.
Cả tài liệu nói và viết phải rõ ràng và chỉ có một nghĩa diễn giải.
Truyền thông theo một loạt các hành động thích hợp, lôgic.
Truyền thông có trọng tâm và nội dung chọn lọc, lượng thông tin không
quá nhiều hay quá ít.
Truyền thông kịp thời, đúng lúc, hướng thông tin về phía người nhận.
Truyền thông nhiều chiều để thông tin đến được người nhận thuận lợi
nhất.
5. Ra quyết định trong quản trị.
5.1. Khái niệm, vai trò, chức năng của quyết định
5.1.1. Khái niệm
Quyết định quản trị là hành vi sáng tạo của nhà quản trị nhằm định ra
chương trình và tính chất hoạt động của tổ chức để giải quyết một vấn đề đã
chín muồi, trên cơ sở hiểu biết các quy luật vận động khách quan của hệ
thống thừa hành và việc phân tích các thông tin về hiện trạng của hệ thống.
5.1.2. Vai trò
Ra quyết định là việc làm rất quan trọng trong quản trị, đặc biệt trong
công tác xã hội, nơi mà các quyết định hàng ngày ảnh hưởng đến cuộc sống
của nhiều cá nhân, gia đình, nhóm và cộng đồng. Một quyết định đúng và kịp
thời sẽ tạo điều kiện để phát triển tổ chức, nâng cao tinh thần của nhân viên
và ảnh hưởng tới việc phân phối các dịch vụ xã hội. Ý nghĩa của việc ra quyết
định trong quản trị thể hiện ở một số khía cạnh sau:
Các quyết định luôn là sản phẩm chủ yếu và trung tâm của mọi hoạt
động quản trị. Không thể nói đến hoạt động quản trị mà thiếu việc ra các
quyết định, cũng như không thể nói đến việc kinh doanh mà thiếu dịch vụ và
hàng hoá;
Sự thành công hay thất bại trong các tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào
các quyết định của các nhà quản trị;
17
- Xét về mặt tổng thể thì không thể thay thế các quyết định quản trị
bằng tiền bạc hoặc bất cứ một loại tự động hoá bằng máy móc tinh xảo hay
công nghệ mới tiên tiến.
Mỗi quyết định quản trị là một mắt xích trong toàn bộ hệ thống các
quyết định của một tổ chức nên mức độ tương tác ảnh hưởng giữa chúng với
nhau là cực kỳ phức tạp và hết sức quan trọng. Không thận trọng trong việc ra
quyết định thường có thể dẫn tới những hậu quả khôn lường.
5.1.3. Chức năng
Định hướng: Quyết định quản trị thực hiện chức năng định hướng khi
nó quy định phương hướng vận động, phát triển của tổ chức trên cơ sở nghiên
cứu các lợi ích có tính đến các yêu cầu đòi hỏi của quy luật khách quan.
Đảm bảo thực hiện: Quyết định quản trị thực hiện chức năng bảo đảm
thực hiện khi nó xác định các nguồn vật chất cụ thể (lao động, tài chính và các
nguồn khác) cần thiết cho việc đạt tới các mục tiêu đã đề ra.
Hợp tác và phối hợp: Quyết định quản trị thực hiện chức năng hợp tác
và phối hợp khi nó xác định vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ phận khác
nhau trong tổ chức cùng tham gia vào việc thực hiện mục tiêu đề ra, gắn với
yêu cầu ràng buộc hoạt động của các bộ phận về thời gian và không gian.
5.2. Mục tiêu, nguyên tắc của quyết định
5.2.1. Mục tiêu
Mục tiêu của các quyết định là những đích cần đạt được trong các quyết
định quản trị. Nếu mục đích là cái đích cuối cùng cần phải đạt được, thì mục
tiêu là những cái đích cụ thể cần đạt được để đạt được mục đích cuối cùng.
Việc xác định đúng đắn mục tiêu ra quyết định trong quản trị cần bảo
đảm các yêu cầu cơ bản sau:
+ Phải rõ ràng, cụ thể;
+ Có tính khả thi;
+ Có thể kiểm soát (lượng giá) được;
+ Phải phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của các quy luật khách quan;
+ Phải nhằm giải quyết những vấn đề then chốt, quan trọng;
+ Phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế và khả năng của tổ chức.
Các mục tiêu của quyết định quản trị có thể được phân loại theo lĩnh
vực, theo cấp độ, theo giá trị, theo quy mô của các quyết định.
18
- 5.2.2. Nguyên tắc
Những nguyên tắc chung của quản trị cũng là những nguyên tắc về việc
ra quyết định, tuy nhiên trong việc ra quyết định người ta thường đặc biệt chú
trọng thực hiện các nguyên tắc:
+ Quyết đoán;
+ Khoa học;
+ Khách quan;
+ Thống nhất;
+ Gắn chặt quyền lợi với quyền hạn và trách nhiệm;
+ Không chồng chéo và tạo ra sự năng động sáng tạo trong thực hiện;
+ Kịp thời và hiệu quả.
Tuy nhiên, việc áp dụng các nguyên tắc vào từng trường hợp ra quyết
định cụ thể đòi hỏi nhà quản trị phải vận dụng sáng tạo, không cứng nhắc và
phải phù hợp với hoàn cảnh cụ thể.
5.3. Các loại quyết định
Theo tính chất của các quyết định: Các quyết định chiến lược và quyết
định tác nghiệp. Các quyết định chiến lược định hướng phát triển của tổ chức
trong một thời gian tương đối dài và có liên quan nhiều đến các hệ thống
ngang cấp và cả hệ thống cấp trên trực tiếp. Các quyết định tác nghiệp là
những quyết định có tính chất điều chỉnh nhằm khôi phục hoặc thay đổi từng
phần của quyết định đã được quy định.
Theo thời gian thực hiện: Có quyết định dài hạn, trung hạn và ngắn
hạn.
Theo phạm vi thực hiện: Có thể chia thành quyết định toàn diện, quyết
định bộ phận và quyết định chuyên đề.
Theo mức độ tác động tới các khía cạnh khác nhau của quá trình quản
trị: Có thể chia thành các quyết định về tổ chức và nhân sự, quyết định về
ngân sách, quyết định về phân phối các dịch vụ, các quyết định về thủ tục
hành chính .v.v.
5.4. Nội dung, hình thức ra quyết định
Nội dung: Các quyết định thường rất khác nhau về những nội dung cụ
thể mà nó cần giải quyết. Thông thường mỗi quyết định có một nội dung cụ
19
- thể. Tuy nhiên, các quyết định đều có những thành phần cơ bản và thông
thường bao gồm các yếu tố sau:
+ Căn cứ ra quyết định;
+ Quyết định về vấn đề gì hay về việc gì?
+ Hiệu lực của quyết định đối với ai, cái gì, ở đâu và thời gian?
+ Trách nhiệm, quyền hạn, quyền lợi, khen thưởng, xử phạt khi thực
hiện quyết định (nếu thấy cần phải được quy định rõ).
Hình thức ra quyết định: Bằng miệng, bằng văn bản, bằng nghị quyết,
quyết định, quy định .v.v.
5.5. Phương pháp và nghệ thuật ra quyết định
Phương pháp ra quyết định
+ Quyết định theo kiểu trực giác: Gắn liền với cảm giác hơn là lý trí.
Hành động được quyết định liên quan tới những gì mà người ta nghĩ là đúng
hoặc tốt nhất. Kiểu quyết định này dựa trên linh cảm, nhân viên xã hội thường
xuyên sử dụng phương pháp này, nhất là khi làm việc với thân chủ.
+ Quyết định theo kiểu phán đoán: Dựa vào kiến thức và kinh nghiệm
của người ra quyết định.
+ Quyết định theo kiểu giải quyết vấn đề: Là phương pháp bao hàm
những tình huống trong đó cần nhiều thông tin và cần nhiều thời gian để khảo
sát, phân tích và phản ánh. Phương pháp này dựa trên cách tiếp cận khoa học
và được sử dụng khi giải quyết những vấn đề phức tạp với nhiều sự lựa
chọn.
Nghệ thuật ra quyết định: Nghệ thuật ra quyết định thể hiện ở các
mặt sau: Tính sáng tạo, tính cân đối, tính hài hoà và tính hiệu quả.
Nghệ thuật ra quyết định liên quan đến phẩm chất cá nhân của người ra
quyết định; môi trường làm việc; cơ sở vật chất kỹ thuật và chế độ đãi ngộ.
5.6. Quy trình ra quyết định.
Sơ đồ mô hình ra quyết định hợp lý
Xác định Xác định Đưa ra
vấn đề các mục tiêu các giải pháp
(1) (2) (3)
20
nguon tai.lieu . vn