Xem mẫu
- Chương 4
CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI HÓA CÁ NHÂN
4.1 CÁ NHÂN
4.1.1 Khái niệm cá nhân
Cá nhân là một cá thể riêng biệt, độc lập hiện hữu đang hoạt động
trong một không gian xác định với những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể,
tồn tại trong các mối quan hệ và hoạt động xã hội1.
4.1.2 Đặc điểm của cá nhân theo quan điểm của K.Marx và Engels
Là thực thể sinh học xã hội, đó là sản phẩm của tự nhiên và mang bản
chất xã hội, cá nhân tồn tại thông qua hoạt động lao động sản xuất.
4.2 XÃ HỘI HÓA CÁ NHÂN
4.2.1 Một số quan niệm về “con người xã hội”
Trong lịch sử tư tưởng, có rất nhiều cách tiếp cận về vấn đề con
người:
- Theo quan niệm duy tâm, con người được giải thích từ sáng tạo và
chi phối của thánh thần và từ ý thức trừu tượng. Việc giải thích con người
theo quan điểm này không đem lại ý nghĩa tích cực trong cuộc sống.
- Theo quan niệm duy vật, từ thời Arixtốt đến các nhà duy vật
Pháp thế kỷ XVIII đều cho rằng, con người là một sinh vật - xã hội, “sinh
ra đã có tính xã hội”. Quan điểm này cho rằng, bản chất con người chỉ ở
mặt tự nhiên của nó. Ngay cả Phơbách cũng chỉ mới dừng lại ở chủ nghĩa
nhân bản tự nhiên, bởi vì theo nhận thức của ông, con người chỉ là một cá
nhân trừu tượng, một sinh vật thuần túy về sinh học.
- Theo quan điểm mácxít, xuất phát từ hoạt động thực tiễn của con
người, K.Marx cho rằng, bản chất con người chính là nhân cách. Nhân
cách ấy tìm thấy bản chất trong các mối quan hệ xã hội. Tuy nhiên, bên
cạnh đó, Marx vẫn thừa nhận tính sinh vật trong chỉnh thể người.
Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học:
+ Là một đơn vị sinh lý, con người là đối tượng được nghiên cứu
của các nhà sinh học và y học,…
1
Tạ Minh (2007). Xã hội học đại cương. NXB Đại học Quốc gia TP HCM, tr.51.
97
- + Những giá trị trong cuộc sống tinh thần của con người được
nghiên cứu trong đạo đức học, triết học, luật học,…
+ Là đơn vị tâm lý có những nhu cầu và trạng thái tâm lý phức
tạp, con người là đối tượng tìm hiểu của các nhà tâm lý học, phân tâm
học, thần kinh học,…
Xuất phát từ những lĩnh vực nghiên cứu khác nhau, các nhà khoa
học có những quan điểm khác nhau về bản chất con người. Hiện nay có
ba loại quan điểm khác nhau về vai trò của yếu tố sinh học và yếu tố xã
hội trong con người.
Xã hội là tập hợp số đông con người có những bản chất nhất định.
Từ khi sinh ra, con người chỉ là một sinh vật thuần thúy, song sống trong
xã hội con người đã học hỏi được kinh nghiệm xã hội và đã thoát khỏi
thế giới sinh vật thành con người xã hội. Do vật con người là một thực
thể pha trộn giữa yếu tố sinh vật và yếu tố xã hội, chúng ta phải nghiên
cứu quá trình biến hóa từ sinh vật thuần thúy thành con người xã hội.
Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học khác nhau.
Xã hội học quan niệm con người là đơn vị cơ bản cấu thành xã hội, là
một đơn vị nhỏ nhất của hệ thống xã hội, là một sinh vật có tư duy, sống
theo tổ chức xã hội. Sống trong xã hội, con người có bản chất nhất định
và khi phát ra ngoài xã hội, thể hiện là nhân cách cá nhân. Nhân cách là
bộ mặt xã hội của tâm lý, là tổng thể các thuộc tính tâm lý cá nhân vừa
có ý nghĩa xã hội, vừa đặc trưng cho tính cá nhân. Người có nhân cách
được coi là một thành viên của xã hội, chịu sự chi phối của các mối quan
hệ xã hội, đồng thời là chủ thể hoạt động có ý thức của xã hội. Bản chất
con người thể hiện ở các yếu tố sau:
Trước hết, con người là sinh vật cao cấp nhất hành tinh, có bản
năng sinh tồn duy trì nòi giống. Gọi là bản năng vì chúng tự nhiên hình
thành trong qá trình tiến hóa lâu dài của loài người, nằm trong vô thức.
bản năng sinh tồn dẫn đến sự tham lam, tự hữu, tham sống sợ chết, đấu
tranh hoặc nương tựa vào kẻ khác để bảo vệ mình,… Bản năng duy trì
nòi giống kích thích sinh dục, tạo nên cảm xúc và nhu cầu gắn bó với
người khác giới v.v. Học thuyết phân tâm học của S.Freud (nhà tâm lý –
y học Áo, 1859-1939) đã quá nhấn mạnh đến bản năng sinh tồn của con
người. Luận điểm cơ bản của Freud tách con người thành ba khối: cái ấy
(cái vô thức), cái tôi và cái siêu tôi. Cái ấy bao gồm các bản năng vô
thức: ăn uống, tình dục, tự vệ. Trong đó bản năng tình dục giữ vai trò
trọng tâm quyết định toàn bộ đời sống tâm lý và hành vi của con người.
Cái tôi – con người thường ngày – con người ý thức, tồn tại theo nguyên
tắc hiện thực. Cái tôi ý thức là cái tôi giả hiệu, cái tôi bề ngoài của cái
nhân lõi bên trong “cái ấy”. Cái siêu tôi là cái siêu phàm, “cái tôi lý
98
- tưởng” không bao giờ vươn tới được và tồn tại theo nguyên tắc kiểm
duyệt, chèn ép. Như vậy phân tâm học đã đề cao quá đáng cái bản năng
vô thức, dẫn đến phủ nhận ý thức, phủ nhận bản chất xã hội lịch sử của
con người2.
Do nghiên cứu từ nhiều khía cạnh khác nhau của đời sống xã hội,
các nhà xã hội học cũng có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất con
người.
- Quan niệm của các nhà xã hội học theo thuyết sinh hóa
Quan niệm này cho rằng, yếu tố sinh học quyết định sự hình thành
hành vi, tích cách của con người. Tính di truyền ảnh hưởng lớn tới hành vi
của con người. Họ tin ở sự tồn tại của cái gọi là bản năng con người. Họ
cho rằng, sự tổng hòa của những tố chất di truyền hay những khuynh
hướng di truyền xác định hành vi của con người cụ thể. Phía đại diện cho
quan điểm này cho rằng, con người như là cá thể sinh vật đối lập với xã
hội và xem sức mạnh của con người là sức mạnh khả năng vô thức, trong
đó, đam mê tình dục giữ vai trò chủ đạo. Quan điểm này không thấy được
khả năng của con người sử dụng những biểu tượng và lập luận lôgíc, thích
nghi cao để nắm được những kiểu hành vi nhất định, tạo nên thể chế xã
hội, điều hòa việc sử dụng hoặc vượt qua những nhân tố sinh học.
- Quan niệm của các nhà xã hội học theo thuyết quyết định luận
xã hội học
Quan niệm này cho rằng, nhân cách được hình thành trên cơ sở đa
số những sự tác động của con người với thế giới xung quanh. Nó là sản
phẩm của xã hội và được hình thành trên cơ sở của mối quan hệ qua lại
giữa con người với con người. Đại biểu cho quan niệm này là C. H.
Cooley ; G. Mead,…
- Bên cạnh quan niệm sinh học hóa cũng như quyết định luận xã
hội, nhiều nhà xã hội học đã nhìn nhận con người như một chỉnh thể
trong sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó. Theo
Tsunesaburo Makiguchi: “khái niệm người không chỉ bao hàm một thực
thể vật chất, cảm quan, hữu hình mà còn bao gồm một khía cạnh tâm linh
khác với thể chất, nhưng lại tồn tại trên cơ sở thể chất ấy”.
Theo Giôhan Gôtlíp Phíchtơ: “Con người khác với loài vật ở chỗ,
có khả năng suy tư trừu tượng, có thể quyết định và lựa chọn. Con người
là con vật tự điều khiển lấy mình. Con người có thể làm các dự án, trù
liệu, tính toán cho tương lai, suy nghĩ về những hoạt động và những phản
2
Lương Văn Úc (2009). Giáo trình xã hội học. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Bộ
môn Tâm lý xã hội học. NXB Đại học Kinh tế Quốc dân. Trang 167-168.
99
- ứng của mình, chịu chách nhiệm về hành vi của mình và có khả năng
phát triển ý thức trách nhiệm với người khác”.
+ Nếu trong định nghĩa của Makiguchi, tác giả lấy chỉnh thể sinh
học - xã hội làm điểm xuất phát cho khái niệm con người thì trong định
nghĩa của Phíchtơ, điểm xuất phát lại nặng về những gì con người khác
với động vật, vượt lên động vật.
+ Con người xuất hiện chỉ có thể trên cơ sở những quy luật tiến
hoá hữu cơ và đồng thời với những quy luật xã hội, vận động sinh học
gắn liền với vận động xã hội trong chỉnh thể người. Đối với quá trình
phát sinh, phát triển và hoàn thiện ở một cá thể thì những yếu tố sinh học
và yếu tố xã hội tác động không giống nhau ở từng thời kỳ trưởng thành.
“Yếu tố sinh học và yếu tố xã hội không phải là song song tồn tại trong
con người mà làm môi giới cho nhau, thâm nhập vào nhau và in dấu lên
toàn bộ hoạt động sống của con người”.
Tuy nhiên khi nghiên cứu con người, nhà xã hội học mặc dù thừa
nhận mặt sinh học của con người nhưng cái chính vẫn tập chung tìm hiểu
khía cạnh mang tính xã hội của con người. Song khác với các nhà khoa
học khác, các nhà xã hội học xem xét con người trong mối tương tác giữa
con người với con người, giữa con người với nhóm xã hội và xã hội nói
chung. Chính vì vậy mà Phíchtơ cho rằng, “con người được gọi là con
người xã hội theo nghĩa một con người vừa có khuynh hướng kết hợp với
người khác mà cũng có nhu cầu tương quan với người khác”. Có nghĩa
là, nhà xã hội học đã xem xét cách thức con người liên lạc với đồng loại
của nó như thế nào.
4.2.2 Khái niệm xã hội hóa
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau của các nhà xã hội học khi bàn
về xã hội hóa:
Xã hội hóa bao gồm tất cả quá trình tiếp diễn văn hóa giao tiếp, học
hỏi, qua đó cá nhân con người phát triển bản chất xã hội và có khả năng
tham gia vào đời sống xã hội.
Xã hội hóa là quá trình trong đó cá nhân con người học hỏi và nhập
tâm suốt đời vào các yếu tố của môi trường văn hóa, xã hội, hòa nhập
chúng vào cấu trúc nhân cách của anh ta dưới ảnh hưởng của các tác
nhân xã hội quan trọng và những kinh nghiệm cá nhân. Do đó làm anh ta
thích nghi với môi trường xã hội, nơi anh ta sinh sống.
Xã hội hóa là quá trình tương tác giữa cá nhân và xã hội, trong đó
những cá nhân học hỏi và thực hành những tri thức, kỹ năng và phương
pháp cần thiết để hội nhập với xã hội.
100
- Xã hội hóa là quá trình theo đó con người học cách thích ứng với
xã hội và tuân thủ các quy tắc xã hội. Quá trình này cho phép xã hội luân
chuyển nền văn hóa của mình từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Xã hội hóa là quá trình mà qua đó cá nhân học hỏi được cách sống
và phát triển khả năng đóng các vai trò xã hội vừa với tư cách là một cá
thể vừa với tư cách là thành viên của nhóm.
Xã hội hóa tức là những con đường mà bằng cách đó con người có
được những kinh nghiệm và hiểu biết, nắm vững những mục đích phù
hợp với những vai trò xã hội của mỗi con người. Có hai mục đích: tạo ra
những mối liên hệ xã hội của chúng ta trên cơ sở những vai trò xã hội và
đảm bảo sự tồn tại xã hội nhờ sự lĩnh hội những quan niệm và mâu thuẫn
hành vi bởi những thành viên mới của xã hội.
Tất cả những định nghĩa trên đều có điểm chung như sau:
Xã hội hóa trước hết là quá trình tương tác giữa cá nhân và xã hội,
qua đó cá nhân học hỏi, lĩnh hội, tiếp nhận nền văn hóa của xã hội như
khuôn mẫu tác phong xã hội, chuẩn mực giá trị văn hóa xã hội để hòa
nhập vào xã hội cũng như đáp ứng các kỳ vọng của xã hội.
Trong thực tế, xã hội hóa là quá trình tương tác giữa cá nhân và xã
hội. Nhưng khi nói đến xã hội hóa người ta nhấn mạnh quá trình con
người tự học hỏi, thực hành một cách tích cực những tri thức, kỹ năng,
kỹ xảo của xã hội để từ đó hội nhập với xã hội và giữ đúng vai trò nhất
định của cá nhân do xã hội phân công.
4.2.3 Quá trình xã hội hóa và các dạng thức xã hội hóa
Xã hội hóa như là diễn tiến xã hội liên tục: Theo Joseph H. Fischer,
xã hội hóa mô tả theo hai quan niệm:
- Quan niệm khách quan: xã hội ảnh hưởng tới cá nhân.
- Quan niệm chủ quan: cá nhân đáp ứng lại xã hội.
Theo quan niệm thứ nhất, xã hội hóa là diễn tiến theo đó xã hội
truyền văn hóa của mình từ thế hệ này qua thế hệ tiếp theo và làm cho cá
nhân thích ứng với những nếp sống sinh hoạt được chấp nhận và được
tán thành trong một đời sống có tổ chức. Có nghĩa là, nhiệm vụ của xã
hội hóa là truyền thống và phát triển những kỹ năng, kiến thức mà cá
nhân cần tới, truyền đạt những hệ thống giá trị văn hóa xã hội và trang bị
cho cá nhân vai trò nhất định bảo đảm cho sự duy trì xã hội và văn hóa.
Theo quan niệm thứ hai, xã hội hóa là một quá trình cá nhân đang
thích ứng với những người xung quanh, liên tục thực hiện để dần dần
nhập vào xã hội trong một nền văn hóa và xã hội nhất định. Có nghĩa đó
101
- là quá trình con người học hỏi khi tiếp xúc với xã hội trong mối tương
quan xã hội.
Từ các quan niệm trên, chúng ta thấy xã hội hóa là sự thống nhất
đối lập giữa hai khuynh hướng:
- Tiêu chuẩn hóa, được thể hiện trong sự cố gắng của cá nhân
muốn giống như những người khác, để thể hiện sự nắm vững những
phương pháp giao tiếp chung và hoạt động chung.
- Cá thể hóa, được thể hiện trong sự cố gắng để hình thành “cái
tôi của mình”, để triển khai những phương pháp độc đáo của sự giao tiếp
và hoạt động.
Xã hội hóa diễn ra như thế nào? Xã hội hóa thành công được xác định
bởi ba yếu tố: sự chờ đợi, sự thay đổi hành vi, sự cố gắng đến khuôn phép:
- Sự chờ đợi thể hiện ở chỗ những người trong nhóm gia đình,
bạn bè, nhà trường,… mong đợi ở cá nhân có phương thức ứng xử phù
hợp với các mô hình, tác phong của họ. Đồng thời, trong quá trình tương
tác xã hội, cá nhân cũng mong muốn học hỏi những mô hình, tác phong
mà họ cho là phù hợp với vai trò của mình.
Như vậy, trong quá trình tương tác xã hội, các cá nhân dần dần thay
đổi hành vi của mình sao cho phù hợp với chính vai trò của mình.
Xã hội như là lực lượng mạnh mẽ và hùng hậu. Các cá nhân cố
gằng vươn tới sự khuôn phép, loại trừ bớt đi những hành vi ứng xử
không phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Điều này được giải thích bởi hai
nguyên nhân:
- Khả năng sinh học hạn chế của con người.
- Những hạn chế do nền văn hóa.
Theo bản chất của mình, xã hội hóa là quá trình tác động nhiều
hướng khác nhau mang tính hai mặt, phản ánh sự tác động qua lại giữa
nhân tố sinh học và văn hóa, giữa những người thực hiện xã hội hóa và
những người bị xã hội hóa.
Các dạng thức xã hội hóa:
- Xã hội hóa trẻ em
Theo Joseph H.Fichter, hai diễn tiến quan trọng nhất của học hỏi xã
hội là sự bắt chước và sự ganh đua. Sự bắt chước không chỉ là hành vi
của trẻ em mà còn thể hiện ở người lớn. Sự ganh đua là một diễn tiến
kích thích trong quá trình tương tác xã hội cho thấy con người có khuynh
hướng học hỏi theo khuôn mẫu tác phong đã được xã hội chấp nhận và
loại bỏ cái không được chấp nhận.
102
- - Xã hội hóa người lớn
Gold.R.L cho rằng, xã hội hóa người lớn gắn liền với sự từ chối
dần dần những quan niệm ấu trĩ trẻ thơ.
Sau này, các nhà xã hội học bắt đầu nghiên cứu xã hội hóa người
già. Nhưng một số người lại cho là, những người già không có những vai
trò nhất định một cách rõ ràng. Chẳng hạn ở Mỹ, Rozốp không công
nhận xã hội hóa người già ở Mỹ và coi đó là không có hiệu quả.
Những đặc điểm khác nhau của xã hội hóa người lớn và trẻ em
Brim phân biệt xã hội hóa người lớn và trẻ em bằng những đặc
điểm sau:
+ Xã hội hóa người lớn - là sự thay đổi hành vi bên ngoài, còn
trong xã hội hóa trẻ em diễn ra hình thành định hướng giá trị.
+ Những người lớn có khả năng đánh giá những chuẩn mực, còn
trẻ em có thể lĩnh hội được chúng.
+ Xã hội hóa người lớn có mục đích là giúp cho con người lĩnh
hội được những thói quen nhất định, còn xã hội hóa trẻ em chỉ ở mức độ
động chạm đến môi trường lý do hóa.
Như vậy, xã hội hóa chính là quá trình con người học cách thể hiện
vai trò xã hội của mình trong quá trình gia nhập vào xã hội. Quá trình xã
hội hóa phải xử lý mối tương tác giữa yếu tố chủ quan và yếu tố khách
quan của con người và xã hội. Quá trình xã hội hóa là quá trình bản thân
cá nhân tác động vào xã hội diễn ra trên lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội,
nhu cầu của cá nhân và nhu cầu xã hội. Quá trình xã hội hóa luôn luôn
nảy sinh sự thống nhất và xung đột giữa cá nhân và xã hội. Quá trình xử
lý nó là quá trình đào tạo ra con người. Quá trình xã hội hóa diễn ra từ
thấp đến cao qua các giai đoạn nhất định, từ giai đoạn đầu khi đứa trẻ
bước vào đời cho đến khi con người ra đi ở giai đoạn cuối. Quá trình đó
là quá trình con người học cách thích ứng với xã hội, tuân thủ các nguyên
tắc, phong tục tập quán, là quá trình luân chuyển nền văn hóa từ thế hệ
này đến thế hệ khác để giữ gìn xã hội và văn hóa.
4.2.4 Những yếu tố tác động đến xã hội hóa
Gia đình: là môi trường xã hội hóa có tầm quan trọng chính yếu,
bởi vì quá trình xã hội hóa của một người từ những năm tháng đầu tiên
của cuộc đời có ảnh hưởng quyết định tới những thái độ và hành vi khi
đã lớn. Cho nên gia đình được coi là nhóm người đầu tiên mà mỗi cá
nhân xã hội phải phụ thuộc vào. Gia đình là khuôn khổ cần thiết cho sự
phát triển của đứa trẻ, làm cho sự trưởng thành sinh học và những mối
103
- liên hệ của nó phù hợp với môi trường xã hội. Đó là giai đoạn xã hội hóa
tự nhiên đầu tiên. Xã hội hóa thông qua tình cảm và bằng tình cảm là đặc
trưng riêng của gia đình. Ở những đứa trẻ sơ sinh, những mối quan hệ với
người lớn - những người quan tâm đến chúng, được thiết lập một cách
chặt chẽ hơn. Đó là cha mẹ, anh chị em, những người thân và bạn bè của
gia đình. Những người này là những đại diện cơ bản của xã hội hóa trong
cuộc sống đứa trẻ. Mục đích của xã hội hóa trong giai đoạn này là sự
hình thành ở đứa trẻ lý do hóa trong mối ràng buộc với những người
khác, thể hiện ở lòng tin, sự vâng lời và mong muốn làm họ vui lòng.
Nhà trường: là cơ quan, môi trường xã hội hóa chính yếu đối với
tuổi trẻ. Đây là thiết chế được lập ra một cách có chủ định để phổ biến
những kỹ năng và kiến thức môn học mà còn tiếp thu cả những quy tắc
và cách thức quy định hành vi, cả cách ứng xử quan hệ với giáo viên và
các bạn học.
Quá trình xã hội hóa mà học sinh tiếp thu ở trường do vậy không
chỉ liên quan đến việc tiếp thu những kỹ năng quy định về kiến thức mà
còn cả những kỹ năng xã hội khác. Thí dụ, ở đó trẻ học được cách sống
của nhóm bạn và cách làm sao đáp ứng được những người có uy quyền.
Hiện nay đang có sự bất cập giữa những yêu cầu xã hội và nội dung
giáo dục của trường học. Thông thường, trường học chủ yếu chỉ truyền thụ
những tri thức khoa học hơn là truyền thụ những kỹ năng lao động cho trẻ;
và những tri thức và kỹ năng của trẻ nhận được ở trường học có khi không
ăn khớp với yêu cầu cuộc sống độc lập sau này của chúng. Xã hội hóa đặc
biệt chú trọng đến vai trò của sự giao tiếp giữa thầy và trò ở trường vì đó là
cơ sở của những trao đổi làm phong phú tri thức và nhân cách của đứa trẻ,
trong đó người thầy giáo giữ vị trí chủ đạo không phải như một quyền uy
độc đoán mà như một người hướng dẫn các giá trị xã hội.
Xã hội: Xã hội là một trong những môi trường xã hội hóa cá nhân
quan trọng. Ở đó các cá nhân học cách trải nghiệm, ứng dụng các kỹ
năng vào thực tiễn và tự hoàn thiện nhân cách của mình. Các cá nhân
bước vào xã hội với rất nhiều cơ hội cũng như thách thức. Các cá nhân
học hỏi và trau dồi kỹ năng, đúc rút kinh nghiệm để hoàn thiện chính
mình, thích nghi với những nhu cầu đòi hỏi từ thực tiễn cuộc sống. Quá
trình trải nghiệm trong xã hội sẽ giúp các cá nhân trưởng thành hơn, rèn
luyện ý chí, tính bền bỉ “đi một ngày đàng học một sàng khôn”. Xã hội là
môi trường xã hội hóa mà cá nhân không ngừng học tập, không ngừng
rèn luyện, bởi bạn có thể tốt nghiệp bất cứ trường học nào, nhưng trường
đời bạn không thể tốt nghiệp được, ở đó bạn luôn luôn vận động, học hỏi.
Các phương tiện thông tin đại chúng: Trong xã hội hiện đại, ở một
mức độ nhất định, trẻ em lĩnh hội được vai trò và những quy định hành vi
104
- trong xã hội từ những chương trình truyền hình, báo chí, phim ảnh và
những phương tiện thông tin đại chúng khác. Các phương tiện thông tin
đại chúng có tác động đến con người, thể hiện là sự tác động sâu sắc tới
quá trình xã hội hóa cá nhân, tạo điều kiện cho sự hình thành những giá
trị nhất định và hình mẫu nhất định của hành vi.
Tuy nhiên, truyền hình cũng có thể tạo ra những kết quả tiêu cực
đến quá trình xã hội hóa. Một số chương trình tác động tai hại đến thế hệ
trẻ, kích động những hành vi không được kiềm chế của trẻ em, lôi kéo trẻ
em bỏ những giờ học bổ ích.
Nhóm bạn cùng trang lứa (peer -group): mỗi lứa tuổi khác nhau có
những ảnh hưởng tâm, sinh lý khác nhau. Bạn cùng trang lứa đóng vai
trò cực kỳ quan trọng trong việc hình thành nhân cách và tố chất của mỗi
con người, chúng ta thường nghe nói: đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma
mặc áo giấy; hay, hãy cho tôi biết bạn anh là ai, tôi sẽ cho anh biết anh là
người như thế nào,.. nhóm bạn bè trang lứa thường chi phối, bắt chước và
học hỏi nhau rất nhanh. Các nhóm bạn bè sẽ góp phần hình thành những
tố chất, hành vi, thậm chí là cả những kinh nghiệm sống cho nhau một
cách nhanh nhất và sát thực nhất.
4.2.5 Mục đích của xã hội hóa cá nhân3
Trang bị cho cá nhân những kỹ năng cần thiết để họ hòa nhập vào
xã hội mà họ đang sống.
Hình thành ở cá nhân một khả năng thông đạt và phát triển khả
năng: nói, đọc, viết, diễn tả những tư duy và chính kiến của mình trước
xã hội.
Làm cho cá nhân thấm nhuần các giá trị xã hội, các chuẩn mực
sống, các quy tắc sinh hoạt và hấp thụ niềm tin của xã hội.
4.3 VỊ THẾ XÃ HỘI (ĐỊA VỊ XÃ HỘI – SOCIAL STATUS)
4.3.1 Khái niệm vị thế xã hội
Vị thế xã hội hay địa vị xã hội là một trong những khái niệm cơ bản
trong nghiên cứu xã hội học, ở đó là việc xác định hay định vị một cá nhân
trong một đơn vị xã hội nhất định. Các nhà xã hội học đã đưa ra nhiều
quan niệm khác nhau về định nghĩa, khái niệm thế nào là “vị thế xã hội”.
- Khái niệm “vị trí” hay “vị thế” (status) được R. Linton (1936)
định nghĩa như một “vị trí trong hệ thống xã hội”. Hay chúng ta có thể
3
Tạ Minh (2007). Xã hội học đại cương. NXB Đại học Quốc gia TP HCM. Trang 53.
105
- nói ngược lại là: xã hội là một mạng lưới được dệt nên bởi các vị trí và
vai trò.4
- Trong xã hội học Mỹ, thuật ngữ “social status” (vị thế xã hội)
thường được hiểu theo hai nghĩa: (1) một vị trí “position” cụ thể nào đó
trong cấu trúc xã hội, chẳng hạn như vị trí người cha, vị trí một luật sư
(mỗi vị trí này tương ứng với một vai trò, như đã nói trên); (2) một vị thế
xã hội bao quát hơn (global status), theo nghĩa là toàn bộ những đánh giá
của xã hội (social evaluations) đối với một cá nhân hay một nhóm – đánh
giá về mặt uy tín, thế lực, trọng vọng, danh dự (có lẽ tương với khái niệm
“công danh sự nghiệp”). Hiểu theo nghĩa thứ hai này, chữ “social status”
có lẽ cần được dịch chính xác hơn là “địa vị xã hội”. Như vậy, địa vị xã
hội [vị thế xã hội] của một người là cái mà xã hội công nhận nơi người
này một cách tương đối tổng quát xét trong thang bậc xã hội. G.Lenski,
cho rằng có bốn nhân tố quan trọng nhất cấu tạo nên địa vị xã hội trong
xã hội Mỹ, đó là: thu nhập, uy thế nghề nghiệp, trình độ học vấn và
chủng tộc.5
- Theo I. Robertsons, vị thế là một vị trí xã hội. Mỗi vị thế quyết
định chỗ đứng của một cá nhân hay nhóm xã hội trong kết cấu xã hội
cung như phương thức quan hệ, ứng xử của cá nhân và nhóm xã hội đó
với xã hội xung quanh.6
- Theo J.H. Fischer, vị thế là vị trí của một người đứng trong cơ
cấu tổ chức xã hội theo sự thẩm định, đánh giá của xã hội. Vị thế xã hội
là vị trí (địa vị) hay thứ bậc mà những người đang sống chung với một
người nào đó dành cho anh ta một cách khách quan.7 Ngoài ra Fischer đã
chỉ rõ rằng “Vị trí then chốt chính là “cửa sổ” lớn nhất mà cá nhân mở
ra cho bên ngoài tìm hiểu về mình và chính qua cái cửa sổ đó mà xã hội
sẽ quan sát và giải thích về những vị thế khác của anh ta”.8
Như vậy, ở đây ta thấy địa vị xã hội hay vị thế xã hội là một khái
niệm khách quan, nó không phụ thuộc vào chủ thể nắm giữ vị thế ấy
trong tổ chức của hệ thống xã hội mà anh ta đang sinh sống. Ở đó là sự
sắp xếp, thẩm định hay đánh giá của xã hội dành cho cá nhân và nói đến
4
Trần Hữu Quang (1998), Sđd, tr.39.
5
Trần Hữu Quang (1998), Sđd, tr.45-46.
6
Nguyễn Đình Tấn (2005), Sđd, tr.44.
7
Nguyễn Đình Tấn (2005), Sđd, tr.44.
8
Nguyễn Minh Hòa (1997). Xã hội học những vấn đề cơ bản. Trường Đại học Khoa
học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP HCM, tr.54.
106
- vị thế xã hội là nói đến vị trí, thứ bậc cao thấp trong thang bậc xã hội của
cộng đồng mà cá nhân đó tương tác.
4.3.2 Đặc điểm của vị thế xã hội
Một số đặc điểm cần lưu ý khi nghiên cứu vị thế xã hội:9
- Vị thế xã hội không nhất thiết gắn với người có uy tín và địa vị
xã hội cao.
- Vị thế không thuần túy phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của mỗi
người về chính mình.
- Vị thế của mỗi người cần đối chiếu hay gắn với những tiêu
chuẩn khách quan của xã hội.
- Vị thế của mỗi người là vị trí xã hội mà những người đang sống
trong cộng đồng với người đó dành cho họ, đánh giá hay suy tôn họ. Đây
là tiêu chuẩn khách quan nằm ngoài mong muốn chủ quan của con người.
- Vị thế xã hội của mỗi người có tính ổn định tương đối; nó không
đơn giản phụ thuộc vào những ý kiến đánh giá thay đổi thất thường của
những người xung quanh.
Ba đặc trưng cơ bản mà thông qua đó vị thế xã hội của mỗi người
được thể hiện, đó là: quyền lực xã hội, quyền lợi và trách nhiệm.10
- Quyền lực xã hội là quyền lực của một vị thế xã hội nào đó được
xã hội thừa nhận hoặc trao cho cá nhân để thực hiện vai trò của mình
trong xã hội.
- Quyền lợi xã hội là những điều kiện vật chất và tinh thần mà
mỗi vị thế xã hội có được từ xã hội.
- Trách nhiệm xã hội là những quy định của xã hội đối với kết quả
và hậu quả của việc thực hiện quyền lực xã hội ở mỗi vị thế xã hội nhất
định.
4.3.3 Nguồn gốc và các yếu tố tạo thành vị thế xã hội
- Dòng dõi
- Của cải
- Nghề nghiệp
- Chức vụ và quyền lực do chức vụ đó mang lại
9
Nguyễn Đình Tấn (2005), Sđd, tr.45.
10
Lương Văn Úc (2009). Giáo trình xã hội học. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Bộ
môn Tâm lý xã hội học. NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, tr.186-187.
107
- - Trình độ học vấn
- Cấp bậc, chức sắc trong tôn giáo, dòng họ, làng bản…
- Những đặc điểm về sinh lý, giới tính
Ở Mỹ người ta cho rằng có bốn yếu tố cấu thành nên vị thế xã hội
của cá nhân, bao gồm:
- Thu nhập
- Uy thế nghề nghiệp
- Trình độ học vấn
- Chủng tộc
4.3.4 Các loại vị thế xã hội
Trong việc phân loại vị thế xã hội tùy thuộc vào lát cắt mà người ta
có thể phân chia khác nhau, sau đây là cách phân chia theo một vài lát cắt
cơ bản:
- Căn cứ vào tình trạng tự nhiên và xã hội chúng ta có hai loại vị
thế: vị thế có sẵn [hay còn gọi là vị thế xuất thân, vị thế chỉ định] và vị
thế giành được.
+ Vị thế có sẵn [hay còn gọi là vị thế xuất thân, vị thế chỉ định], đó
là loại vị thế xã hội mà bất kỳ cá nhân nào cũng nhận được ngay
khi mới chào đời do nguồn gốc xuất thân từ cha mẹ của đứa trẻ
quyết định như tôn giáo, chủng tộc, sắc tộc, dòng dõi, gia thế,
nghề nghiệp…
+ Vị thế giành được, đó là những vị trí mà cá nhân có được khi đã
trưởng thành. Cá nhân giành được chúng bằng sự nỗ lực không
ngừng, bằng tài năng, học vấn, bằng sự chịu khó chăm chỉ và
không thể không tính đến cả cơ may và những thủ đoạn mà cá
nhân dung để đạt được vị thế xã hội đang nắm giữ.
- Căn cứ vào vai trò và tầm ảnh hưởng của từng vị thế mà người
ta cũng có thể phân chia thành vị thế then chốt và vị thế không then chốt.
+ Vị thế then chốt, còn gọi là vị thế chủ đạo (phụ thuộc vào hai yếu
tố: Do chính bản thân con người tạo ra và phụ thuộc vào trật tự ưu
tiên trong thang giá trị hiện hành), vị thế then chốt luôn đóng vai
trò chi phối, chế ước lên chính toàn bộ nhân cách xã hội của cá
nhân như J.H. Fischer đã từng đề cập và ông coi nó như “cửa sổ”
để cá nhân, xã hội đánh giá về vị thế xã hội của cá nhân đó.
+ Vị thế không then chốt, là những vị thế không giữ vai trò cơ bản, chủ
đạo trong việc quy định đặc điểm và hành vi xã hội của cá nhân.
108
- Bản thân mỗi cá nhân tồn tại trong xã hội đã là sự tổng hòa của
nhiều loại vị thế khác nhau và các vị thế này thường là hòa hợp với nhau,
tác động và bổ sung cho nhau. Tuy nhiên, vẫn có thể diễn ra tình trạng
xung đột, mâu thuẫn giữa các vị thế trong một cá nhân.
Ở tình trạng hòa hợp các vị thế sẽ là điều kiện thuận lợi để cá nhân
hoàn thành được vai trò xã hội của mình.
Ở tình trạng mâu thuẫn vị thế sẽ gây ra những rào cản để cá nhân
hoàn thành các vai trò được mong đợi của mình. Và người ta thường
dung thuật ngữ “status inconsistency”(mâu thuẫn giữa các vị thế) để chỉ
tình trạng không ổn định về mặt địa vị hay vị thế xã hội. Từ điểm này G.
Lenski đưa ra khái niệm “status crystallization” (kết tinh vị thế) để chỉ
tình trạng tương hợp giữa các vị thế. Khi gặp tình trạng mâu thuẫn giữa
các vị thế, người ta hoặc là mong muốn thay đổi về cơ bản hệ thống phân
tầng xã hội, hoặc là cố gắng “kết tinh” các vị thế của mình lại với nhau
cho nhất quán. Thông thường tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp là ba loại vị
thế dễ xảy ra mâu thuẫn nhất trong một xã hội.11
Công trình nghiên cứu của Miyamoto và Dornbusch (1956), đã
chứng minh cho thấy là việc tự đánh giá của mỗi người về địa vị xã hội
của mình thực ra cũng phản ánh lại cách đánh giá của người khác về
mình. Họ đề nghị người điều tra lượng giá về chính mình và về những
người xung quanh trong nhóm của mình xét về mức thông minh, tính dễ
mến, sự thu hút và về mức độ tin cậy. Kết quả cho thấy cách lượng giá
của mỗi người về chính mình có hệ số tương quan rất chặt chẽ với cách
đánh giá của người khác về mình.12
4.3.5 Cơ chế sắp đặt vị thế xã hội
Mỗi xã hội đều có cơ chế sắp đặt vị thế xã hội, tức là mỗi cá nhân
có được vị thế xã hội cho bản thân bằng các cơ chế nhất định. Hiện nay
có ba cơ chế cơ bản sau để sắp đặt vị thế xã hội. Đó là, cơ chế tiến cử, cơ
chế bầu cử và cơ chế thi cử.
- Cơ chế tiến cử, là cơ chế trong đó một cá nhân được một cá nhân
hay tổ chức đề bạt với cấp trên bổ nhiệm vào một vị thế xã hội nào đó.
- Cơ chế bầu cử, là cơ chế trong đó cộng đồng lựa chọn một cá
nhân hoặc một nhóm người lãnh đạo cộng đồng bằng các hình thức bỏ
phiếu lựa chọn.
11
Trần Hữu Quang (1998), Sđd, tr.46.
12
Trần Hữu Quang (1998), Sđd, tr.46.
109
- - Cơ chế thi cử, là cơ chế trong đó người được bổ nhiệm vào vị
thế xã hội phải trải qua một kỳ thi giám định khả năng làm việc hoặc qua
một hội đồng giám định khả năng làm việc.
Trong bất kỳ xã hội nào người ta cũng sử dụng ba cơ chế trên, song
khuynh hướng sử dụng cơ chế ở các loại vị thế xã hội khác nhau có khác
nhau tùy thuộc vào bản chất của xã hội đó và tùy thuộc vào ưu nhược
điểm của mỗi loại cơ chế.
4.4 VAI TRÒ XÃ HỘI (SOCIAL ROLE)
4.4.1 Khái niệm vai trò xã hội
G.H. Mead (nhà xã hội học người Mỹ, thuộc trường phái lý thuyết
tương tác biểu trưng của Trường Đại học Tổng hợp Chicago), là người
đầu tiên đưa thuật ngữ Vai trò xã hội (Social role) vào trong khoa học lần
đầu tiên vào năm 1934. Thuật ngữ này bắt nguồn từ việc người diễn viên
đóng vai và diễn trò trên sân khấu. Có thể nói vai trò xã hội là khái niệm
để chỉ sự mong đợi xã hội đối với hành vi diễn xuất của một cá nhân
trong một tình huống xã hội cụ thể và trong một khung cảnh xã hội nhất
định.
- Theo Ralph Linton (1936), coi vai trò là những lối ứng xử đã
được quy định sẵn và áp đặt, tương ứng với những vị trí cụ thể nhất
định.13
- Theo Jean Stoetzel, “Vai trò như là tập hợp ứng xử của mỗi cá
nhân mà mọi người khác chờ đợi”.14
- Theo I. Robertsons, vai trò là tập hợp các chuẩn mực, hành vi,
nghĩa vụ và quyền lợi gắn với một vị thế nhất định.15
- Theo J.H. Fischer, sự phối hợp và tương tác qua lại của các
khuôn mẫu được tập trung thành một nhiệm vụ xã hội gọi là vai trò. Nói
một cách khác, vai trò là những hành động, hành vi ứng xử, những khuôn
mẫu tác tác phong mà xã hội chờ đợi, đòi hỏi một người hay một nhóm
xã hội nào đó phải thực hiện trên cơ sở vị thế của họ.16
Vai trò xã hội của một người có nghĩa là người đó phải đảm nhận
hay thể hiện đầy đủ các hành vi, nghĩa vụ, hệ thống chuẩn mực trên cơ sở
13
Trần Hữu Quang (1998), Sđd, tr.44.
14
Nguyễn Minh Hòa (1997), Sđd, tr.50.
15
Nguyễn Đình Tấn (2005), Sđd, tr.52.
16
Nguyễn Đình Tấn (2005), Sđd, tr.52-53.
110
- vị thế của người đó. Đồng thời họ cũng nhận được những quyền lợi xã
hội tương ứng với việc thực hiện vai trò của họ. Như vậy ta thấy rằng,
khái niệm vai trò xã hội có sự liên hệ gắn bó chặt chẽ với khái niệm vị
thế xã hội, hay có thể nói vị thế nào thì vai trò ấy. Trong suốt cuộc đời
của mình các cá nhân chiếm giữ nhiều vị thế khác nhau do đó họ cũng
phải diễn nhiều vai trò khác nhau, trong một thời điểm nào đó cá nhân
nắm giữ cùng lúc nhiều vị thế thì họ cũng đồng thời phải diễn nhiều vai
trò cùng một lúc.
Chúng ta có thể coi mỗi cá nhân hiện hữu trong xã hội chính là
hiện hữu qua các vai trò xã hội, và rằng các cá nhân khi thực hiện hành vi
giao tiếp với nhau chính là giao tiếp qua các vai trò xã hội và chỉ qua các
vai trò xã hội chúng ta mới có thể thực hiện được cái gọi là “quan hệ xã
hội”.17
4.4.2 Những vấn đề cần lưu ý khi nghiên cứu vai trò xã hội
Một vai trò xã hội có thể có nhiều mức độ biểu hiện, hay những
sắc thái khác nhau về khuôn mẫu tác phong.
Vai trò không chỉ bao gồm những khuôn mẫu tác phong biểu
hiện ra bên ngoài mà còn bao hàm cả những khuôn mẫu nội dung tinh
thần ở bên trong.
Nội dung của bất kỳ vai trò xã hội nào cũng luôn được liên hệ
với những vai trò xã hội khác.
Giới hạn của sự co giãn trong mức độ biểu hiện của vai trò. Mức
độ biểu hiện của vai trò có sự co giãn nhất định, nhưng mức độ co giãn
chỉ được chấp nhận đến một giới hạn nhất định, vượt khỏi giới hạn đó thì
sẽ dẫn đến sai lệch; có nghĩa là người ta sẽ không làm đúng vai trò của
mình nữa.
Căng thẳng và xung đột vai trò. Căng thẳng vai trò xảy ra khi
khi cá nhân thấy rằng vai trò không thích hợp và họ khó khăn trong việc
thực hiện vai trò đó, nhất là những vai trò được nhiều người mong đợi,
kỳ vọng quá nhiều. Xung đột vai trò xảy ra khi cá nhân cùng lúc chiếm
giữ hai hay nhiều vị thế, vai trò và khi cá nhân tham gia nhiều nhóm xã
hội khác nhau, họ phải đáp ứng những mong đợi của những nhóm xã hội
khác nhau, nhiều khi những mong đợi đó xung đột với nhau về lợi ích.
Vai trò và nhân cách. Theo J.H. Fischer, trên phương diện xã hội
học, nhân cách xã hội là toàn bộ những vai trò của cá nhân, nhân cách xã
hội chính là hệ thống toàn vẹn của những vai trò làm trung gian trong
17
Nguyễn Minh Hòa (1997), Sđd, tr.50.
111
- những nhóm, những đoàn thể, những tổ chức xã hội mà cá nhân thực
hiện những vai trò của mình.
Một người không chỉ có một vai trò mà có nhiều vai trò. Một
người nào đó tham gia vào bao nhiêu đoàn thể xã hội thì có bấy nhiêu vai
trò. Mức độ nhiều hay ít các vai trò phụ thuộc vào mức độ tham gia nhiều
hay ít của một người nào đó vào các đoàn thể, tổ chức xã hội.
Nghiên cứu vai trò cũng cần phân biệt giữa những vai trò chung
trừu tượng với vai trò cụ thể.
4.4.3 Các loại vai trò xã hội
a) Vai trò định chế (qua trường lớp)
Đây là loại vai trò mà khi cá nhân thực hiện nó buộc phải tuân theo
những diễn xuất theo những cách thức nhất định do một tổ chức chính
thức nào đó quy định và kèm theo đó là những biện pháp, chế tài. Các cá
nhân phải hành động theo những khuôn mẫu đã được vạch sẵn. Để đóng
được các vai trò chế định cá nhân thường phải trải qua những khóa học
tập, huấn luyện để có được những kiến thức và kỹ năng cần thiết mà vai
trò đó đòi hỏi.
b) Vai trò thông thường (không qua trường lớp)
Đây là loại vai trò mà chúng ta thường xuyên đóng và liên tục thay đổi
chúng trong đời sống thường ngày. Đối với loại vai trò này cá nhân không
cần phải trải qua học tập, tập huấn mà chỉ cần bắt chước, học hỏi một cách
đơn giản là có thể đóng được. Vai trò thường nhật là loại vai trò chiếm đại
đa số trong tổng số vai trò mà chúng ta đóng trong suốt cuộc đời.
c) Vai trò kỳ vọng
Là loại vai trò khi mà cá nhân đóng nó sẽ nhận được rất nhiều sự
mong đợi, niềm tin và hy vọng từ rất nhiều cá nhân, nhóm xã hội khác
gửi gắm vào vai trò đó và cá nhân có trách nhiệm đáp lại sự mong mỏi
đó. Có những vai trò mà khi cá nhân đóng nhận được sự mong đợi của cả
một cộng đồng, một quốc gia, một dân tộc.
d) Vai trò gán (bình bầu)
Là loại vai trò mà các cá nhân có được do một tổ chức xã hội chính
thức hay một nhóm người nào đó gán cho qua kết quả của một lựa chọn,
bình xét hay tôn vinh.
e) Vai trò tự chọn
Là loại vai trò mà cá nhân có thể lựa chọn theo ý muốn để đi đến
quyết định là đóng hay không đóng.
112
- Theo T. Parsons, thì có 5 dạng biểu hiện của vai trò, đó là:18
+ Một số vai trò đòi hỏi sự kiềm chế tình cảm khi thực hiện, trong
khi một số khác thì không.
+ Một số vai trò dựa trên vị thế, vị trí đã có sẵn.
+ Một số vai trò định hẹp còn một số khác lại được xác định rộng.
+ Một số vai trò đòi hỏi các cá nhân có thái độ ứng xử với mọi
người theo quy tắc chung. Ngược lại một số vai trò khác đòi hỏi phải đối
xử với người khác theo cách đặc thù vì những mối quan hệ xã hội đặc
biệt với họ.
+ Các vai trò xã hội khác nhau thì có động cơ xã hội khác nhau.
4.5 SO SÁNH VỊ THẾ VÀ VAI TRÒ
4.5.1 Sự giống và khác nhau trong mối quan hệ giữa vị thế và vai trò
Đều tồn tại trong chủ thể nhất định, nhưng giữa vị thế xã hội và vai
trò xã hội có sự khác nhau tương đối. Nếu vị trí xã hội (ở đây xét theo
khía cạnh địa vị xã hội) thường mang tính ổn định khá cao trong một thời
gian dài, thường được một tổ chức xã hội nào đó thừa nhận, thì vai trò xã
hội lại không ổn định mà luôn luôn có sự thay đổi tùy theo từng tình
huống xã hội và khung cảnh xã hội. Nếu địa vị xã hội trả lời cho câu hỏi:
anh là ai?, thì vai trò xã hội trả lời cho câu hỏi: anh cần diễn xuất như thế
nào? Cần phải làm gì? Trong tình huống đó, khung cảnh đó. Địa vị xã hội
có thể xem như một cái trục định vị cá nhân thì vai trò xã hội có thể được
xem như những biểu hiện đa dạng, phong phú quanh nó. Trong một số
thời điểm địa vị và vai trò chồng lên nhau, nhưng số đó không nhiều lắm,
bởi vì địa vị xã hội hữu hạn hơn nhiều so với vai trò xã hội.19
Vị thế và vai trò luôn gắn bó mật thiết với nhau. Không thể nói tới
vị thế mà không nói tới vai trò và ngược lại. Vai trò và vị thế là hai mặt
của một vấn đề.
Vai trò phụ thuộc vào vị thế (vị thế nào vai trò ấy). Theo lý thuyết
Nho giáo của Khổng Tử, mối quan hệ giữa vị thế và vai trò chính là vấn
đề “chính danh định phận”, có nghĩa là con người luôn phải vận động,
ứng xử theo cái danh, cái phận tức là vị trí xã hội của họ. “Quân quân,
thần thần, phụ phụ, tử tử” - Vua phải hành động ra vua, bề tôi phải hành
động ra bề tôi, cha ra cha, con ra con, vợ ra vợ, chồng ra chồng.
18
Lương Văn Úc (2009), Sđd, tr.189.
19
Nguyễn Minh Hòa (1997), Sđd, tr.55-56.
113
- Trong xã hội hiện đại ngày nay, chúng ta có thể chỉ ra vô số những
ví dụ minh chứng cho mối quan hệ này.
Một vị thế có thể có nhiều vai trò. Ví dụ: giáo sư đại học là một vị
thế, nhưng có thể thực hiện nhiều vai trò khác nữa.
Trong mối quan hệ giữa vị thế và vai trò thì vị thế thường ổn định
hơn, ít biến đổi hơn, còn vai trò thì động hơn hay biến đổi hơn.
Sự biến đổi của vai trò phụ thuộc vào sự biến đổi của vị thế, vị thế
biến đổi thì vai trò cũng biến đổi,… Sự biến đổi của vai trò phụ thuộc
vào sự biến đổi của vị thế qua mỗi giai đoạn cụ thể của từng cá nhân
cũng như nhóm xã hội.
Vai trò và vị thế thường thống nhất với nhau, song đôi khi cũng
gặp phải những mâu thuẫn, gây ra tình trạng xung đột giữa vị thế và vai
trò.
4.5.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến vị thế và vai trò xã hội
Theo Lensky, trong xã hội Mỹ, các yếu tố ảnh hưởng đến địa vị xã
hội của cá nhân là:
Yếu tố thu nhập
Yếu tố uy thế nghề nghiệp
Yếu tố trình độ học vấn
Yếu tố chủng tộc
Trong xã hội học, thì địa vị xã hội của các cá nhân phụ thuộc vào:
Sự đánh giá của cá nhân về bản thân mình và xã hội đánh giá
khả năng, trình độ của cá nhân
Những đặc trưng về tâm, sinh lý
Giới tính, tuổi, nghề nghiệp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, cơ
may, thâm niên,…
Tóm tắt phương pháp dạy và học
1. Phương pháp nêu vấn đề
2. Hướng dẫn sinh viên phương pháp nghiên cứu
3. Hướng dẫn sinh viên đọc và lấy tư liệu
4. Hướng dẫn sinh viên hệ thống hóa, tổng hợp và khái quát hóa.
114
- Câu hỏi hướng dẫn ôn tập chương 4
1. Hành động của cá nhân chịu sự chi phối của bản năng, ý thức và
tiềm thức như thế nào?
2. Từ ba cách tiếp cận bản chất con người dẫn đến ba quan niệm xã hội
hóa như thế nào?
3. Các môi trường biến hóa con người như thế nào?
4. Tìm hiểu về con người và bản chất của con người theo quan điểm xã
hội học.
5. Các giai đoạn phát triển của cá nhân trong cuộc đời mình, nắm vững
các đặc điểm trong từng giai đoạn.
6. Vai trò của xã hội hóa cá nhân trong thời đại ngày nay. Vì sao nói
chúng ta phải học tập và làm theo tấm gương, tư tưởng, đạo đức Hồ
Chí Minh?
7. Tìm hiểu về vai trò của người cha, người mẹ, người con trong gia
đình. Liên hệ bản thân?
8. Vị trí xã hội thể hiện trong thực tế như thế nào?
9. Tại sao nói xã hội hóa là quá trình các cá nhân lĩnh hội nền văn hóa
xã hội để hình thành nhân cách cá nhân?
10. Tại sao nói xã hội hóa là quá trình thiết lập vị trí, vị thế, vai trò xã
hội cho các cá nhân trong các tình huống xã hội cụ thể.
Danh mục tài liệu tham khảo và trích dẫn
1. Bùi Quang Dũng (2004). Nhập môn lịch sử xã hội. Viện Khoa học
Xã hội Việt Nam. Viện Xã hội học. NXB Khoa học Xã hội.
2. Vũ Cao Đàm (2007). Phương pháp luận nghiên cứu khoa học. NXB
Giáo Dục.
3. Endruweit.G và Trommsdorff.G (2002). Từ điển Xã hội học. NXB
Thế Giới, Hà Nội.
4. Phạm Tất Dong. Nguyễn Sinh Huy. Đỗ Nguyên Phương (1995). Xã
hội học đại cương. Bộ Giáo dục và Đào tạo. Viện Đại học Mở Hà
Nội. Tủ sách đại học đào tạo từ xa Hà Nội.
5. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (2008). Xã hội học. NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội.
115
- 6. Nguyễn Duy Hới (2002). Giáo trình Nhập môn xã hội học. Trường
Đại học Huế. Trung tâm đào tạo từ xa đại học Huế. NXB Giáo Dục.
7. Nguyễn Minh Hòa (1997). Xã hội học những vấn đề cơ bản. Trường
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP HCM.
8. Nguyễn Minh Hòa (1993). Một số phương pháp và kỹ thuật nghiên
cứu xã hội học ứng dụng. NXB Khoa học Xã hội.
9. Lương Văn Úc (2009). Giáo trình xã hội học. Trường Đại học Kinh
tế Quốc dân. Bộ môn Tâm lý xã hội học. NXB Đại học Kinh tế Quốc
dân.
10. Lương Văn Út (2008). Hướng dẫn học tập môn xã hội học. Trường
Đại học Kinh tế Quốc dân. Bộ môn Tâm lý xã hội học. NXB Đại học
Kinh tế Quốc dân.
11. Ngọ Văn Nhân (2008). Tập bài giảng xã hội học. Trường Đại học
Luật Hà Nội. NXB Công an Nhân dân.
12. Tạ Minh (2007). Giáo trình xã hội học đại cương. NXB Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
116
nguon tai.lieu . vn