Xem mẫu

  1. Chương 7 CUNG - CÇU TIÒN TÖ Vµ L¹M PH¸T Đối với bất kỳ nền kinh tế nào, việc điều tiết cung cầu tiền tệ và kiểm soát lạm phát là vấn đề vô cùng quan trọng. Chương này giới thiệu các vấn đề cơ bản về cung cầu tiền tệ và lạm phát, thiểu phát như là các khái niệm, các lý thuyết, học thuyết về cung cầu tiền và nguyên nhân, tác động của lạm phát, thiểu phát cũng như các biện pháp phòng chống, kiểm soát lạm phát, thiểu phát. Qua chương học này, người học có thể hiểu được mối quan hệ mật thiết giữa các khối tiền trong lưu thông, cũng như hiểu được sự tác động của khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông, khối lượng tiền có mặt trong lưu thông và lạm phát, thiểu phát. Từ đó, các giải pháp kiểm soát lạm phát, thiểu phát được xây dựng nhằm rút bớt lượng tiền thừa trong lưu thông, cân đối với nhu cầu về tiền của nền kinh tế. 7.1. CUNG - CÇU TIÒN TÖ 7.1.1. Các khối tiền trong lưu thông 7.1.1.1. Các loại tiền tệ trong nền kinh tế hiện đại Ngày nay, cùng với quá trình phát triển mạnh mẽ của thị trường tài chính, quan niệm về tiền tệ đã được mở rộng. Tiền tệ không chỉ là tiền pháp định do NHTW phát hành mà ngay cả các tài khoản ký thác tại ngân hàng, các chứng từ có giá có khả năng hoán chuyển trên thị trường tài chính,… cũng được xem là tiền theo nghĩa rộng hơn. Nói cách khác, các loại tiền trong nền kinh tế thị trường phát triển thường được xếp theo trình tự căn cứ vào nhận dạng theo “tính lỏng trong giao dịch” - một thuật ngữ được sử dụng khá thường xuyên ở hầu hết các sách nghiên cứu về tiền. “Tính lỏng” biểu hiện cho khả năng dễ dàng chuyển sang tiền mặt nhằm đáp ứng cho nhu cầu giao dịch. Theo đó, có thể thấy tiền pháp định do nhà nước phát hành đạt “tính lỏng” cao nhất, sau đó mới đến các 194
  2. loại tiền tài sản khác. Để cụ thể hơn, sau đây chúng ta sẽ lần lượt xem xét các loại tiền trong nền kinh tế hiện đại. - Tiền có tính lỏng cao Loại tiền này có tính lỏng cao nhất khi thực hiện các quan hệ trao đổi và đây cũng là tính chất nổi bật so với các loại tiền tài sản khác. Vì thế, tiền có tính lỏng cao được xếp vào khối tiền giao dịch trong các phép đo tổng lượng tiền của NHTW các nước. Tiền có tính lỏng cao bao gồm: * Tiền pháp định: Bao gồm các loại tiền giấy, tiền kim loại do Nhà nước phát hành. Tên gọi “tiền pháp định” đã cho thấy các loại tiền này được Nhà nước thống nhất phát hành và cho phép lưu thông với mệnh giá được ghi trên đồng tiền theo luật định. Đồng tiền pháp định thể hiện quyền lực của Nhà nước trong quá trình điều tiết lưu thông tiền tệ qua hoạt động phát hành cũng như thu hồi tiền từ lưu thông nhằm thực hiện những mục tiêu của Chính phủ trong từng thời kỳ. Mặt khác, đồng tiền pháp định còn khẳng định chủ quyền quốc gia, sự độc lập của hệ thống tiền tệ mỗi quốc gia đó trên trường quốc tế. Do vậy, về hình thức, tiền pháp định luôn có dấu quốc huy trên đồng tiền, đặc biệt đối với các loại tiền giấy, thường còn phải có số sêri phát hành và chữ ký của một quan chức Chính phủ. Trong lưu thông, tiền pháp định có thể được gọi bằng nhiều thuật ngữ khác nhau như: tiền mặt, tiền NHTW, tiền của Nhà nước,… Mặc dù là một loại tiền có tính thanh khoản cao đáp ứng ngay cho nhu cầu giao dịch song việc nắm giữ tiền này có mức sinh lợi thấp nhất. * Tiền gửi không kỳ hạn hay các khoản tiền gửi trên các tài khoản thanh toán tại các ngân hàng, các tổ chức tín dụng. Là một loại tiền có tính lỏng thấp hơn so với tiền pháp định vì phải thông qua một số thủ tục thanh toán theo quy định khi thực hiện giao dịch. Tuy nhiên, trong điều kiện những dịch vụ thanh toán qua ngân hàng trở nên tiện ích thì vấn đề thanh toán từ tiền gửi không kỳ hạn hay các tài khoản thanh toán có thể phát hành séc,… sẽ góp phần giảm đáng kể những chi phí không cần thiết trong thanh toán bằng tiền mặt. Ở Việt Nam hiện nay hầu hết các ngân hàng thương mại còn thực hiện trả lãi 195
  3. cho các khoản tiền gửi thanh toán nên so với tiền mặt, nó còn đáp ứng phần nào mục tiêu sinh lời cho người sở hữu tiền. Điều đó giải thích tại sao ở một số nước phát triển, bộ phận tiền này chiếm đến 75% tổng khối tiền dùng cho giao dịch. - Các loại tiền tài sản Xét về thực chất, tiền tài sản không phải là tiền giao dịch vì người ta không thể sử dụng nó như là một phương tiện trao đổi không hạn chế về thời gian như tiền mặt cũng như không thể đáp ứng nhu cầu giao dịch ngay lập tức như các loại tiền có tính lỏng cao nhưng chúng được xem như là tiền vì người ta có thể dễ dàng chuyển đổi chúng ra thành tiền thông qua hoạt động của thị trường tài chính. Mặt khác, với tên gọi “tiền tài sản” cho thấy đây là loại tài sản được người sở hữu nắm giữ như là một hình thức đầu tư sinh lợi song chúng lại có khả năng hoán chuyển linh hoạt sang tiền trong thời gian ngắn. Từ đó, việc thừa nhận loại tiền tài sản trong kết cấu khối tiền của NHTW các nước phụ thuộc rất nhiều vào mức độ phát triển kinh tế thị trường của nước đó mà đặc biệt là thị trường tài chính. Các loại tiền tài sản bao gồm: * Các loại tiền gửi có kỳ hạn của cá nhân và tổ chức tại các ngân hàng thương mại, các quỹ tín dụng: Loại tiền này đem lại mức sinh lợi khá ổn định cho người sở hữu và được thực hiện với nguyên tắc thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao, bao gồm: + Tiền gửi tiết kiệm của công chúng tại các quỹ tiết kiệm, các ngân hàng. + Tiền gửi có kỳ hạn của cá nhân và doanh nghiệp tại các tổ chức tín dụng. Sự phân biệt này giúp cho NHTW sắp xếp vào các khối tiền tương ứng để dễ theo dõi mức độ đầu tư và khả năng huy động nguồn tài chính trong công chúng qua hệ thống ngân hàng. * Các khoản tiền gửi ở thị trường tiền tệ. Các nước có thị trường tiền tệ phát triển luôn có xu hướng huy động rất đa dạng các nguồn tiền gửi với quy mô từ nhỏ đến lớn cũng như thời 196
  4. gian huy động từ ngắn đến dài. Người sở hữu các khoản tiền gửi trên thị trường tiền tệ có lợi thế vừa được hưởng lãi suất cao mà khi cần có thể phát hành séc để thanh toán hoặc chuyển nhượng dễ dàng ngay trên thị trường tiền tệ. * Các chứng từ nợ ngắn hạn, trung hạn được mua bán trên thị trường tiền tệ Tín phiếu kho bạc, trái phiếu tiết kiệm do các ngân hàng, các cấp chính quyền địa phương, công ty tài chính,… huy động, các hợp đồng mua lại qua đêm, tiền gửi Euro-dollar qua đêm, tiền gửi Euro-dollar có kỳ hạn… * Các loại tiền tài sản khác: Tùy theo khả năng thanh khoản nhanh hay chậm mà một số nước công nghiệp phát triển còn xếp các chứng thư như: Trái phiếu kho bạc, thương phiếu, hối phiếu thương mại đã được ngân hàng chấp nhận vào loại tài sản có độ lỏng kém hơn các loại tiền đã nêu trên nên thường được xếp vào khối tiền sau cùng trong phép đo tổng lượng tiền của NHTW các nước. 7.1.1.2. Phép đo tổng lượng tiền trong nền kinh tế hiện đại Trong phần trên chúng ta đã xem xét các loại tiền tệ trong nền kinh tế hiện đại, từ đây, vấn đề đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách mà cụ thể là NHTW mỗi nước-cơ quan chịu trách nhiệm chính trong xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ, là phải biết một cách chính xác các thành phần của lượng tiền cung ứng vào lưu thông bao gồm các bộ phận nào để có thể dự báo được những biến động kinh tế cũng như có những biện pháp điều chỉnh hợp lý. Thông thường, NHTW các nước sẽ vừa áp dụng phương pháp lý thuyết trên cơ sở vận dụng linh hoạt các học thuyết kinh tế tiền tệ vừa áp dụng phương pháp kinh nghiệm trên cơ sở kiểm nghiệm thực tiễn để xây dựng một phép đo tổng lượng tiền trong lưu thông từ hẹp đến rộng một cách phù hợp nhất với diễn biến của môi trường kinh tế nước mình. Trước khi tìm hiểu cụ thể về phép đo tổng lượng tiền trong lưu thông và các thành phần của nó, cần phải biết khái 197
  5. niệm “Khối lượng tiền tệ trong lưu thông”. Khối lượng tiền trong lưu thông là khái niệm dùng để chỉ tất cả các phương tiện được chấp nhận làm trung gian trao đổi với mọi hàng hóa, dịch vụ và các khoản thanh toán khác tại một thị trường cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định. Để dẫn ra một mô hình của quá trình cung ứng tiền tệ, người ta phân biệt các khối tiền trong lưu thông. Thành phần mức cung tiền tệ thay đổi thường xuyên từ giai đoạn này sang giai đoạn khác và khác nhau giữa các nước. Thành phần mức cung tiền tệ hay phạm vi các phép đo khối lượng tiền có thể được trình bày khái quát như sau: - Khối tiền tệ M1 (Khối tiền tệ giao dịch): Đây là khối tiền tệ theo nghĩa hẹp nhất về lượng tiền cung ứng, nó chỉ bao gồm những phương tiện được chấp nhận ngay trong trao đổi hàng hoá, mà không phải qua một bước chuyển đổi nào. Với khối tiền tệ này, tổng lượng tiền cung ứng bao gồm: + Tiền đang lưu hành: Gồm toàn bộ tiền mặt do ngân hàng trung ương phát hành đang lưu hành ngoài hệ thống ngân hàng. Xét về chủng loại, tiền đang lưu hành bao gồm các loại tiền giấy, tiền xu,... + Tiền gửi không kỳ hạn ở ngân hàng thương mại: Là loại tiền gửi mà chủ sở hữu của nó có thể rút ra hoặc phát hành séc để thanh toán tiền mua hàng hoá hay dịch vụ vào bất kỳ lúc nào. - Khối tiền tệ M2 (Khối tiền giao dịch mở rộng): Đây là phép đo khối lượng tiền rộng hơn trong lưu thông. Khối tiền tệ này bao gồm: + Khối tiền tệ M1. + Tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn tại các ngân hàng thương mại. - Khối tiền tệ M3: Khối tiền tệ này bao gồm: + Khối tiền tệ M2. + Các khoản tiền gửi tại các định chế tài chính khác. - Khối tiền tệ L: Theo khối tiền tệ này, tổng lượng tiền cung ứng bao gồm: 198
  6. + Khối tiền tệ M3. + Các loại giấy tờ có giá trong thanh toán có tính lỏng cao, tức là dễ chuyển thành tiền mặt, có thể kể đến như: Thương phiếu, tín phiếu, trái phiếu, cổ phiếu,... Trong các khối tiền kể trên, khối tiền tệ M1 là khối có tính lỏng cao nhất. Khi khối tiền tệ được mở rộng theo các phép đo từ M1 đến L thì tính lỏng của nó càng thấp. 7.1.2. Nhu cầu tiền trong nền kinh tế Có thể hiểu cầu tiền tệ là số lượng tiền mà các chủ thể trong xã hội cần sử dụng để thỏa mãn các nhu cầu của mình. Trong nền kinh tế tiền tệ, có 2 nhu cầu sử dụng tiền chủ yếu chi phối đời sống kinh tế - xã hội là nhu cầu tiền phục vụ đầu tư và nhu cầu tiền phục vụ tiêu dùng. * Nhu cầu tiền phục vụ đầu tư: Khi nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu tiền cho đầu tư của các chủ thể càng đa dạng và phong phú. Xảy ra điều này do các DN muốn mở rộng qui mô hoạt động sản xuất kinh doanh, muốn sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn nhàn rỗi; các cá nhân muốn kiếm lợi nhuận từ đồng tiền tiết kiệm của mình,... Nhu cầu tiền cho đầu tư phụ thuộc vào các yếu tố quan trọng là mối quan hệ giữa lãi suất tín dụng của ngân hàng với mức tỷ suất lợi nhuận trên vốn và yếu tố thu nhập của các chủ thể. Mức lãi suất ngân hàng là mức thu nhập mang tính bình quân của các phương án đầu tư trong nền kinh tế. Nếu lãi suất ngân hàng lớn hơn tỷ suất lợi nhuận từ những hoạt động đầu tư như sản xuất, kinh doanh dịch vụ hoặc đầu tư tài chính thì nguồn tiền tiết kiệm sẽ chảy vào ngân hàng. Ngược lại, nếu lãi suất ngân hàng nhỏ hơn tỷ suất lợi nhuận từ hoạt động đầu tư thì nhu cầu tiền cho đầu tư sẽ tăng. Mặt khác, để đáp ứng nhu cầu đầu tư của nền kinh tế thì phải có tích luỹ mà mức tích luỹ lại phụ thuộc vào nhân tố thu nhập. Nếu thu nhập cao, tích luỹ sẽ càng lớn, khi đó nhu cầu tiền cho đầu tư sẽ tăng lên trên nhiều lĩnh vực. 199
  7. * Nhu cầu tiền phục vụ tiêu dùng: Nhu cầu tiền trong nền kinh tế - xã hội cũng rất phong phú. Các DN, cá nhân cần tiền để phục vụ cho các giao dịch của mình như mua sắm hàng hoá, dịch vụ, thanh toán công nợ, nộp thuế hoặc dành một phần thu nhập bằng tiền cho mục đích dự phòng rủi ro. Chính phủ cần tiền để tiêu dùng, cung cấp các hàng hóa dịch vụ công. Nhu cầu tiền cho tiêu dùng phụ thuộc vào mức thu nhập và giá cả của các hàng hóa dịch vụ. Khi kinh tế tăng trưởng, thu nhập quốc dân tăng lên thì mức cầu về tiêu dùng mới có cơ sở nâng cao và ngược lại. Ngoài ra, sự biến động của giá cả hàng hoá, dịch vụ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến mức cầu tiêu dùng. Khi giá cả hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế tăng lên sẽ khiến cho nhu cầu tiêu dùng của toàn nền kinh tế gia tăng và ngược lại. 7.1.3. Cung tiền cho lưu thông Cung tiền cho lưu thông là việc đưa vào lưu thông một khối lượng tiền nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng tiền của các chủ thể trong nền kinh tế. Các chủ thể cung ứng tiền trong nền kinh tế bao gồm: - NHTW: Là cơ quan Nhà nước có chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động của tổ chức tín dụng và chỉ đạo thực thi chính sách tiền tệ. Ở Mỹ, cơ quan đóng vai trò NHTW là Cục Dự trữ Liên bang, còn ở Việt Nam là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. NHTW là cơ quan độc quyền phát hành giấy bạc ngân hàng vào lưu thông. NHTW cung tiền thông qua các nghiệp vụ tái chiết khấu các chứng từ có giá của các NHTM và các tổ chức tín dụng khác. Các loại tiền NHTW cung ứng bao gồm các loại tiền giấy, tiền xu, sec,… nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng thanh toán trong nền kinh tế - xã hội. - Các ngân hàng trung gian: Là các trung gian tài chính, họ nhận tiền gửi từ các cá nhân và các tổ chức, đồng thời thực hiện cho vay. Các ngân hàng trung gian chính là các NHTM, các công ty tiết kiệm và cho vay, các ngân hàng tiết kiệm tương trợ và các liên hiệp tín dụng. Trên thị 200
  8. trường tài chính, các ngân hàng trung gian có chức năng điều tiết lưu thông tiền tệ giữa các chủ thể cung ứng vốn và chủ thể cầu vốn, đồng thời cung ứng một số loại tiền vào lưu thông, đó là tiền ghi sổ được sử dụng thông qua các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt (như séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu…), các loại thẻ thanh toán và các giấy tờ có giá như trái phiếu ngân hàng thương mại, kỳ phiếu, tín phiếu ngân hàng… - Các chủ thể khác: Ngoài các chủ thể đề cập ở trên, Nhà nước và công ty cổ phần,... cũng có thể được coi là các chủ thể cung ứng tiền trong nền kinh tế. Các chủ thể này cung ứng vào trong lưu thông các loại chứng từ có tính thanh khoản cao như: cổ phiếu, trái phiếu, thương phiếu,... làm cho thành phần của khối tiền thêm phong phú. 7.1.4. Một số lý thuyết về tiền tệ 7.1.4.1. Quy luật lưu thông tiền tệ của K. Mark Theo quan điểm của K. Mark, khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông sẽ bằng tổng giá cả hàng hoá trong lưu thông chia cho tốc độ lưu thông trung bình của tiền tệ. Kc = H/V Trong đó: Kc là khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông H là tổng giá cả hàng hoá trong lưu thông V là tốc độ lưu thông trung bình của tiền tệ. K. Mark cho rằng: - Khối lượng tiền tệ trong lưu thông phải bằng khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông. Điều này giải thích cung tiền tệ đáp ứng cầu tiền tệ, khi đó lạm phát sẽ không phát sinh. - Nếu khối lượng tiền tệ trong lưu thông lớn hơn khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông sẽ làm cho giá cả hàng hoá tăng lên, hay nói cách khác là cung đã vượt quá cầu tiền tệ, nguy cơ lạm phát sẽ xuất hiện. Trong tình huống này, biện pháp khắc phục là rút bớt lượng tiền thừa trong lưu thông và gia tăng số sản phẩm để cân đối với lượng tiền trong lưu thông. 201
  9. - Nếu khối lượng tiền tệ trong lưu thông nhỏ hơn khối lượng tiền tệ cần thiết trong lưu thông sẽ làm cho giá cả hàng hoá có xu hướng giảm xuống, thiểu phát sẽ xuất hiện. Trong trường hợp này, biện pháp khắc phục là tăng khối lượng tiền trong lưu thông bằng các hình thức như kích cầu, giảm thuế, tăng cường xuất khẩu,… Tiền tệ tham gia vào lưu thông không chỉ với tư cách là phương tiện lưu thông, mà còn cả với tư cách là phương tiện thanh toán. Do vậy, công thức đầy đủ của qui luật có thể viết như sau: Tổng giá cả Giá cả hàng Giá cả hàng hóa, Giá cả hàng hóa, hàng hóa và - hóa, dịch vụ - dịch vụ bán chịu đến - dịch vụ thanh toán Khối lượng dịch vụ bán chịu hạn thanh toán bù trừ tiền cần thiết = Tốc độ lưu thông bình quân của tiền trong kỳ cho lưu thông Trong đó: Tốc độ lưu thông bình quân của tiền tệ: Là một đại lượng chỉ rõ trong một thời gian nhất định, một đơn vị tiền tệ trong lưu thông bình quân thực hiện được bao nhiêu lần chức năng phương tiện lưu thông. 7.1.4.2. Lý thuyết về số lượng tiền tệ * Thuyết của I. Fisher Đầu thế kỷ 20, I. Fisher - nhà kinh tế học người Mỹ - đã đưa ra phương trình trao đổi nổi tiếng: M. V = P. Q Trong đó: M: Khối lượng tiền tệ trong lưu thông V: Tốc độ lưu thông tiền tệ P: Mức giá trung bình Q: Tổng lượng hàng hoá và dịch vụ được trao đổi Theo Fisher, M tỷ lệ thuận với P,Q (chủ yếu là P) và tỷ lệ nghịch với V. Song các yếu tố V, Q tương đối cố định trong ngắn hạn do tính thiếu co giãn của chúng. Bởi lẽ, trong thời gian ngắn các điều kiện sản xuất, tiêu thụ, giao thông vận tải, tín dụng,… ít thay đổi do tập quán tiêu dùng, 202
  10. thói quen chi trả, tần số chi trả chậm thay đổi. V, Q chỉ thay đổi trong dài hạn. Tư tưởng chủ đạo của Fisher vẫn là M quyết định P. Từ công thức trên ta có: P = M.V/Q Ở đây, P bị Q, V và M chi phối nhưng chủ yếu vẫn là M. Trên quan điểm V là một hằng số, gọi K= 1/V là thời gian trung bình mà người dân nắm giữ tiền mặt; P.Q: Thu nhập danh nghĩa. Từ công thức: M= K. (P.Q) Fisher đã đi đến kết luận: Cầu về tiền tệ là một hàm số được xác định bởi: - Mức thu nhập danh nghĩa (yếu tố này được biểu thị qua thành phần P.Q) - Thói quen tiến hành các giao dịch của dân chúng và nguồn cung ứng vào lưu thông tăng hay giảm là do chính sách phát hành của NHTM (Yếu tố này biểu thị qua thành phần K) * Thuyết của Milton Friedman Theo Friedman, số cung tiền tệ hoặc được xác định bằng số lượng tiền kim loại đưa vào lưu thông hoặc bởi số tiền do Nhà nước hay hệ thống ngân hàng tạo ra. Nhu cầu tiền là hàm số với nhiều biến số trong đó có thu nhập, giá cả, lãi suất, cơ cấu tài sản và sự ưu thích cá nhân,… Luận điểm của Friedman được diễn tả bằng công thức sau: Md = f(yn,i) Trong đó: Md là số lượng tiền cần cung ứng cho lưu thông yn là thu nhập danh nghĩa i là lãi suất danh nghĩa. Theo ông, cầu tiền tệ là nhân tố ngoại sinh nên từ công thức trên có thể viết đơn giản là: Md = f(yn) Friedman cho rằng mức cầu tiền là một hàm số của thu nhập (thu nhập thực tế, thu nhập từ chênh lệch giá, thu nhập từ đầu tư,…). Ông cũng cho rằng mức cung tiền phụ thuộc nhiều vào quyết định chủ quan 203
  11. của các cơ quan quản lý vĩ mô nên mang tính không ổn định. Theo ông, việc tăng cung tiền một cách ổn định (3-4%/năm) sẽ làm cho GNP tăng lên ổn định. Điều này cho phép hạn chế những biến động giá cả và đạt được tốc độ tăng trưởng. 7.1.4.3. Thuyết ưa thích thanh khoản của J.M.Keynes Keynes coi của cải dưới dạng tiền tệ là linh hoạt nhất, việc chuyển tiền thành tư bản cho vay được ông gọi là “sở thích chi tiêu”. Khi cho vay, người cho vay đã chấp nhận mạo hiểm nên lãi suất được gọi là phần thưởng dành cho họ. Lãi suất có chiều hướng biến động tỷ lệ nghịch với lượng tiền đưa vào lưu thông nên theo ông, muốn giảm lãi suất để kích thích đầu tư thì nhà nước nên phát hành thêm tiền vào lưu thông. Lãi suất cũng chịu ảnh hưởng từ sự ưa thích tiền mặt mà sự ưa thích tiền mặt cũng được phát sinh từ các yếu tố tác động đến nhu cầu sử dụng tiền mặt trong lưu thông. Khi nhu cầu về tiền mặt để đáp ứng các giao dịch trong nền kinh tế tăng lên thì khối lượng tiền nhàn rỗi để gửi tiết kiệm sẽ giảm xuống, từ đó làm cho lãi suất tín dụng có xu hướng tăng lên. Cũng như vậy, khi nhu cầu dự phòng bằng tiền mặt hoặc đầu cơ tiền mặt tăng lên trong nền kinh tế - xã hội thì người dân có xu hướng giữ tiền mặt để đáp ứng các nhu cầu này thay vì đem gửi tiết kiệm. Khi đó, do khan hiếm tiền, các ngân hàng có xu hướng tăng lãi suất để huy động vốn. Như vậy, có ba yếu tố tác động đến sự ưa thích tiền mặt trong xã hội, đó là động cơ giao dịch, động cơ dự phòng và động cơ đầu cơ. Trong ba động cơ trên, thị trường tài chính sẽ ảnh hưởng mạnh nhất đến động cơ đầu cơ. Nếu gọi r là lãi suất, M là khối lượng tiền tệ và L là hàm số ưa chuộng tiền mặt thì: M = L(r) Từ đó, ông đưa ra phương trình: M = M1 + M2 = L1(R) + L2 (r) Trong đó: M là sự ưa thích tiền mặt M1 là số tiền mặt dùng cho động cơ giao dịch và động cơ dự phòng. 204
  12. M2 là số tiền mặt dùng cho động cơ đầu cơ. L1(R) là hàm số tiền mặt xác định M1 tương ứng với lãi suất R. L2(r) là hàm số tiền mặt xác định M2 tương ứng với lãi suất r. Từ đó, Keynes đã kết luận: Sự ưa thích tiền mặt là hàm số của lãi suất. Có thể thấy học thuyết lãi suất là một bộ phận cấu thành quan trọng trong tư tưởng của Keynes. Theo ông, Nhà nước có thể dùng chính sách điều chỉnh lãi suất như một chính sách vĩ mô không chỉ ảnh hưởng đến mức cầu tiền tệ mà còn tác động vào nền kinh tế. Những học thuyết trên cho thấy ý nghĩa của việc nghiên cứu cung cầu tiền tệ trong điều hành chính sách tiền tệ như sau: Cung cầu tiền tệ là một trong những quan hệ cân đối lớn của chính sách quản lý kinh tế vĩ mô thông qua chính sách tiền tệ. Nếu cầu tiền bị chi phối bởi những quy luật kinh tế khách quan thì cung tiền lại phụ thuộc nhiều vào ý thức chủ quan của các cơ quan quản lý vĩ mô. Việc nghiên cứu cung cầu tiền tệ sẽ giúp Nhà nước có chính sách, biện pháp điều tiết cung cầu tiền tệ cho phù hợp với từng giai đoạn nhất định của nền kinh tế. 7.2. L¹M PH¸T 7.2.1. Khái niệm và các mức độ lạm phát 7.2.1.1. Khái niệm Cho đến nay, tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về lạm phát. Xét trên góc độ dấu hiệu biểu hiện và nguyên nhân chính của lạm phát, người ta thường đề cập đến các quan điểm thông dụng về lạm phát như sau: - Quan điểm đồng nhất giữa lạm phát và sự tăng giá - gọi là lạm phát giá cả. Theo quan điểm này thì lạm phát là sự tăng giá nói chung của hàng hoá. Khi đó, giá cả của hàng hoá không phản ánh đúng giá trị của chúng (giá cả cao hơn giá trị thực của hàng hoá), điều đó có nghĩa sức mua của đồng tiền bị giảm sút. - Lạm phát lưu thông tiền tệ: Đây là quan điểm cho rằng lạm phát là kết quả của việc gia tăng khối lượng tiền trong lưu thông với một tỷ lệ cao, ngược lại lạm phát cao kéo theo một sự tăng trưởng tiền tệ cao. 205
  13. - Lạm phát nhu cầu: Là lạm phát do cầu quá mức - gọi là lạm phát cầu kéo. Lạm phát này xảy ra khi các hiện tượng của nền kinh tế làm tăng tổng cầu tiền, dẫn dến tăng tổng cung tiền, trong điều kiện tăng trưởng kinh tế không tương xứng đã dẫn đến lạm phát. Lạm phát nhu cầu có thể bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là tăng cầu tiền do thâm hụt ngân sách hay tăng cầu tiền bắt nguồn từ nhu cầu về hàng hóa. Khi các nhà hoạch định chính sách theo đuổi mục tiêu duy trì một tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên thì họ sẽ phải hoạch định các chính sách để tăng tổng cầu (để đạt được một chỉ tiêu sản phẩm YT lớn hơn mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm YN). Tác động đó đã làm cho đường tổng cầu dịch chuyển từ AD1 đến AD2, điểm cân bằng của nền kinh tế dịch chuyển từ điểm 1 đến 1’. Tuy nhiên, tại điểm này, tỷ lệ thất nghiệp là dưới mức tự nhiên nên lương sẽ tăng lên và đường tổng cung sẽ dịch chuyển từ AS1 đến AS2, đưa nền kinh tế từ điểm 1 đến điểm 2. Nền kinh tế lui về tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nhưng ở mức giá P2 cao hơn. Nhưng đến đây tỷ lệ thất nghiệp lại cao hơn chỉ tiêu dự định nên các nhà hoạch định chính sách lại sẽ di chuyển đường tổng cầu đến AD3 để đạt được chỉ tiêu sản phẩm ở điểm 2 và quá trình sẽ tiếp tục đẩy nền kinh tế đến điểm 3 và xa hơn nữa. P LRAS AS4 AS3 AS2 AS1 P4 4 3’ P3 3 2’ P2 2 1’ P1 1 AD4 AD3 AD2 0 AD1 YN YT Y 206
  14. - Lạm phát chi phí: Là lạm phát do chi phí tăng trong khi khối lượng sản xuất không tăng hoặc tăng ít - gọi là lạm phát chi phí đẩy. Chi phí sản xuất tăng lên khiến cho mức cung tiền vượt quá nhu cầu, đã dẫn đến lạm phát. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát phí đẩy, như là: Tăng lương vượt quá mức tăng năng suất lao động xã hội; đầu tư cơ bản sử dụng vốn từ NSNN và vốn tín dụng kém hiệu quả; nguyên liệu đầu vào của một số sản phẩm thiết yếu tăng lên; sự lãng phí quá mức trong tiêu dùng xã hội; nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu các chứng từ có giá bị lạm dụng;… Giả sử công nhân đòi tăng lương làm cho đường tổng cung di chuyển từ AS1 đến AS2. Nếu chính sách tiền tệ của Chính phủ vẫn không thay đổi thì điểm cân bằng của nền kinh tế sẽ chuyển từ điểm 1 tới điểm 1’. Sản phẩm sẽ giảm xuống dưới mức tỷ lệ tự nhiên của nó (YN  Y’) và giá cả sẽ tăng đến P1’. Do sản phẩm giảm và tỷ lệ thất nghiệp tăng nên các nhà hoạch định chính sách sẽ thực hiện chính sách làm tăng tổng cầu lên đến AD2 để quay lại mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm, khi đó mức giá cả là P2. Khi chính sách này được thực hiện, tiền lương của công nhân sẽ được tăng lên. Kết quả là đường tổng cung sẽ di chuyển đến AS3, thất nghiệp lại phát triển và lại có các chính sách tác động để di chuyển đường tổng cầu đến AD3, đẩy mức giá cả lên P3. Nếu quá trình này tiếp tục thì kết quả là việc tăng liên tục của mức giá cả, tức là một tình trạng lạm phát chi phí đẩy. P LRAS AS4 AS3 AS2 AS1 P4 4 P3 3’ 3 P2 2’ 2 P1’ 1’ P1 1 AD4 AD3 AD2 0 AD1 Y’ YN Y 207
  15. Tóm lại, có thể hiểu lạm phát là hiện tượng phát hành tiền vào lưu thông quá lớn, vượt quá số lượng tiền cần thiết trong lưu thông, làm cho sức mua của đồng tiền giảm sút không phù hợp với giá trị danh nghĩa mà nó đại diện. 7.2.1.2. Các mức độ lạm phát Có 3 mức độ lạm phát: - Lạm phát vừa phải: Đây là lạm phát mà tỷ lệ tăng giá của hàng hoá trong khoảng dưới 10%/năm, còn gọi là lạm phát 1 con số. Trong điều kiện lạm phát vừa phải xảy ra, giá cả hàng hóa tăng nhẹ nên giá trị tiền tệ tương đối ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho các chủ thể kinh tế và toàn bộ nền kinh tế phát triển. Tác hại của lạm phát vừa phải là không đáng kể, thậm chí lạm phát loại này còn có tác dụng tích cực đối với sự phát triển cho nền kinh tế - xã hội. Chính vì thế, khi xây dựng chiến lược quản lý và phát triển nền kinh tế vĩ mô, các nhà hoạch định chính sách thường định hướng chỉ số lạm phát nằm trong giới hạn một con số. - Lạm phát phi mã: Là lạm phát xảy ra khi giá cả hàng hoá bắt đầu tăng với tỷ lệ hai hoặc ba con số (tối đa là 200%). Trong điều kiện lạm phát phi mã, nền sản xuất sẽ không phát triển và hệ thống tài chính quốc gia đó sẽ bị phá hoại nghiêm trọng. Các quốc gia Mỹ La tinh đã hứng chịu mức lạm phát từ 20% đến 200% trong suốt thời kỳ từ 1980 đến 1999. Việt Nam những năm 1976 đến 1994 cũng trải qua thời kỳ lạm phát cao, hầu hết chỉ số lạm phát các năm đều là 2 con số. - Siêu lạm phát: Là loại lạm phát mà giá cả hàng hoá tăng với tỷ lệ trên 200%. Siêu lạm phát phá hủy toàn bộ nền kinh tế và luôn đi kèm với hiện tượng suy thoái nền kinh tế nghiêm trọng. Điển hình ví dụ về hiện tượng lạm phát này là lạm phát ở Đức những năm 1922-1924; lạm phát ở Nga sau Cách mạng tháng 10; lạm phát ở Mỹ thời kỳ nội chiến hay ở Zinbabwe với tốc độ lạm phát tại thời điểm tháng 7/2008 là 2.200.000%. Việt Nam cũng đã trải qua siêu lạm phát trong những năm 1986-1987- 1988 với mức độ lạm phát đỉnh điểm vào năm 1987 là 776%. 208
  16. 7.2.2. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiện tượng lạm phát trong nền kinh tế Khi xem xét nguyên nhân dẫn đến lạm phát, người ta thường chia thành các nhóm nguyên nhân như sau: - Nhóm nguyên nhân liên quan đến các chính sách của Nhà nước: Lạm phát do nguyên nhân này thường xảy ra khi có những thay đổi về chính sách tài chính - tiền tệ của Chính phủ như chính sách thu chi NSNN, chính sách tiền tệ, chính sách giá cả, chính sách tỷ giá,… làm cho khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế biến động hay làm cho giá ngoại tệ tăng lên. Nhìn chung, Chính phủ chỉ ra những quyết định thay đổi các chính sách trên nhằm mục đích điều tiết vĩ mô theo hướng có lợi cho nền kinh tế, nhưng đôi khi do không lường trước được những biến động thực tế nên đã gây ra tình trạng lạm phát. Chẳng hạn, trong một số trường hợp do sự thay đổi chính sách thu chi NSNN của Chính phủ đã dẫn đến tình trạng bội chi ngân sách và buộc phải phát hành tiền để bù đắp. Do phát hành vượt quá lượng tiền cần thiết nên lạm phát đã xảy ra; hoặc những thay đổi trong chính sách tiền tệ tín dụng: Ngân hàng trung ương ra quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã làm gia tăng khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế, nếu lượng tiền gia tăng này quá lớn, vượt quá nhu cầu của nền kinh tế sẽ dẫn đến lạm phát xảy ra. - Nhóm nguyên nhân liên quan đến các chủ thể kinh doanh: Trong thực tế, do quản lý điều hành kinh doanh yếu kém, các cơ sở kinh doanh có thể làm tăng giá cả các yếu tố đầu vào. Khi giá cả của các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất tăng lên, đặc biệt là giá các nguyên nhiên vật liệu cơ bản của nền sản xuất (xăng, dầu, sắt, thép, xi-măng,...) gia tăng sẽ đội giá thành sản phẩm và làm cho giá bán sản phẩm tăng lên. Khi giá bán của các các sản phẩm thiết yếu tăng lên, sẽ gây ra hiệu ứng tăng giá dây chuyền trên diện rộng. Lúc này, nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát. Trong trường hợp này, khi giá cả của hàng hóa tăng lên trên diện rộng sẽ có tác động ngược trở lại đối với giá cả các yếu tố đầu vào. Quá trình này cứ tiếp diễn sẽ gây ra vòng xoáy lạm phát. Lạm phát ở mức độ cao đều ẩn chứa các nguyên nhân này. 209
  17. - Nhóm nguyên nhân liên quan đến điều kiện tự nhiên: Khi xảy ra những rủi ro như dịch bệnh, hạn hán, lũ lụt, động đất, núi lửa,... trên diện rộng thường để lại hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế - xã hội và để khắc phục đòi hỏi Nhà nước cần chi một lượng tiền không nhỏ vào lưu thông. Bên cạnh đó, tình trạng khan hiếm hàng hóa cục bộ và nhất thời cũng là một hiện tượng tất yếu của hậu thiên tai, dịch bệnh. Lúc này, nếu Chính phủ không có những kế sách khắc phục những rủi ro này một cách phù hợp thì chính những hiện tượng này đã đẩy khu vực đó và nền kinh tế rơi vào lạm phát. Tuy nhiên, lạm phát bắt nguồn từ nguyên nhân này hầu như chỉ xảy ra ở những nền kinh tế yếu kém. Ngoài những nhóm nguyên nhân trên, lạm phát còn có thể xảy ra bởi một số nguyên nhân khác như là: Xảy ra chiến tranh, bất ổn chính trị, xảy ra khủng hoảng tài chính tiền tệ,… Thông thường, một nền kinh tế xảy ra lạm phát không thể chỉ bắt nguồn bởi một hoặc một nhóm nguyên nhân, mà sẽ là kết quả của tổng hợp tác động của nhiều nguyên nhân nêu trên. 7.2.3. Ảnh hưởng của lạm phát đối với nền kinh tế - xã hội Lạm phát là một hiện tượng rất phổ biến của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Tùy thuộc vào mức độ của lạm phát mà nó có những ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển kinh tế - xã hội. - Nếu lạm phát ở mức độ vừa phải thì nó sẽ có tác dụng kích thích nền kinh tế - xã hội phát triển. Thậm chí nhiều nước còn coi đây là như là một chính sách của Nhà nước để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thông thường, khi Chính phủ tăng cung tiền tệ ở mức hợp lý thì sẽ có tác dụng kích thích sản xuất trong nước phát triển, giảm tình trạng thất nghiệp,…. Tuy nhiên, khi đó, giá cả có xu hướng tăng và giá trị của đồng nội tệ bị mất giá nhẹ so với đồng ngoại tệ. Song, điều này sẽ kích thích hoạt động xuất khẩu, hạn chế hoạt động nhập khẩu,.... - Nếu lạm phát ở mức độ cao và quá cao (lạm phát phi mã và siêu lạm phát) thì lại có ảnh hưởng xấu đến các lĩnh vực của nền kinh tế, cụ thể: 210
  18. + Đối với lĩnh vực sản xuất, lạm phát làm cho giá cả vật tư, nguyên liệu, hàng hoá tăng nhanh, từ đó dẫn đến lợi nhuận ngày càng giảm sút, doanh thu của ngày hôm nay chưa chắc đã bù đắp được chi phí kinh doanh của ngày hôm sau, qui mô sản xuất ngày càng bị thu hẹp, gia tăng tình trạng phát triển không đều, mất cân đối giữa các ngành sản xuất. Tình trạng này kéo dài sẽ khiến các nhà đầu tư có xu hướng rút vốn ra khỏi quá trình sản xuất kinh doanh, chuyển hướng vào những hàng hóa an toàn, giữ được giá trị (vàng, ngoại tệ,…) nhằm bảo toàn vốn. + Đối với lĩnh vực lưu thông hàng hoá: Lạm phát làm rối loạn quá trình lưu thông hàng hoá, kích thích tâm lí đầu cơ tích trữ hàng hoá, tạo nên nhu cầu giả tạo, làm cho sự mất cân đối giữa cung và cầu ngày càng gia tăng. Trong bối cảnh sản xuất ngày càng thu hẹp, nhu cầu đầu cơ tăng lên, điều này càng khiến cho giá cả hàng hóa ngày càng leo thang, tức là lạm phát ngày càng tăng mạnh. + Đối với lĩnh vực tiền tệ tín dụng: Lạm phát phá vỡ các chức năng của tiền tệ, làm cho sức mua của đồng tiền giảm sút một cách nhanh chóng, dân chúng mất lòng tin vào đồng tiền mất giá, không muốn nắm giữ đồng tiền đó nữa. Chính vì thế, việc dân chúng từ chối gửi nội tệ vào ngân hàng thương mại là tất yếu. Khi xảy ra lạm phát cao, dân chúng có xu hướng rút tiền gửi tiết kiệm để chuyển sang những hàng hóa, tài sản an toàn giữ được giá trị như vàng, ngoại tệ,… Điều này làm hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng rơi vào tình trạng khủng hoảng, làm ảnh hưởng lớn đến vai trò điều hoà lưu thông tiền tệ của ngân hàng. + Đối với lĩnh vực tài chính Nhà nước: Lạm phát làm cho nguồn thu NSNN ngày càng bị thu hẹp, giảm sút cả về số lượng lẫn giá trị thực tế, trong khi chi tiêu Chính phủ ngày càng gia tăng về mặt giá trị thực tế, điều này dẫn đến tình trạng bội chi ngân sách ngày càng tăng. + Đối với tiêu dùng và đời sống của người lao động: Lạm phát làm cho tiêu dùng thực tế giảm, đời sống dân cư trở nên khó khăn do tiền lương danh nghĩa không đủ bù đắp cho nhu cầu tiêu dùng cần thiết, đồng thời tình trạng thất nghiệp ngày càng gia tăng. Tóm lại, hậu quả của lạm phát cao là rất nặng nề và nghiêm trọng, ảnh hưởng đến mọi mặt kinh tế - xã hội của đất nước. 211
  19. 7.2.4. Các biện pháp kiểm soát lạm phát 7.2.4.1. Giải pháp tình thế Đây được coi là những giải pháp được áp dụng với mục đích giảm tức thời "cơn sốt" lạm phát để có cơ sở áp dụng các giải pháp chiến lược lâu dài. - Biện pháp về tiền tệ - tín dụng: Mục đích của biện pháp này là giảm bớt lượng tiền mặt trong lưu thông và kiểm soát được quá trình lưu thông tiền tệ. Vì thế, NHTW và các ngân hàng thương mại cần thực hiện các biện pháp cụ thể sau: + Thắt chặt cung ứng tiền, thực hiện chính sách đóng băng tiền tệ. Trong thời kỳ lạm phát cao xảy ra, NHTW không được phép phát hành thêm tiền vào lưu thông dưới bất kì hình thức nào, thậm chí ngay cả đối với những khoản tiền nhằm thực hiện các chương trình, chính sách chưa thực sự cấp thiết của Chính phủ cũng có thể bị hoãn lại nhằm hạn chế tối đa hiện tượng tăng tiền trong lưu thông. + Quản lí và hạn chế tối đa khả năng "tạo tiền" của NHTM bằng cách tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, xiết chặt tín dụng, xây dựng hạn mức tín dụng tối đa đối với các ngân hàng thương mại… nhằm hạn chế việc các ngân hàng thương mại cho các cá nhân và các tổ chức vay vốn không cần thiết. + Nâng cao lãi suất tín dụng: NHTW có thể sử dụng lãi suất cơ bản hoặc khung lãi suất để can thiệp vào biểu lãi suất huy động và cho vay của các ngân hàng thương mại. Theo đó, mức lãi suất tín dụng chung trên thị trường được điều tiết tăng lên, một mặt để hạn chế các chủ thể vay vốn từ các tổ chức tín dụng một cách không cần thiết, mặt khác, để thu hút dân chúng gửi tiền tiết kiệm hưởng lãi cao nhằm hút bớt lượng tiền có xu hướng nhàn rỗi, dư thừa trong lưu thông. Để biện pháp này thật sự có hiệu quả thì mức lãi suất phải đủ "hấp dẫn" và biến động theo tỷ lệ lạm phát, đảm bảo lãi suất thực phải lớn hơn 0. + Các NHTM phải đa dạng hoá các hình thức huy động vốn nhàn rỗi trong công chúng: Bên cạnh các hình thức nhận tiền gửi thông thường, 212
  20. cần phát triển các hình thức hấp dẫn như là gửi tiền có thưởng, gửi tiền nhận lãi trước, tiền gửi lãi suất bậc thang,.. hay phát hành các loại trái phiếu, tín phiếu ngân hàng có lãi suất cao,… nhằm thu hút dân chúng gửi tiền hoặc mua trái phiếu… - Biện pháp về điều hành ngân sách: Mục đích là làm giảm bớt tình trạng mất cân đối trong thu chi NS tiến tới cân bằng ngân sách. + Tiết kiệm chi NS bằng cách cắt giảm các khoản chi không tác động một cách trực tiếp đến sự phát triển có hiệu quả của nền kinh tế: Chi cho bộ máy quản lí hành chính, chi phúc lợi xã hội,… + Tăng cường và nâng cao hiệu quả thu của NSNN bằng cách: Cải cách chính sách thuế theo hướng mở rộng và nuôi dưỡng nguồn thu (chống thất thu thuế, thu đúng, thu đủ, công bằng để không gây ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và đời sống). + Thực hiện chính sách thu bù đắp thiếu hụt ngân sách: Vay trong và ngoài nước, kêu gọi viện trợ,… - Các biện pháp khác: + Kiểm soát giá cả và có biện pháp điều tiết giá cả thị trường đối với một số mặt hàng thiết yếu của sản xuất và đời sống, như: Trợ giá, qui định mức giá trần, điều tiết thông qua quĩ dự trữ quốc gia,.. + Khuyến khích tự do mậu dịch, nới lỏng thuế quan nhằm mục đích tăng quĩ hàng hoá tiêu dùng, giảm bớt sự mất cân đối giữa tiền và hàng trong lưu thông. + Ổn định giá vàng và ngoại tệ nhằm tạo tâm lí ổn định giá cả các mặt hàng khác trong thị trường, như: tung quĩ dự trữ ngoại hối ra để điều tiết thị trường, kiểm soát chặt chẽ ngoại hối,... 7.2.4.2. Giải pháp ổn định tiền tệ chiến lược Đây là biện pháp có tác động lâu dài đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. - Xây dựng kế hoạch tổng thể phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá của nền kinh tế quốc dân. Xuất phát từ nguyên lí "lưu thông hàng 213
nguon tai.lieu . vn