Xem mẫu

  1. TR¦êNG §¹I HäC TH¦¥NG M¹I bé m«n tµi chÝnh doanh nghiÖp Chñ biªn: TS. Vò Xu©n Dòng Gi¸o tr×nh NhËp m«n tµi chÝnh - tiÒn tÖ Nhµ xuÊt b¶n thèng kª Hµ Néi, 2012 1
  2. 2
  3. LêI NãI §ÇU Lịch sử phát triển kinh tế - xã hội cho thấy tài chính và tiền tệ ngày càng giữ vị trí và vai trò quan trọng trong trật tự kinh tế của các quốc gia và của toàn thế giới. Tài chính và tiền tệ trở thành những dòng huyết mạch gắn kết, làm lưu hoạt và thúc đẩy sự phát triển mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, nếu sử dụng chúng không hợp lý thì cũng có thể trở thành tác nhân gây trì trệ và khủng hoảng kinh tế. Do đó, việc nghiên cứu các hiện tượng kinh tế - tài chính - tiền tệ để đúc rút thành những nền tảng lý thuyết nhằm soi tỏ thực tiễn và làm căn cứ định hướng sử dụng hợp lý các công cụ tài chính, tiền tệ đã trở thành nhu cầu cần thiết và không có giới hạn đối với các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách và đối với mọi chủ thể trong xã hội. Với mong muốn có thể đáp ứng nhu cầu giảng dạy và học tập tại Trường Đại học Thương mại, tập thể giảng viên Bộ môn Tài chính doanh nghiệp, Khoa Tài chính - Ngân hàng đã tổ chức biên soạn và trân trọng giới thiệu cuốn giáo trình Nhập môn Tài chính - Tiền tệ. Trong lần biên soạn này, tập thể tác giả đã bám sát chương trình khung theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo để trình bày, giới thiệu những nguyên lý cơ bản trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ, đồng thời cập nhật, bổ sung những kiến thức mới theo yêu cầu của sự hội nhập và phát triển kinh tế hiện nay ở Việt Nam. Giáo trình Nhập môn Tài chính - Tiền tệ được xem là tài liệu cần thiết phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy của giảng viên và việc học tập của sinh viên thuộc các chuyên ngành đào tạo về kinh tế của Trường Đại học Thương mại như quản trị doanh nghiệp, kinh tế thương mại, kế toán, kiểm toán, tài chính, ngân hàng, thương mại điện tử,... Bên cạnh đó, giáo trình còn có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, quản lý và độc giả quan tâm. 3
  4. Tham gia biên soạn giáo trình:  Chủ biên: TS. Vũ Xuân Dũng  Biên soạn chương 1: PGS,TS. Lê Thị Kim Nhung  Biên soạn chương 2: Ths. Nguyễn Thùy Linh  Biên soạn chương 3: TS. Vũ Xuân Dũng và Ths. Vũ Xuân Thủy  Biên soạn chương 4: TS. Vũ Xuân Dũng  Biên soạn chương 5: Ths. Nguyễn Thị Minh Hạnh  Biên soạn chương 6: Ths. Nguyễn Thanh Huyền và CN. Đỗ Thị Diên  Biên soạn chương 7: Ths. Nguyễn Thùy Linh và CN. Đỗ Thị Diên  Biên soạn chương 8: Ths. Nguyễn Thanh Huyền và Ths. Lê Hà Trang  Biên soạn chương 9: Ths. Nguyễn Thị Minh Hạnh và CN. Đỗ Thị Diên  Biên soạn chương 10: GVC Trần Thanh Nghị  Biên soạn chương 11: GVC Trần Thanh Nghị và Ths. Vũ Xuân Thủy  Biên soạn chương 12: PGS, TS. Lê Thị Kim Nhung Trong quá trình biên soạn, mặc dù tập thể tác giả đã có nhiều cố gắng, song do lĩnh vực tài chính - tiền tệ rất rộng lớn, luôn biến đổi phức tạp nên cuốn sách sẽ không thể tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Tập thể tác giả rất mong nhận được các ý kiến phê bình, góp ý của độc giả để giúp cho lần tái bản sau của giáo trình sẽ được hoàn thiện hơn. TËP THÓ T¸C GI¶ 4
  5. Chương 1 NH÷NG VÊN §Ò C¥ B¶N VÒ TµI CHÝNH Chương này đề cập đến những vấn đề cơ bản về phạm trù tài chính với việc tìm hiểu nguồn gốc ra đời và phát triển của nó, làm rõ bản chất của tài chính giúp người đọc phân biệt giữa tài chính với tiền tệ và với các phạm trù phân phối khác, đi sâu luận giải các chức năng của tài chính và hệ thống tài chính trong nền kinh tế quốc dân. 1.1 QU¸ TR×NH H×NH THµNH Vµ PH¸T TRIÓN CñA TµI CHÝNH Tài chính là một phạm trù kinh tế khách quan, có lịch sử hình thành và phát triển của nó. Lịch sử đã chứng minh, tài chính chỉ ra đời, tồn tại và phát triển trong những điều kiện nhất định, khi mà ở đó có những hiện tượng kinh tế - xã hội khách quan xuất hiện và tồn tại. Có thể xem những hiện tượng kinh tế - xã hội đó là tiền đề khách quan quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của tài chính với tư cách là một phạm trù kinh tế - lịch sử. Trong quá trình phát triển của xã hội loài người, phân công lao động xã hội và chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đã làm xuất hiện sản xuất và trao đổi hàng hóa, theo đó tiền tệ xuất hiện1. Sự xuất hiện của sản xuất hàng hóa và các quan hệ tiền tệ đã tạo nên một bước ngoặt lớn mang tính cách mạng trong lĩnh vực phân phối: từ phân phối bằng hiện vật chuyển sang phân phối dưới hình thái giá trị. Đây chính là phân phối tài chính, là cơ sở làm nảy sinh các quan hệ tài chính trong xã hội. Trong nền kinh tế hàng hóa, sự phát triển của sản xuất xã hội cũng đi từ giản đơn đến phức tạp, việc trao đổi hàng hóa có thể tiến hành trực tiếp hàng đổi hàng hoặc có thể thực hiện thông qua trung gian là tiền. Ở giai đoạn phát triển cao hơn, trở thành nền kinh tế thị trường, việc trao đổi hàng hóa chủ yếu được tiến hành thông qua tiền. Phân công lao động 1 Xem lịch sử ra đời và phát triển của tiền tệ (chương 2) 5
  6. xã hội càng sâu sắc, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người tham gia sản xuất hàng hóa ngày càng gia tăng, làm xuất hiện mối quan hệ về lợi ích giữa họ. Trong bối cảnh đó, đồng tiền được sử dụng làm phương tiện để phân chia của cải xã hội, nhằm giải quyết mối quan hệ về lợi ích và thỏa mãn nhu cầu của các chủ thể. Từ đó hình thành nên các mối quan hệ tài chính giữa các chủ thể trong xã hội trong quá trình sản xuất và trao đổi hàng hóa (hiện nay còn gọi là quan hệ tài chính tư). Lịch sử phát triển của xã hội loài người cũng đã chứng minh rằng, khi chế độ tư hữu xuất hiện thì xã hội bắt đầu phân chia thành các giai cấp và có sự đấu tranh giữa các giai cấp trong xã hội. Chính sự xuất hiện của sản xuất, trao đổi hàng hóa và tiền tệ là một trong các nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy mạnh mẽ sự phân chia giai cấp và đối kháng giai cấp. Kết quả của quá trình đấu tranh giai cấp đó là sự xuất hiện của Nhà nước. Để duy trì sự tồn tại và hoạt động của bộ máy Nhà nước đòi hỏi phải có một nguồn lực tài chính nhất định và Nhà nước với tư cách là người có quyền lực chính trị đã bắt buộc các tầng lớp dân cư trong xã hội đóng góp thông qua hình thức thuế, công trái…. Từ đó, các mối quan hệ tài chính giữa Nhà nước với các chủ thể trong xã hội bắt đầu hình thành. Thông qua các quan hệ tài chính giữa Nhà nước với các chủ thể trong xã hội, Nhà nước đã huy động, tập trung một bộ phận của cải xã hội dưới hình thức tiền tệ để lập nên các quỹ tiền tệ của Nhà nước, đáp ứng nhu cầu chi tiêu nhằm duy trì bộ máy quản lý, an ninh, quốc phòng… và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Có thể nói rằng, sự xuất hiện của Nhà nước đã làm xuất hiện một lĩnh vực hoạt động tài chính gắn liền với hoạt động của Nhà nước - đó là tài chính Nhà nước (hiện nay còn gọi là tài chính công). Cần phải nhấn mạnh rằng, tài chính công là một khái niệm hiện đại, bởi đầu thế kỷ XX trong các sách và tài liệu chuyên ngành, người ta thường sử dụng thuật ngữ Tài chính Nhà nước. Sự thay đổi có tính bước ngoặt về quan niệm tài chính công diễn ra vào những năm 30 của thế kỷ XX có mối quan hệ chặt chẽ với sự chuyển dịch quyền hạn từ cơ quan công quyền trung ương sang hình thức các tổ chức công quyền địa phương dựa trên nguyên tắc lãnh thổ, sự phát triển về các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện đại. 6
  7. Trong các nền kinh tế tự cung tự cấp, nền kinh tế hàng hóa giản đơn, kinh tế thị trường tự do cạnh tranh từ thế kỷ XIX về trước, Nhà nước không can thiệp vào các hoạt động kinh tế, Nhà nước được ví như người “canh gác” xã hội và thực hiện chức năng chính trị, quản lý bộ máy hoạt động của Nhà nước. Do vậy, Nhà nước sử dụng tài chính như một công cụ thực hiện các hoạt động đơn thuần về mặt chính trị của Nhà nước và là một “yếu tố trung lập” đứng ngoài các hoạt động kinh tế. Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đặc biệt sau cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa bị suy thoái trầm trọng. Để vực dậy nền kinh tế tư bản ở các quốc gia trong điều kiện thị trường không hoàn hảo, các Nhà nước tư bản ngày càng chú trọng thực hiện chức năng kinh tế song song với thực hiện chức năng chính trị, vì vậy vai trò của Nhà nước đã được thay đổi. Trong bối cảnh đó, cần phải xác định đúng vai trò của Nhà nước trong mối quan hệ với thị trường, nhất là trong lĩnh vực cung cấp hàng hóa và dịch vụ công cho xã hội. Tài chính công được coi là công cụ hữu hiệu mà Nhà nước sử dụng để can thiệp vào các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế thị trường phát triển theo hướng hiện đại. Bằng hoạt động của tài chính công, nền kinh tế vĩ mô và hoạt động sản xuất kinh doanh của xã hội được điều chỉnh theo những cách thức khác nhau tùy theo các giai đoạn phát triển và các điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của từng quốc gia. Như vậy, cùng với sự phát triển của Nhà nước, với việc thực hiện các chức năng của Nhà nước, phạm vi hoạt động của tài chính không ngừng được mở rộng và tác động ngược trở lại đối với các hoạt động kinh tế - xã hội. Cùng với sự phát triển kinh tế hàng hóa - tiền tệ trong nền kinh tế thị trường, tài chính là công cụ được Nhà nước khai thác, vận dụng để quản lý, điều khiển nền kinh tế - xã hội nhằm mục đích thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao phúc lợi xã hội. Có thể nói rằng, sự phát triển kinh tế hàng hóa tiền tệ đã tạo điều kiện khách quan cho sự mở rộng các quan hệ tài chính của Nhà nước nói riêng và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung. 7
  8. Từ sự phân tích trên, có thể coi (i) sự ra đời, tồn tại và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa, (ii) sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước là hai tiền đề khách quan quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của phạm trù tài chính. Cùng với sự phát triển của các tiền đề khách quan, tài chính cũng phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, các mối quan hệ tài chính ngày càng phát triển mạnh mẽ, sâu rộng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, những tiền đề khách quan quyết định sự tồn tại và phát triển của tài chính vẫn đang hiện diện đầy đủ và vận động song hành. Vấn đề đặt ra là làm sao có thể sử dụng phạm trù tài chính đang tồn tại khách quan một cách đúng đắn nhằm phục vụ cho việc phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng đất nước. Để đạt được mục tiêu đó, đòi hỏi phải hiểu rõ và có nhận thức đúng về phạm trù tài chính. Tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế dưới hình thái giá trị, phát sinh trong quá trình phân phối của cải xã hội thông qua việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân nhằm đáp ứng cho các lợi ích khác nhau của các chủ thể trong xã hội. 1.2. B¶N CHÊT CñA TµI CHÝNH Việc xác định đúng đắn bản chất của tài chính có ý nghĩa quan trọng, tạo cơ sở cho việc phân biệt phạm trù tài chính với các phạm trù kinh tế khác, nâng cao hiệu quả sử dụng tài chính trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Để hiểu rõ được bản chất của tài chính, trước hết chúng ta xem xét các biểu hiện bên ngoài của nó, từ đó tìm ra những điểm chung bao trùm mọi quan hệ tài chính. 1.2.1. Nội dung và đặc trưng của các quan hệ tài chính Quan sát thực tế quá trình vận động của nền kinh tế - xã hội có thể nhận thấy các biểu hiện bên ngoài của tài chính là hiện tượng thu vào bằng tiền và chi ra bằng tiền của các chủ thể trong xã hội, qua đó tài chính được cảm nhận như là sự vận động của các quỹ tiền tệ, đại diện cho những sức mua nhất định của các chủ thể trong xã hội. Nói đến tài 8
  9. chính, người ta không chỉ thấy tiền tệ ở trạng thái tĩnh mà còn thấy lượng tiền tệ nhất định đang vận động để tạo nên những thế năng về sức mua hay biến những thế năng đó thành hiện thực. Theo đó, các mối quan hệ tài chính luôn diễn ra một cách đa dạng, phức tạp và đan xen trong một tập hợp hàng loạt các hoạt động khác nhau của nền kinh tế thị trường. Có thể sắp xếp các mối quan hệ tài chính thành các nhóm như sau: Thứ nhất, quan hệ tài chính giữa Nhà nước với các tổ chức và cá nhân trong xã hội. Đó là mối quan hệ phát sinh khi người dân, các nhóm cá nhân kinh doanh hay doanh nghiệp,… thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước, nộp tiền phí, lệ phí khi sử dụng các hàng hóa dịch vụ công do Nhà nước cung cấp; ngược lại, Nhà nước cũng có thể thực hiện các trợ cấp về tài chính cho các chủ thể trong xã hội như cấp vốn (đầu tư vốn) hình thành nên các doanh nghiệp có vốn của Nhà nước, thực hiện các khoản hỗ trợ tài chính (các gói kích cầu) cho các chủ thể kinh doanh, cấp kinh phí hoạt động cho các đơn vị hành chính sự nghiệp, các tổ chức xã hội để các đơn vị này có thể thực hiện những chức năng nhiệm vụ Nhà nước giao, hay trợ cấp tài chính cho người dân (những đối tượng đặc biệt) thuộc đối tượng hưởng phúc lợi xã hội. Thứ hai, quan hệ tài chính giữa các tổ chức và cá nhân với nhau trong xã hội. Đây là nhóm quan hệ tài chính đa dạng và phức tạp nhất, nó bao gồm: - Quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế với nhau và với các tổ chức xã hội, các tầng lớp dân cư. Đây là các mối quan hệ trong thanh toán tiền mua bán hàng hóa dịch vụ, thanh toán tiền lương, tiền công với người lao động,... - Quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh với các tổ chức trung gian tài chính (như ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng,…) và với các cá nhân. Đây là các mối quan hệ tài chính trong việc huy động và đầu tư vốn trên thị trường tài chính của các chủ thể trên. Ví dụ doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng thương mại, hoặc phát hành trái phiếu, hoặc phát hành cổ phiếu và nhà đầu tư mua,… 9
  10. - Quan hệ tài chính giữa các tổ chức trung gian tài chính với nhau và với các tầng lớp dân cư. Các mối quan hệ này phát sinh trong quá trình nhận tiền gửi, cho vay, liên doanh liên kết,… và các quan hệ tài chính khác. - Quan hệ tài chính giữa các hộ gia đình, các cá nhân với nhau như vay mượn, thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ,…. Thứ ba, quan hệ tài chính trong nội bộ một chủ thể (một doanh nghiệp, một ngân hàng thương mại, một hộ gia đình,…). Ví dụ như quan hệ phân phối, điều hòa vốn giữa các bộ phận, các chi nhánh trong một doanh nghiệp, quan hệ phân phối lợi nhuận và sử dụng các quỹ trong doanh nghiệp,... Ngoài ra, trong bối cảnh mở cửa hội nhập quốc tế, với xu hướng toàn cầu hóa mạnh mẽ, còn phải kể đến các mối quan hệ tài chính giữa các chủ thể của quốc gia này với các chủ thể của một quốc gia khác hay với các tổ chức quốc tế. Đó là các quan hệ tài chính quốc tế như quan hệ vay nợ, viện trợ giữa các Chính phủ hoặc giữa Chính phủ của một nước với các tổ chức Phi Chính phủ, các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế; các quan hệ đầu tư trực tiếp, gián tiếp giữa các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân giữa các quốc gia với nhau,… Qua những biểu hiện cụ thể nêu trên có thể thấy rằng, các quan hệ tài chính đều liên quan đến tiền tệ. Tiền tệ xuất hiện trong các mối quan hệ tài chính không phải với chức năng thước đo giá trị mà với chức năng phương tiện thanh toán và phương tiện tích lũy giá trị - đại diện cho một lượng giá trị, đặc trưng cho một thế năng về sức mua nhất định gọi là nguồn lực tài chính. Trong thực tế, nguồn tài chính được nói đến dưới nhiều tên gọi khác nhau như: vốn tiền tệ, vốn bằng tiền, tiền vốn và các tên gọi riêng khác trong các trường hợp cụ thể. Ở mỗi chủ thể, khi nguồn tài chính được tập trung (thu vào) là khi các quỹ tiền tệ được hình thành (tạo lập), và khi nguồn tài chính phân tán (chia ra) là lúc các quỹ tiền tệ được sử dụng. Nói một cách khác, quá trình vận động của các nguồn tài chính cũng chính là quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, ở đó các chủ thể kinh tế - xã hội tham gia phân phối các nguồn tài chính thông qua các hoạt động thu chi bằng tiền của mình. 10
  11. 1.2.2. Bản chất của tài chính Qua việc xem xét các mối quan hệ tài chính nêu trên, có thể xác định nội dung kinh tế của phạm trù tài chính như sau: Tài chính được đặc trưng bằng sự vận động độc lập tương đối của tiền tệ với chức năng phương tiện thanh toán và phương tiện tích lũy giá trị trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ - đại diện cho những sức mua nhất định của các chủ thể kinh tế - xã hội. Nói cách khác, tài chính là tổng thể các mối quan hệ kinh tế trong phân phối các nguồn lực tài chính thông qua quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng yêu cầu tích lũy hay tiêu dùng của các chủ thể trong xã hội. Bản chất của tài chính được thể hiện trên các khía cạnh sau: (1) Tài chính là những quan hệ kinh tế, nhưng không phải mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều thuộc phạm trù tài chính. Tài chính chỉ bao gồm những quan hệ phân phối dưới hình thái giá trị. (2) Tài chính là những quan hệ phân phối phát sinh trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ. Đây là một đặc trưng quan trọng của tài chính. Việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ mang những đặc điểm sau: - Các quỹ tiền tệ bao giờ cũng thể hiện quan hệ sở hữu. Sự vận động của các quỹ tiền tệ có thể diễn ra trong phạm vi một hình thức sở hữu hoặc giữa các hình thức sở hữu khác nhau, nhưng khi kết thúc một giai đoạn vận động của quỹ (hình thành hay sử dụng) thì mỗi chủ thể của hình thức sở hữu này hay hình thức sở hữu khác sẽ nhận được cho mình một phần nguồn lực tài chính như là kết quả tất yếu của quá trình phân phối của cải xã hội dưới hình thái giá trị. Trong nền kinh tế thị trường, với sự ra đời và phát triển của thị trường tài chính, việc tạo lập các quỹ tiền tệ trong xã hội có thể diễn ra trực tiếp giữa các chủ thể, cũng có thể diễn ra gián tiếp thông qua thị trường tài chính. Song dù dưới hình thức nào, sự tạo lập các quỹ tiền tệ - sự tích góp các nguồn lực tài chính ở các chủ thể cũng vẫn là sự phản ánh kết quả của quá trình phân phối. Còn quá trình phân phối bao giờ cũng chịu sự chi phối bởi quyền sở hữu - một yếu tố cơ bản của quan hệ sản 11
  12. xuất xã hội. việc sử dụng các quỹ tiền tệ phụ thuộc quyền sở hữu, cũng như tùy thuộc vào quy ước, nguyên tắc sử dụng quỹ, ý chí chủ quan của người sở hữu trong quá trình phân phối. - Các quỹ tiền tệ bao giờ cũng thể hiện tính mục đích của nguồn tài chính. Trong nền kinh tế thị trường, phần lớn các quỹ tiền tệ đều có mục đích sử dụng cuối cùng là tích lũy hoặc tiêu dùng. Ví dụ: Ngân sách Nhà nước (quỹ tiền tệ đặc biệt của Nhà nước) để phục vụ cho việc thực hiện các chức năng của Nhà nước; vốn của doanh nghiệp (một quỹ tiền tệ đặc biệt của doanh nghiệp) để phục vụ cho hoạt động kinh doanh; quỹ bảo hiểm xã hội dùng để trợ cấp cho người lao động khi họ mất sức lao động,… Bên cạnh đó còn tồn tại các quỹ tiền tệ trung gian được hình thành và sử dụng có thời hạn phục vụ cho việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ có mục đích sử dụng cuối cùng khác. Ví dụ như quỹ tiền tệ của ngân hàng thương mại huy động được từ việc nhận tiền gửi nhằm mục đích cho vay, qua đó hình thành nên quỹ tiền tệ của doanh nghiệp,… - Các quỹ tiền tệ luôn luôn vận động, tức là chúng thường xuyên được tạo lập và thường xuyên được sử dụng. Một dạng khác của sự vận động đó và nhằm những mục đích cụ thể nào đó là các quỹ lớn được chia thành các quỹ nhỏ hơn, hoặc các quỹ nhỏ có thể được khuyếch trương nhờ sự tập trung các quỹ nhỏ tương ứng. Ví dụ: Ngân sách Nhà nước được chia thành các quỹ dùng cho phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục,…; hoặc các quỹ tập trung của tổng công ty được tạo nên từ các quỹ tương ứng của các đơn vị thành viên trực thuộc. (3) Tài chính là quan hệ kinh tế chịu sự tác động trực tiếp của Nhà nước, của pháp luật, nhưng tài chính không phải là hệ thống các luật lệ về tài chính. Luật Tài chính là công cụ của Nhà nước để điều tiết các quan hệ tài chính nhằm đáp ứng yêu cầu của Nhà nước. Điều này giải thích tại sao trong các chế độ xã hội khác nhau thì chính sách tài chính và mục đích sử dụng tài chính cũng khác nhau. Qua việc phân tích trên đây, chúng ta thấy rằng: Trong đời sống thực tế, thật khó phân biệt tài chính với tiền tệ, bởi chúng luôn song hành với 12
  13. nhau, tuy nhiên chúng vẫn là hai phạm trù độc lập, có mối quan hệ mật thiết với nhau. Tiền tệ, về bản chất là vật ngang giá chung trong trao đổi hàng hóa với chức năng thước đo giá trị, phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán và phương tiện tích lũy giá trị. Tài chính không phải là tiền tệ với bản chất và chức năng như vậy, tài chính là phạm trù phân phối dưới hình thái giá trị (thông qua tiền tệ), nhưng tài chính không phải là tiền hay quỹ tiền tệ. Tiền tệ chỉ là phương tiện biểu hiện các quan hệ tài chính trong quá trình phân phối của cải xã hội mà đặc trưng riêng có của nó là tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ khác nhau cho các mục đích khác nhau. Giá cả cũng là một phạm trù liên quan đến phân phối dưới hình thái giá trị, nhưng sự phân phối qua giá cả chỉ phát sinh khi có sự chênh lệch giữa giá trị và giá cả hàng hóa trong trao đổi. Khi trao đổi không ngang giá, giá cả cao hơn hoặc thấp hơn giá trị, sẽ xảy ra sự dịch chuyển giá trị từ chủ thể này sang chủ thể khác. Còn tài chính là phạm trù phân phối phản ánh sự dịch chuyển giá trị qua việc tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ. Tiền lương cũng là một phạm trù phân phối gắn liền với quá trình phân phối theo lao động. Tiền lương muốn được thực hiện (tức là trả lương) phải thông qua tài chính - qua sự vận động độc lập của giá trị với sự hình thành quỹ tiền lương của các doanh nghiệp hay các tổ chức. Tiền lương sau khi trả cho người lao động cũng là một bộ phận của nguồn tài chính để hình thành nên “ngân sách gia đình”, tài chính của cá nhân. Vì thế tiền lương và tài chính là hai phạm trù độc lập nhưng gắn bó chặt chẽ với nhau. Nhận thức đúng đắn bản chất của tài chính có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn, giúp xác định rõ phạm vi các quan hệ tài chính trong lĩnh vực phân phối, giúp xác định vị trí của tài chính trong hoạt động thực tiễn, là công cụ phân phối sản phẩm xã hội được tạo ra từ hoạt động sản xuất xã hội. Điều đó tạo cơ sở cho việc vận dụng các quan hệ tài chính tồn tại khách quan để đưa ra các chính sách tài chính đúng đắn, đồng thời thông qua các chính sách tài chính để tổ chức các quan hệ tài 13
  14. chính nhằm phát huy các tác động tích cực của nó tới các hoạt động và các quan hệ kinh tế - xã hội theo phương hướng đã xác định. Bản chất của tài chính còn được thể hiện rõ nét thông qua các chức năng của nó. 1.3. CHøC N¡NG CñA TµI CHÝNH Chức năng của tài chính là thuộc tính khách quan vốn có, là khả năng hay thế năng bên trong biểu lộ tác dụng xã hội của nó. Trong đời sống xã hội, tài chính có hai chức năng là phân phối và giám đốc. 1.3.1. Chức năng phân phối Chức năng phân phối là thuộc tính khách quan vốn có, thể hiện bản chất của phạm trù tài chính. Con người nhận thức và vận dụng khả năng khách quan đó để tổ chức việc phân phối của cải xã hội dưới hình thái giá trị. Chính nhờ chức năng này mà các nguồn lực đại diện cho những bộ phận của cải xã hội được phân chia và sử dụng cho các mục đích khác nhau, đáp ứng những lợi ích khác nhau của đời sồng kinh tế - xã hội. Từ đó, có thể cho rằng: Chức năng phân phối của tài chính là chức năng mà nhờ vào đó các nguồn lực đại diện cho những bộ phận của cải xã hội được đưa vào các quỹ tiền tệ khác nhau để sử dụng cho các mục đích khác nhau, đảm bảo những nhu cầu khác nhau và những lợi ích khác nhau của xã hội. Đối tượng phân phối ở đây là nguồn của cải xã hội dưới hình thái giá trị, là nguồn tài chính đang vận động một cách độc lập với tư cách là phương tiện thanh toán, phương tiện tích lũy giá trị trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. Xét về mặt nội dung, nguồn tài chính (đối tượng phân phối) bao gồm các bộ phận: - Bộ phận của cải xã hội mới được sáng tạo ra trong năm (tổng sản phẩm quốc nội - GDP). - Bộ phận của cải xã hội tích lũy trong quá khứ. 14
  15. - Bộ phận của cải được chuyển từ nước ngoài vào và bộ phận của cải trong nước chuyển ra nước ngoài. - Bộ phận tài sản, tài nguyên quốc gia có thể cho thuê, nhượng bán có thời hạn. Xét về hình thức biểu hiện, nguồn tài chính có thể tồn tại dưới dạng hữu hình hoặc vô hình. Nguồn tài chính hữu hình là nguồn tài chính được biểu hiện dưới hình thức giá trị và hình thức hiện vật như tiền nội tệ, ngoại tệ, bất động sản, tài nguyên, đất đai,... Nguồn tài chính vô hình là nguồn tài chính tồn tại dưới dạng những sản phẩm không có hình thái vật chất như: dữ liệu, thông tin, hình ảnh, ký hiệu, phát minh, sáng chế, bí quyết kỹ thuật... những sản phẩm kể trên bản thân chúng có giá trị và trong điều kiện kinh tế thị trường chúng có thể chuyển thành tiền qua mua bán, do đó, chúng được coi là một bộ phận cấu thành của tổng thể các nguồn tài chính trong xã hội. Chủ thể phân phối là Nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, hộ gia đình hay cá nhân dân cư. Chủ thể phân phối có thể xuất hiện trên một trong các tư cách là: - Người có quyền sở hữu các nguồn tài chính: Chủ thể phân phối ở đây là những người chủ đích thực của vốn tiền tệ. Họ có quyền phân phối và sử dụng chúng theo ý muốn chủ quan của mình. - Người có quyền sử dụng các nguồn tài chính: Chủ thể phân phối ở đây là những người không quyền sở hữu vốn tiền tệ nhưng họ được trao quyền sử dụng vốn tiền tệ. Nói khác đi đó là những người đi vay và họ có quyền phân phối và sử dụng số vốn đi vay đó theo các mục đích đã định. - Người có quyền lực chính trị: Chủ thể muốn nói ở đây là Nhà nước. Nhà nước không phải với tư cách là người có quyền sở hữu hay quyền sử dụng các nguồn lực tài chính, nhưng Nhà nước vẫn có thể huy động tập trung các nguồn tài chính từ các tổ chức và cá nhân nhờ vào quyền lực chính trị của mình, thông qua các quy định pháp luật như thuế, phí, lệ phí,... - Ngoài ra còn có các nhóm thành viên xã hội: chủ thể muốn đề cập ở đây là các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội, 15
  16. nghiệp đoàn,... do có sự ràng buộc của các quan hệ xã hội mà các tổ chức này là người chủ trì, với tư cách là chủ thể phân phối khi họ nhận được các khoản đóng góp hội phí của các thành viên, các khoản ủng hộ, đóng góp tự nguyện... Kết quả của quá trình phân phối là sự hình thành (tạo lập) hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ ở các chủ thể trong xã hội nhằm những mục đích nhất định. Phân phối tài chính mang những đặc điểm như sau: - Phân phối tài chính là sự phân phối chỉ diễn ra dưới hình thái giá trị, không kèm theo sự thay đổi hình thái giá trị. Nói cách khác, phân phối của tài chính là phân phối dưới hình thái giá trị nhưng không chứa đựng sự vận động ngược chiều của hai hình thái giá trị như trong mua bán hàng hóa. - Phân phối của tài chính là sự phân phối luôn luôn gắn liền với sự hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định. Thông qua chức năng phân phối của tài chính, các quỹ tiền tệ nhất định được hình thành hoặc sử dụng, nhưng chính trong các quá trình đó, bản chất của tài chính - phân phối dưới hình thái giá trị - vẫn không thay đổi. Các quỹ tiền tệ được hình thành (được khuếch trương), được sử dụng (được chia nhỏ) vì những mục đích nhất định, theo tác dụng hẹp hơn hay rộng hơn nhưng đó vẫn là một quá trình phân phối dưới hình thái giá trị. Trong mối quan hệ kế tiếp giữa lĩnh vực phân phối và trao đổi, hay phân phối và tiêu dùng trong quá trình tái sản xuất xã hội, phân phối tài chính diễn ra ở chính ngay điểm tiếp giáp của các lĩnh vực đó. Đó là khi việc thanh toán tiền mua, bán hàng hóa dịch vụ được thực hiện và theo đó các quỹ tiền tệ khác nhau hoặc được hình thành hoặc được sử dụng. - Các quan hệ phân phối tài chính không phải bao giờ cũng nhất thiết kèm theo sự di chuyển giá trị từ chủ thể phân phối này sang chủ thể phân phối khác. Khi một doanh nghiệp kinh doanh có lợi nhuận và nộp thuế thu nhập cho Nhà nước, quan hệ tài chính này dẫn đến sự dịch chuyển một lượng giá trị từ doanh nghiệp đó vào Ngân sách Nhà nước. Nhưng khi doanh nghiệp đó phân phối lợi nhuận sau thuế để hình thành nên các 16
  17. quỹ của doanh nghiệp (quỹ đầu tư phát triển kinh doanh, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi,…) thì không dẫn đến sự dịch chuyển giá trị sang một chủ thể khác, chỉ là một sự phân phối quỹ lớn thành các quỹ nhỏ hơn để đáp ứng các nhu cầu khác nhau của chính doanh nghiệp đó. - Quá trình phân phối diễn ra một cách thường xuyên, liên tục bao gồm cả phân phối lần đầu và phân phối lại, trong đó phân phối lại là đặc trưng chủ yếu của phân phối tài chính. Phân phối lần đầu là sự phân phối được tiến hành trong lĩnh vực sản xuất, cho những chủ thể tham gia vào quá trình sáng tạo ra của cải vật chất hay thực hiện các dịch vụ trong các đơn vị sản xuất và dịch vụ. Phân phối lần đầu được thực hiện trước hết và chủ yếu tại khâu cơ sở của hệ thống tài chính (tài chính doanh nghiệp, tài chính hộ gia đình). Kết thúc quá trình phân phối lần đầu, giá trị sản phẩm xã hội trong lĩnh vực sản xuất được chia thành các bộ phận và được đưa vào các quỹ tiền tệ cơ bản như sau: + Một phần để bù đắp chi phí vật chất đã tiêu hao trong quá trình sản xuất. Phần này hình thành nên quỹ khấu hao tài sản cố định và quỹ bù đắp vốn lưu động đã ứng ra của các đơn vị. + Một phần hình thành quỹ lương của đơn vị để trả lương cho người lao động. Kết quả của việc sử dụng quỹ lương tạo nên quỹ tiền tệ của các hộ gia đình. + Một phần góp vào để hình thành các quỹ dự phòng, bảo hiểm: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm kinh doanh,… + Một phần là thu nhập của các chủ sở hữu về vốn hay các nguồn tài nguyên, góp phần phục vụ cho việc tiến hành sản xuất hay dịch vụ của đơn vị. Phần này lại bao gồm các phần: phần dành cho các cổ đông nắm giữ cổ phần, phần dành cho các trái chủ, các ngân hàng đã cho các doanh nghiệp vay vốn,... Qua phân phối lần đầu, giá trị sản phẩm xã hội mới chỉ được chia thành các phần thu nhập cơ bản. Nếu chỉ dừng lại ở đó, việc phân phối chưa thể đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của toàn xã hội, các chủ thể ở khu 17
  18. vực phi sản xuất sẽ không có được nguồn tài chính cần thiết để tồn tại và hoạt động. Do đó, phân phối lại trở thành đòi hỏi khách quan của xã hội. Phân phối lại là quá trình tiếp tục phân phối những phần thu nhập cơ bản, những quỹ tiền tệ đã được hình thành trong phân phối lần đầu ra phạm vi toàn xã hội hoặc theo những mục đích cụ thể hơn của các quỹ tiền tệ. Phân phối lại là đặc trưng quan trọng nhất của phân phối tài chính, nó diễn ra ở tất cả các khâu của hệ thống tài chính, với mọi chủ thể trong xã hội. Nếu như phân phối lần đầu chỉ diễn ra một lần duy nhất thì phân phối lại không giới hạn số lần phân phối. Các quỹ tiền tệ sau khi được hình thành lại được sử dụng, tạo nên sự luân chuyển không ngừng của các nguồn lực tài chính trong xã hội từ chủ thể này sang chủ thể khác. Phân phối lại đã phát huy tác dụng to lớn đối với sự phát triển nền kinh tế - xã hội, thể hiện qua những điểm sau: + Phân phối lại đảm bảo cho lĩnh vực không sản xuất có nguồn tài chính (vốn tiền tệ) để tồn tại, duy trì hoạt động và phát triển. + Phân phối lại tác động tích cực tới chuyên môn hóa và thúc đẩy sự phát triển của phân công lao động xã hội, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển. + Phân phối lại thực hiện điều tiết thu nhập giữa các thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư góp phần đảm bảo công bằng xã hội. Trên thực tế, quá trình phân phối lần đầu và phân phối lại luôn tiến hành đồng thời và có sự đan xen lẫn nhau phù hợp với sự vận động của nền kinh tế - xã hội. Trong cùng một khoảng thời gian vừa có quá trình phân phối lần đầu diễn ra ở lĩnh vực sản xuất vật chất, vừa có quá trình phân phối lại diễn ra trên bình diện toàn bộ nền kinh tế - xã hội, nhằm đảm bảo cho mọi chủ thể đều có nguồn lực tài chính để tồn tại, để thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình theo phân công lao động xã hội. 1.3.2. Chức năng giám đốc Chức năng giám đốc của tài chính cũng là một thuộc tính khách quan vốn có của phạm trù tài chính, bắt nguồn từ bản chất của tài chính. 18
  19. Xuất phát từ quá trình phân phối của tài chính, đặt ra đòi hỏi khách quan phải tiến hành kiểm tra giám sát, tức là phải thực hiện chức năng giám đốc. Con người nhận thức và vận dụng khả năng khách quan này của tài chính để tổ chức công tác kiểm tra tài chính đối với quá trình phân phối các nguồn tài chính dưới hình thái giá trị. Vì vậy, có thể hiểu: chức năng giám đốc của tài chính là chức năng mà nhờ đó việc kiểm tra bằng đồng tiền được thực hiện đối với quá trình phân phối của tài chính nhằm đảm bảo cho các quỹ tiền tệ (nguồn tài chính) luôn được tạo lập và sử dụng đúng mục đích đã định. Đối tượng của giám đốc tài chính là quá trình vận động của các nguồn tài chính, quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. Đây cũng chính là đối tượng của chức năng phân phối. Chủ thể của giám đốc tài chính cũng chính là các chủ thể phân phối tài chính. Bởi vì, để cho quá trình phân phối của tài chính đạt tới tối đa tính mục đích, tính hợp lý, tính hiệu quả thì bản thân các chủ thể phân phối phải tiến hành kiểm tra xem xét quá trình phân phối đó. Sự kiểm tra có thể diễn ra dưới dạng: xem xét tính cần thiết, quy mô, tính mục đích và hiệu quả của việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. Kết quả của giám đốc tài chính là phát hiện những mặt được và chưa được của quá trình phân phối, từ đó giúp tìm ra các biện pháp hiệu chỉnh quá trình vận động của các nguồn tài chính, quá trình phân phối của cải xã hội theo các mục tiêu đã định nhằm đạt hiệu quả cao của việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. Như vậy, giám đốc tài chính không chỉ đơn thuần là kiểm tra giám sát quá trình phân phối của tài chính, mà còn bao gồm khả năng tư vấn cho các chủ sở hữu các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ biết cách sử dụng các nguồn tài chính như thế nào cho hiệu quả nhất, ngăn ngừa và phòng tránh rủi ro. Chức năng giám đốc của tài chính có những đặc điểm sau: Thứ nhất, giám đốc tài chính là giám đốc bằng đồng tiền, thông qua sự vận động của tiền vốn khi tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện thanh toán và phương tiện cất trữ giá trị. Giám đốc tài chính không đồng nhất với mọi loại kiểm tra, giám sát bằng đồng tiền nói chung trong xã hội. 19
  20. Thứ hai, giám đốc tài chính được thực hiện thông qua việc phân tích đánh giá các chỉ tiêu về tài chính như: cơ cấu tài chính, hệ số nợ, hệ số an toàn vốn, khả năng tự tài trợ, khả năng thanh toán, khả năng sinh lời,… Qua đó giúp cho các chủ thể rút ra được những kết luận và kịp thời hiệu chỉnh đối với quá trình phân phối. Nói cách khác, giám đốc tài chính đưa tới khả năng tự kiểm tra giám sát của mỗi chủ thể trong xã hội nhằm giúp họ đạt tới mục tiêu đề ra. Thứ ba, giám đốc tài chính được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục và vì vậy nó mang tính hiệu quả, tính kịp thời. Do quá trình phân phối của tài chính, quá trình vận động của các nguồn tài chính diễn ra một cách thường xuyên liên tục nên giám đốc tài chính cũng diễn ra thường xuyên liên tục. Chính nhờ vào đặc điểm kể trên mà giám đốc tài chính đem lại hiệu quả và có tác dụng rất kịp thời. Trong thực tiễn, công tác giám đốc - kiểm tra tài chính được tiến hành rộng rãi trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau của tài chính, thông qua tất cả các khâu của hệ thống tài chính. Giám đốc tài chính phát huy tác dụng to lớn đối với đời sống kinh tế - xã hội: + Giám đốc tài chính đảm bảo cho quá trình phân phối của tài chính diễn ra một cách đúng đắn, phù hợp với yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan, đáp ứng được yêu cầu của mọi chủ thể trong xã hội. + Giám đốc tài chính góp phần thúc đẩy việc sử dụng các yếu tố nguồn lực (vật tư, lao động, tiền vốn) trong xã hội một cách tiết kiệm và hiệu quả. + Giám đốc tài chính góp phần thiết lập và thực thi kỷ luật tài chính trong phạm vi mỗi chủ thể và góp phần thúc đẩy việc nâng cao ý thức chấp hành các luật lệ tài chính của Nhà nước. Là những thuộc tính khách quan vốn có bên trong của phạm trù tài chính, chức năng phân phối và chức năng giám đốc của tài chính có mối liên hệ mật thiết, gắn bó hữu cơ với nhau. Chính sự hiện diện của chức năng phân phối đã đòi hỏi sự cần thiết phải có chức năng giám đốc để đảm bảo cho quá trình phân phối được đúng đắn, hợp lý, theo mục tiêu 20
nguon tai.lieu . vn