Xem mẫu

  1. CHƢƠNG 4 THỊ TRƢỜNG TÀI CHÍNH Giới thiệu: Không một nền kinh tế phát triển nào lại thiếu sự phát triển của thị trƣờng tài chính. Có thể ví thị trƣờng tài chính nhƣ một hàn thử biểu đo lƣờng tình trạng sức khỏe của nền kinh tế. Bằng cách nào thị trƣờng tài chính lại có ảnh hƣởng to lớn tới hoạt động kinh tế nhƣ vậy? Chƣơng này giúp cho sinh viên hiểu đƣợc thị trƣờng tài chính đã thực hiện việc phân bổ các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế nhƣ thế nào. Cụ thể, sinh viên sẽ nắm đƣợc: • Cách thức tổ chức, hoạt động của thị trƣờng tài chính • Các công cụ tài chính đƣợc sử dụng để lƣu thông vốn trên thị trƣờng tài chính Mục tiêu: - Về kiến thức: + Trình bày đƣợc khái niệm và vai trò của thị trƣờng tài chính, cấu trúc của thị trƣờng tài chính, chủ thể tham gia thị trƣờng tài chính + Phát biểu đƣợc các công cụ tài chính đƣợc sử dụng để lƣu thông vốn trên thị trƣờng tài chính - Về kỹ năng: + So sánh sự khác nhau giữa thị trƣờng tiền tệ và thị trƣờng vốn + Phân biệt đƣợc các loại chứng khoán. 1. Khái niệm và vai trò của thị trƣờng tài chính Sơ đồ 4.1: Sơ đồ hệ thống tài chính 52
  2. Heä thoáng Tieàn lôøi taøi chính Tieàn lôøi Quyõ Thò tröôøng taøi chính Quyõ Ngöôøi tieát kieäm Ngöôøi vay voán ôøi Quyõ Trung gian Quyõ àn l Tie taøi chính 1.1. Khái niệm thị trƣờng tài chính Thị trƣờng tài chính thể hiện rất nhạy cảm mọi hoạt động của các thị trƣờng hàng hoá và dịch vụ. Nó đƣợc ví nhƣ là thị trƣờng phái sinh từ nền kinh tế thực, nó đo lƣờng và phản ảnh hiệu quả kinh doanh và hiện trạng của nền kinh tế thực. Thị trƣờng tài chính ra đời đã làm đa dạng hoá và phức tạp hoá mọi hoạt động tài chính. Thị trƣờng tài chính không chỉ chịu ảnh hƣởng của nền kinh tế mà nó còn gây ra nhiều tác động đến sự phát triển của nền kinh tế. Vì thế, nó có vai trò nhất định đối với sự vận hành kinh tế và trở thành công cụ đắc lực giúp nhà nƣớc quản lý có hiệu quả nền kinh tế. Nếu hiểu một cách đơn giản thị trƣờng tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các loại giấy có giá, nơi gặp gở các nguồn cung cầu về vốn, qua đó hình thành giá mua và bán các loại cổ phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, …hình thành nên giá cả các loại vốn đầu tƣ bao gồm: Lãi suất đi vay, lãi suất cho vay, lãi suất ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Tuy nhiên để tạo lập một môi trƣờng sôi động của thị trƣờng tài chính trên thực tế đó là sự kết hợp của nhiều yếu tố, trong đó có 3 yếu tố cơ bản: 53
  3. - Đối tƣợng mua, bán trên thị trƣờng tài chính: Thị trƣờng tài chính là một loại thị trƣờng đặc biệt nên đối tƣợng mua bán trên thị trƣờng tài chính là một loại hàng hoá đặc biệt: đó là quyền sử dụng vốn ngắn hạn và dài hạn. Thực chất của quan hệ giao dịch trên thị trƣờng tài chính là ngƣời ta mua bán quyền sử dụng các nguồn tài chính thông qua hình thức mua bán bên ngoài là các loại giấy tờ có giá trị, gọi chung là chứng khoán. - Công cụ tham gia trên thị trƣờng tài chính: Đây là nguồn sống cho hoạt động của thị trƣờng bao gồm các loại chứng từ có giá nhƣ công trái do Nhà nƣớc phát hành, chứng khoán do các doanh nghiệp phát hành các loại trái phiếu do các tổ chức tài chính phát hành, và các dạng kỳ phiếu, séc,… - Chủ thể tham gia trên thị trƣờng tài chính: Là những pháp nhân hay thể nhân đại diện cho những nguồn cung và cầu về vốn nhàn rỗi tham gia trên thị trƣờng tài chính, chủ yếu là các ngân hàng thƣơng mại, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tƣ … và đặc biệt là các công ty môi giới. 1.2. Vai trò của thị trƣờng tài chính Với bộ phận cấu thành chủ yếu là thị trƣờng tiền tệ và thị trƣờng vốn, thị trƣờng tài chính đã thực sự đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trƣờng với sự nổi bậc là ba vai trò sau: - Thị trƣờng tài chính là trung tâm điều tiết cung nguồn vốn tiền tệ từ nơi thừa đến nơi thiếu: thể hiện vai trò này thị trƣờng tài chính là nơi đáp ứng nhu cầu vốn đầu tƣ, là nơi dừng của những nguồn vốn nhàn rỗi. Nói cách khác, thị trƣờng tài chính đã tạo ra môi trƣờng thuận lợi để dung hòa các lợi ích kinh tế khác nhau: ngƣời đi vay có điều kiện thu hút đƣợc vốn và ngƣời cho vay có thể sinh lời lời cho lƣợng tiền tiết kiệm. Mặt khác, cùng với xu hƣớng quốc tế hóa hoạt động của thị trƣờng nên thị trƣờng tài chính ngày nay không chỉ dừng lại ở phạm vi điều tiết vốn trong nƣớc mà còn tham gia vào sự vận động vốn với nƣớc ngoài. Từ đó qui mô hoạt động của thị trƣờng tài chính đƣợc mở rộng về phạm vi hoạt động, đa dạng về các nghiệp vụ hoạt động và phong phú với các chủ thể tham gia. - Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển nhƣợng sở hữu vốn, từ đó gia tăng các nhà đầu tƣ mới tham gia thị trƣờng, bởi lẽ ngƣời ta cảm thấy không bị bó buộc trong một phạm vi may rủi hạn hẹp mà có thể dễ dàng chuyển vốn đầu 54
  4. tƣ trên thị trƣờng tài chính so với những hình thức đầu tƣ khác. Về thị trƣờng tài chính là một sân chơi rộng mở ở đó các nhà đầu tƣ, các doanh nghiệp đƣợc dễ dàng chuyển nhƣợng sở hữu vốn để đầu tƣ vào ngành nghề, lĩnh vực họ lựa chọn thị trƣờng tài chính đã góp phần tăng thêm sự mời gọi đối với giới đầu tƣ. - Điều tiết vĩ mô của nhà nƣớc đối với quá trình điều hòa cung cầu về tiền tệ và ngăn chặn lạm phát. Trên cơ sở thu hút những nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội vào những mục tiêu đầu tƣ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, sự hoạt động của thị trƣờng tài chính đã giảm khối lƣợng tiền dƣ thừa trong lƣu thông đồng thời góp phần tăng vòng quay đồng vốn. Bên cạnh đó, ngân hàng trung ƣơng còn thông qua thị trƣờng tài chính đặc biệt là thị thƣờng tiền tệ để vận dụng linh hoạt những công cụ điều tiết vĩ mô nhƣ lãi suất thị trƣờng, lãi suất tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trƣờng mở...để thực thi chính sách tiền tệ nhằm mục đích điều hòa cung cầu về tiền tệ, kiểm soát lạm phát và ổn định tiền. Nhƣ vậy, với vai trò này thị trƣờng tài chính đã tạo khả năng thuận lợi cho ngân hàng trung ƣơng điều chỉnh và giám sát số cung về tiền tệ, tín dụng trong điều kiện nền kinh tế mở. 2. Cấu trúc của thị trƣờng tài chính 2.1. Thị trƣờng nợ và thị trƣờng vốn cổ phần 2.1.1. Thị trƣờng nợ Phƣơng pháp chung nhất mà các công ty sử dụng để vay vốn trên thị trƣờng tài chính là đƣa ra một công cụ vay nợ, ví dụ nhƣ trái khoán hay một món vay thế chấp. Công cụ vay nợ là sự thỏa thuận có tính chất hợp đồng, trong đó ngƣời đi vay thanh toán cho ngƣời nắm giữ công cụ nợ một khoản tiền lãi cố định, và hoàn trả tiền vốn vào cuối kỳ hạn. Nếu kỳ hạn thanh toán của công cụ nợ dƣới một năm, ngƣời ta gọi đó là công cụ nợ ngắn hạn, nếu từ một năm trở lên gọi là công cụ nợ trung và dài hạn. Thị trƣờng nợ là thị trƣờng diễn ra việc mua bán các công cụ nợ kể trên. 2.1.2. Thị trƣờng vốn cổ phần Phƣơng pháp thứ hai để thu hút vốn là các công ty phát hành cổ phiếu. Ngƣời nắm giữ cổ phiếu sở hữu một phần tài sản của công ty có quyền đƣợc chia lợi nhuận từ thu nhập ròng của công ty (sau khi trừ chi phí và thuế). 55
  5. Việc sở hữu cổ phiếu khác với sở hữu công cụ nợ (trái phiếu công ty) là ở chỗ ngƣời sở hữu cổ phiếu chỉ nhận đƣợc tiền lãi sau khi công ty đã thanh toán cho chủ nợ (ngƣời sở hữu công cụ nợ). Nhƣng lợi ích của việc nắm giữ các cổ phần vốn là ở chỗ, cổ đông đƣợc hƣởng lợi trực tiếp do lợi nhuận và hoặc do giá trị tài sản của công ty tăng lên. Trong khi đó, ngƣời nắm giữ công cụ nợ lại không nhận đƣợc gì từ khoản lợi nhuận này. 2.2. Thị trƣờng sơ cấp và thị trƣờng thứ cấp 2.2.1. Thị trƣờng sơ cấp (Primary market) Thị trƣờng sơ cấp là thị trƣờng trong đó các chứng khoán mới đƣợc các nhà phát hành bán cho các khách hàng đầu tiên, và do vậy còn đƣợc gọi là thị trƣờng phát hành. Thị trƣờng này cho phép các chủ thể kinh tế nhƣ các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ... huy động vốn từ nền kinh tế bằng việc phát hành các chứng khoán mới. Hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán tại thị trƣờng này chủ yếu diễn ra giữa các nhà phát hành và các nhà đầu tƣ lớn nhƣ các công ty chứng khoán, ngân hàng đầu tƣ hay công ty bảo hiểm... theo hình thức bán buôn. Các nhà đầu tƣ này khi đó đóng vai trò nhƣ nhà bảo lãnh cho đợt phát hành chứng khoán (underwriting securities), họ sẽ mua lại toàn bộ số chứng khoán phát hành ra theo mức giá thoả thuận (thƣờng là thấp hơn mức giá công bố) để sau này bán lẻ ra thị trƣờng cho các nhà đầu tƣ khác. Vì các thoả thuận về bảo lãnh chứng khoán thƣờng đƣợc tổ chức riêng giữa các nhà bảo lãnh và nhà phát hành nên hoạt động giao dịch cụ thể tại thị trƣờng này không đƣợc công khai cho mọi ngƣời. 2.2.2. Thị trƣờng thứ cấp (Secondary market) Thị trƣờng thứ cấp là thị trƣờng trong đó các chứng khoán đã đƣợc phát hành trên thị trƣờng sơ cấp đƣợc mua đi bán lại, làm thay đổi quyền sở hữu chứng khoán. Thị trƣờng thứ cấp đƣợc xem nhƣ thị trƣờng bán lẻ các chứng khoán để phân biệt với thị trƣờng sơ cấp là thị trƣờng bán buôn các chứng khoán. Thị trƣờng thứ cấp đảm bảo khả năng chuyển đổi chứng khoán thành tiền, cho phép những ngƣời giữ chứng khoán có thể rút ra khỏi sự đầu tƣ tại thời điểm 56
  6. nào mà họ mong muốn hoặc có thể thực hiện việc di chuyển đầu tƣ từ khu vực này sang khu vực khác. Sự khác nhau chủ yếu giữa thị trƣờng sơ cấp và thị trƣờng thứ cấp là ở chỗ hoạt động của thị trƣờng sơ cấp làm gia tăng thêm vốn cho nền kinh tế còn hoạt động của thị trƣờng thứ cấp chỉ làm thay đổi quyền sở hữu các chứng khoán đã phát hành, mà không làm tăng thêm lƣợng vốn đầu tƣ cho nền kinh tế. Giữa thị trƣờng sơ cấp và thị trƣờng thứ cấp có mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau. Thị trƣờng sơ cấp đóng vai trò tạo cơ sở cho những hoạt động của thị trƣờng thứ cấp vì nó là nơi tạo ra hàng hoá để mua bán trên thị trƣờng thứ cấp. Thị trƣờng thứ cấp cũng có tác dụng trở lại đối với thị trƣờng sơ cấp, đóng vai trò tạo động lực cho sự phát triển của thị trƣờng này. Tác dụng của thị trƣờng thứ cấp tới thị trƣờng sơ cấp đƣợc thể hiện ở hai chức năng của nó: - Thứ nhất, thị trƣờng thứ cấp tạo ra tính lỏng cho các chứng khoán đƣợc phát hành ra trên thị trƣờng sơ cấp, nhờ vậy sẽ làm tăng tính hấp dẫn cho các chứng khoán, giúp cho việc phát hành chúng tại thị trƣờng sơ cấp đƣợc thuận lợi; - Thứ hai, thị trƣờng thứ cấp đóng vai trò xác định giá của các chứng khoán sẽ đƣợc phát hành trên thị trƣờng sơ cấp. Các nhà đầu tƣ trên thị trƣờng sơ cấp sẽ không thể mua các chứng khoán phát hành mới tại thị trƣờng này với giá cao hơn giá mà họ nghĩ sẽ có thể bán đƣợc tại thị trƣờng thứ cấp. Nếu chứng khoán của một nhà phát hành đƣợc mua bán với giá cao tại thị trƣờng thứ cấp thì nhà phát hành càng có cơ hội thu đƣợc nhiều vốn nhờ việc phát hành các chứng khoán mới tại thị trƣờng sơ cấp. Chính vì những đặc điểm này mà các tổ chức phát hành cũng nhƣ các nhà đầu tƣ quan tâm nhiều tới thị trƣờng thứ cấp hơn là thị trƣờng sơ cấp. 2.3. Thị trƣờng tiền tệ và thị trƣờng vốn 2.3.1. Thị trƣờng tiền tệ (Money market) Thị trƣờng tiền tệ là thị trƣờng mua bán các chứng khoán nợ ngắn hạn – short-term debtsecurities (có thời hạn đáo hạn từ một năm trở xuống). Những ngƣời đi vay/phát hành trên thị trƣờng này là những ngƣời đang thiếu hụt tạm thời về tiền tệ để đáp ứng cho các nhu cầu thanh toán. Thông qua các giao dịch mua bán quyền sử dụng vốn vay ngắn hạn, thị trƣờng tiền tệ đã 57
  7. cung ứng một lƣợng tiền tệ cho họ để thoả mãn nhu cầu thanh toán. Cũng vì thế mà nó đƣợc gọi là “thị trƣờng tiền tệ”. Những ngƣời mua/cho vay trên thị trƣờng tiền tệ là những ngƣời có vốn tạm thời nhàn rỗi, chƣa muốn đầu tƣ hoặc đang tìm kiếm các cơ hội đầu tƣ, do vậy họ chuyển nhƣợng quyền sử dụng vốn của mình trong thời hạn ngắn để tranh thủ hƣởng lãi. Đối với họ, việc đầu tƣ vào thị trƣờng tiền tệ chỉ mang tính nhất thời, họ không quan tâm nhiều tới mức sinh lợi mà chủ yếu là vấn đề an toàn và tính thanh khoản để có thể rút vốn ngay khi cần. Trên thị trƣờng tiền tệ, do khối lƣợng giao dịch chứng khoán thƣờng có qui mô lớn nên các nhà đầu tƣ (cho vay) thƣờng là các ngân hàng, ngoài ra còn có các công ty tài chính hoặc phi tài chính, còn những ngƣời vay vốn thƣờng là chính phủ, các công ty và ngân hàng. Tuỳ theo phạm vi các chủ thể đƣợc tham gia giao dịch trên thị trƣờng mà thị trƣờng tiền tệ còn đƣợc chia thành thị trƣờng liên ngân hàng (Interbank Market) – là thị trƣờng tiền tệ mà các giao dịch về vốn chỉ diễn ra giữa các ngân hàng (kể cả NHTW) và thị trƣờng mở (Open Market) – là thị trƣờng tiền tệ mà ngoài các ngân hàng ra còn có các tổ chức phi ngân hàng tham gia. Ngoài ra trong thị trƣờng tiền tệ còn có một thị trƣờng bộ phận chuyên giao dịch các chứng khoán ngắn hạn đƣợc ghi bằng ngoại tệ, thị trƣờng này đƣợc gọi là thị trƣờng hối đoái (Foreign Exchange Market). Thị trƣờng hối đoái ngoài các chứng khoán còn mua bán cả ngoại tệ tiền mặt và các phƣơng tiện thanh toán ghi bằng ngoại tệ nhƣ séc ngoại tệ. Ở Việt nam, thị trƣờng tiền tệ đƣợc tổ chức dƣới các hình thức: thị trƣờng nội tệ liên ngân hàng (đi vào hoạt động từ tháng 7 năm 1993) và thị trƣờng ngoại tệ liên ngân hàng (đi vào hoạt động từ tháng 10 năm 1994). 2.3.2. Thị trƣờng vốn (Capital market) Thị trƣờng vốn là thị trƣờng mua bán các chứng khoán nợ dài hạn – long- term debtsecurities (có thời hạn đáo hạn trên một năm) và các chứng khoán vốn (equitysecurities). Thị trƣờng vốn là thị trƣờng dành cho các khoản vốn dài hạn. Thị trƣờng này cung cấp vốn cho các khoản đầu tƣ dài hạn của chính phủ, các doanh nghiệp và các hộ gia đình. Do thời gian luân chuyển vốn trên thị trƣờng này dài hạn hơn 58
  8. so với thị trƣờng tiền tệ nên các công cụ trên thị trƣờng vốn có độ rủi ro cao hơn và tất nhiên mức lợi tức của nó cũng sẽ cao hơn. Do các chứng khoán mua bán trên thị trƣờng vốn có thời hạn dài nên các nhà phát hành có thể sử dụng vốn thu đƣợc để đầu tƣ vào sản xuất kinh doanh. Vì vậy, thị trƣờng vốn đƣợc coi là thị trƣờng cung ứng vốn đầu tƣ cho nền kinh tế. 3. Các công cụ của thị trƣờng tài chính Để hiểu rõ hơn cách thức thị trƣờng tài chính lƣu chuyển vốn từ ngƣời dƣ thừa vốn sang ngƣời cần vốn, trong phần này chúng ta sẽ nghiên cứu các phƣơng tiện giúp thị trƣờng tài chính lƣu chuyển các khoản vốn, đó chính là các công cụ tài chính hay các chứng khoán. Các công cụ tài chính đƣợc chia thành hai nhóm chính sau: 3.1. Các công cụ lƣu thông trên thị trƣờng tiền tệ Các công cụ lƣu thông trên thị trƣờng tiền tệ có đặc điểm chung là kỳ hạn thanh toán ngắn, tính thanh khoản cao và độ rủi ro thấp. Chúng bao gồm các loại chủ yếu sau: 3.1.1. Tín phiếu kho bạc (Treasury bill) Tín phiếu kho bạc là công cụ vay nợ ngắn hạn của chính phủ do Kho bạc phát hành để bù đắp cho những thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nƣớc. Tín phiếu kho bạc thuộc loại chứng khoán chiết khấu. Đó là loại chứng khoán không đƣợc nhà phát hành trả lãi song lại đƣợc bán với giá chiết khấu tức là giá thấp hơn mệnh giá. Khi đến hạn, nhà đầu tƣ đƣợc nhận lại đủ mệnh giá, vì vậy phần chênh lệch giữa mệnh giá chứng khoán và giá mua chứng khoán chính là lãi của nhà đầu tƣ. Tín phiếu kho bạc có các kỳ hạn 3, 6 và 12 tháng. Tín phiếu kho bạc đƣợc xem là công cụ tài chính có độ rủi ro thấp nhất trên thị trƣờng tiền tệ bởi vì hầu nhƣ không có khả năng vỡ nợ từ ngƣời phát hành, tức là không thể có chuyện chính phủ mất khả năng thanh toán khoản nợ khi đến kỳ hạn thanh toán, chính phủ lúc nào cũng có thể tăng thuế hoặc in tiền để trả nợ. Tuy nhiên mức lãi suất của nó thƣờng thấp hơn các công cụ khác lƣu thông trên thị trƣờng tiền tệ. 59
  9. Tín phiếu kho bạc thƣờng đƣợc phát hành theo từng lô bằng phƣơng pháp đấu giá. Ngƣời mua chủ yếu là các ngân hàng, ngoài ra còn có các công ty và các trung gian tài chính khác. Tín phiếu kho bạc đƣợc xem là công cụ có tính lỏng cao nhất trên thị trƣờng tiền tệ do nó đƣợc mua bán nhiều nhất. 3.1.2. Các chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhƣợng đƣợc Chứng chỉ tiền gửi (Certificate of Deposit) là một công cụ nợ (debt instrument) do các ngân hàng phát hành, cam kết trả lãi định kỳ cho khoản tiền gửi và sẽ hoàn trả vốn gốc (đƣợc gọi là mệnh giá của chứng chỉ) cho ngƣời gửi tiền khi đến ngày đáo hạn. Lúc đầu, các chứng chỉ tiền gửi không đƣợc phép bán lại và nếu ngƣời gửi tiền rút vốn trƣớc hạn thì sẽ phải chịu phạt. Nhƣng về sau để tăng tính hấp dẫn của các chứng chỉ tiền gửi này, các ngân hàng bắt đầu cho phép các chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá lớn (ví dụ ở Mỹ là trên 100.000 USD) đƣợc phép bán lại trƣớc hạn (với một mức giá khấu trừ), thậm chí có thể bán cho chính ngân hàng phát hành. Khi đó chúng đƣợc gọi là các chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhƣợng (NCDs). NCDs thƣờng đƣợc các ngân hàng dùng để huy động các nguồn vốn lớn từ các công ty, các quỹ tƣơng hỗ thị trƣờng tiền tệ, các tổ chức của chính phủ.v.v.. Tại Mỹ, tổng dƣ nợ từ phát hành các NCDs của các ngân hàng gần đây đã vƣợt quá tổng số dƣ nợ của tín phiếu kho bạc Mỹ. 3.1.3. Thƣơng phiếu (Commercial paper) Thƣơng phiếu là những giấy nhận nợ do các công ty có uy tín phát hành để vay vốn ngắn hạn từ thị trƣờng tài chính. Thƣơng phiếu đƣợc phát hành theo hình thức chiết khấu, tức là đƣợc bán với giá thấp hơn mệnh giá. Chênh lệch giữa giá mua và mệnh giá thƣơng phiếu chính là thu nhập của ngƣời sở hữu thƣơng phiếu. Những thƣơng phiếu nguyên thuỷ (commercial bill) chỉ xuất hiện trong các hoạt động mua bán chịu hàng giữa các công ty kinh doanh với nhau. Nó có thể do ngƣời bán chịu hay ngƣời mua chịu hàng hoá phát hành nhƣng bản chất vẫn là giấy xác nhận quyền đòi tiền khi đến hạn của ngƣời sở hữu thƣơng phiếu. 60
  10. Ngày nay, thƣơng phiếu xuất hiện mang tính đa dạng hơn. Thƣơng phiếu đƣợc phát hành không chỉ trong quan hệ mua bán chịu hàng hoá mà còn đƣợc phát hành để vay vốn trên thị trƣờng tiền tệ. Các công ty danh tiếng khi có nhu cầu vốn có thể phát hành thƣơng phiếu bán trực tiếp cho ngƣời mua theo mức giá chiết khấu. Những ngƣời đầu tƣ thƣơng phiếu ngoài các ngân hàng còn có các trung gian tài chính và công ty khác. Các thƣơng phiếu có mức độ rủi ro cao hơn tín phiếu kho bạc nhƣng mức lãi suất chiết khấu cũng cao hơn. Thị trƣờng thƣơng phiếu ngày nay rất sôi động và phát triển với tốc độ rất nhanh. Việc chuyển nhƣợng thƣơng phiếu đƣợc thực hiện bằng hình thức ký hậu. 3.1.4. Chấp phiếu ngân hàng (Banker’s acceptance) Chấp phiếu ngân hàng là các hối phiếu kỳ hạn do các công ty ký phát và đƣợc ngân hàng đảm bảo thanh toán bằng cách đóng dấu “đã chấp nhận” lên tờ hối phiếu. Trong các giao dịch mua bán chịu, khi ngƣời bán không tin vào khả năng thanh toán của ngƣời mua, họ sẽ yêu cầu ngƣời mua phải có sự bảo đảm thanh toán từ một ngân hàng có uy tín. Khi ngân hàng chấp nhận bảo lãnh cho khoản thanh toán, nó cho phép ngƣời bán ký phát hối phiếu đòi tiền thẳng ngân hàng và ngân hàng sẽ đóng dấu chấp nhận trả tiền lên tờ hối phiếu đó. Nhƣ vậy, ngƣời trả tiền hối phiếu bây giờ không phải là ngƣời mua nữa mà là ngân hàng, do vậy ngƣời bán đƣợc đảm bảo khá chắc chắn về khả năng thanh toán của tờ hối phiếu. Để đƣợc ngân hàng ký chấp nhận vào tờ hối phiếu, ngƣời mua chịu phải ký quỹ gửi vào ngân hàng một phần hoặc toàn bộ số tiền của tờ hối phiếu hoặc đƣợc ngân hàng đồng ý cho vay để thanh toán hối phiếu. Ngân hàng sẽ thu từ ngƣời mua chịu một khoản phí bảo đảm thanh toán. Các chấp phiếu ngân hàng này đƣợc sử dụng khá phổ biến trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Do đƣợc ngân hàng chấp nhận thanh toán nên các chấp phiếu ngân hàng là một công cụ nợ có độ an toàn khá cao, nhất là khi ngân hàng chấp nhận là các ngân hàng lớn, có uy tín. Những ngƣời sở hữu chấp phiếu có thể đem bán chúng trên thị trƣờng tiền tệ với giá chiết khấu để thu tiền mặt ngay khi cần vốn gấp. 3.1.5. Hợp đồng mua lại (Repurchase agreement - Repo) 61
  11. Hợp đồng mua lại là một hợp đồng trong đó ngân hàng bán một số lƣợng tín phiếu kho bạc mà nó đang nắm giữ, kèm theo điều khoản mua lại số tín phiếu đó sau một vài ngày hay một vài tuần với mức giá cao hơn. Về thực chất đây là một công cụ để vay nợ ngắn hạn (thƣờng không quá hai tuần) của các ngân hàng trong đó sử dụng tín phiếu kho bạc làm vật thế chấp. Sau đây là ví dụ về cách sử dụng một “Repo” để vay vốn: Một công ty lớn của Mỹ là General Motors (GM), có một số vốn nhàn rỗi trong tài khoản là 1 triệu USD. Công ty muốn tranh thủ cho vay ngắn hạn khoản tiền này. Ngân hàng Citibank khi đó đang có nhu cầu vay 1 triệu USD trong 1 tuần. Ngân hàng quyết định sử dụng một “Repo” để vay của GM bằng cách ký hợp đồng bán cho GM 1 triệu USD tín phiếu kho bạc mà ngân hàng đang nắm giữ với cam kết sẽ mua lại số tín phiếu này với giá cao hơn sau đó 1 tuần. Nhƣ vậy, thông qua hợp đồng mua lại – “Repo” nói trên, công ty GM đã cung cấp cho Citibank một khoản vay ngắn hạn, lãi trả cho GM chính là khoản chênh lệch giữa giá bán lại tín phiếu cho ngân hàng sau đó 1 tuần và giá mua tín phiếu lúc đầu. Trong trƣờng hợp xảy ra rủi ro Citibank không thanh toán đƣợc nợ cho GM khi đến hạn, 1 triệu USD tín phiếu kho bạc vẫn thuộc sở hữu của GM và công ty có thể bán trên thị trƣờng tiền tệ để thu hồi vốn về. Nhƣ vậy 1 triệu USD tín phiếu kho bạc (một công cụ có tính lỏng cao nhất và an toàn nhất trên thị trƣờng tiền tệ) đã đƣợc sử dụng làm vật thế chấp trong “Repo” để đảm bảo khả năng thanh toán nợ của Citibank và đã làm cho GM yên tâm khi cho vay. Ngoài các công cụ phổ biến trên, ở các nƣớc có thị trƣờng tiền tệ phát triển (ví dụ nhƣ Mỹ) còn có thêm một số công cụ khác nhƣ: 3.2. Các công cụ lƣu thông trên thị trƣờng vốn Các công cụ lƣu thông trên thị trƣờng vốn có độ rủi ro cao hơn so với các công cụ trên thị trƣờng tiền tệ do giá cả biến động nhiều hơn, tiềm ẩn rủi ro mất khả năng thanh toán nhƣng mức sinh lợi cao hơn vì các chứng khoán dài hạn thƣờng đem lại lợi tức lớn hơn. Sau đây là một số công cụ điển hình: 3.2.1. Cổ phiếu (StockUS/ShareUK Certificate) Cổ phiếu là một chứng thƣ hay bút toán ghi sổ xác nhận trái quyền (quyền hƣởng lợi) về vốn - equity claim - đối với thu nhập và tài sản ròng của một công ty cổ phần. 62
  12. Cổ phiếu có bản chất là một công cụ góp vốn (equity instruments) và chỉ do các công ty cổ phần phát hành. Khi cần huy động vốn, công ty cổ phần chia số vốn cần huy động thành nhiều phần nhỏ bằng nhau, gọi là các cổ phần (share/stock). Ngƣời mua những cổ phần này đƣợc gọi là cổ đông (share/stockholder). Với số cổ phần đã mua, các cổ đông đƣợc cấp một giấy chứng nhận sở hữu, giấy này gọi là cổ phiếu. Vốn mà công ty cổ phần huy động đƣợc từ việc phát hành cổ phiếu đƣợc xem là vốn thuộc sở hữu của công ty. Những cổ đông khi mua các cổ phần của công ty đã thực hiện việc góp vốn để công ty kinh doanh và do vậy trở thành những ngƣời đồng sở hữu công ty. Tỷ lệ sở hữu công ty phụ thuộc vào số cổ phần mà cổ đông nắm giữ. Do cổ phiếu đƣợc xem là giấy xác nhận quyền sở hữu của các cổ đông đối với những cổ phần này nên có thể coi cổ phiếu là chứng chỉ xác nhận sự góp vốn và quyền sở hữu về số vốn mà một cổ đông góp vào công ty cổ phần. Là ngƣời chủ sở hữu công ty, các cổ đông có những quyền cơ bản sau đây: • Quyền tham gia quản lý công ty: Quyền này đƣợc thực hiện bằng cách các cổ đông bầu ra một Hội đồng quản trị để thay mặt mình quản lý, điều hành công ty. Các cổ đông không chỉ có quyền bầu ra Hội đồng quản trị (Board of Directors) mà còn có thể tham gia ứng cử làm thành viên của Hội đồng quản trị. Số lƣợng phiếu bầu tỷ lệ với số lƣợng cổ phần mà cổ đông nắm giữ. Do vậy những ngƣời nắm giữ càng nhiều cổ phần của công ty thì càng có nhiều khả năng trở thành thành viên của Hội đồng quản trị. Ngoài ra, hàng năm công ty còn tổ chức Đại hội cổ đông (Annual shareholder meetings) để họp các cổ đông lại, bàn về các chiến lƣợc hoặc kế hoạch kinh doanh lớn của công ty. • Quyền sở hữu tài sản ròng của công ty: Các cổ đông sở hữu công ty theo tỷ lệ cổ phần nắm giữ. Do vậy, khi tài sản ròng của công ty tăng lên do làm ăn có lãi, giá trị các cổ phần mà cổ đông nắm giữ cũng tăng lên theo. Khi công ty cổ phần ngừng hoạt động, cổ đông đƣợc tham gia phân chia tài sản còn lại của công ty. Ví dụ: Tổng tài sản ban đầu của một công ty cổ phần là 10 tỷ VNĐ. Một cổ đông nắm 20% cổ phần của công ty cho nên tổng giá trị tài sản công ty mà anh sở hữu theo cổ phần là 2 tỷ VNĐ. Sau 5 năm làm ăn có lãi, tổng tài sản ròng của 63
  13. công ty tăng lên 15 tỷ VNĐ, khi đó tổng giá trị cổ phần mà anh ta sở hữu lên tới 3 tỷ VNĐ. • Quyền tham gia chia lợi nhuận ròng: Cổ đông đƣợc quyền hƣởng một phần lợi nhuận ròng của công ty tỷ lệ với số cổ phần anh ta sở hữu. Phần lãi trả cho mỗi cổ phần đƣợc gọi là cổ tức (Dividend). Quyền này chỉ đƣợc thực hiện khi công ty làm ăn có lãi. Tuy nhiên, không phải lúc nào tất cả lợi nhuận thu đƣợc đều đƣợc đem chia cho các cổ đông, cũng có trƣờng hợp nhằm tăng vốn kinh doanh cho công ty, Hội đồng quản trị quyết định giữ lại phần lớn lợi nhuận. Điều này nói chung là đƣợc các cổ đông chấp nhận vì tuy không nhận đƣợc cổ tức nhƣng giá trị cổ phần của họ trong công ty lại tăng lên, hơn thế việc tăng vốn có thể đảm bảo cho khả năng tạo thêm nhiều lợi nhuận hơn trong thời gian tới. Ngoài đặc trƣng cơ bản nói trên, cổ phiếu còn có một số đặc điểm đáng chú ý sau: - Thời hạn của cổ phiếu: Bằng cách mua cổ phiếu do công ty cổ phần phát hành, các nhà đầu tƣ đã cung cấp vốn cho công ty hoạt động. Tuy nhiên các cổ đông lại không đƣợc phép rút khoản vốn này về trừ trƣờng hợp công ty ngừng hoạt động hoặc có qui định đặc biệt cho phép đƣợc rút vốn. Chính vì lý do nhƣ vậy nên có thể coi cổ phiếu có thời hạn thanh toán vốn bằng thời gian hoạt động của công ty. Trên thực tế, trừ trƣờng hợp phá sản hoặc kết quả kinh doanh quá tồi tệ, còn nói chung thì các công ty sẽ vẫn cứ duy trì hoạt động mãi mãi, cho nên có thể nói thời hạn của cổ phiếu là vô hạn. Mặc dù vậy, các cổ đông đƣợc phép chuyển nhƣợng cổ phần mà mình nắm giữ cho ngƣời khác và bằng cách đó có thể rút lại khoản vốn mà mình đã đầu tƣ vào công ty cổ phần. - Giá trị của cổ phiếu: Giá trị của cổ phiếu đƣợc thể hiện trên 3 phƣơng diện sau: + Mệnh giá (Face value): Là số tiền ghi trên bề mặt cổ phiếu. Mệnh giá thƣờng đƣợc ghi bằng nội tệ. Mệnh giá bằng bao nhiêu là do luật chứng khoán hoặc điều lệ của công ty cổ phần qui định. Ví dụ: ở Việt nam theo NĐ144/CP, mệnh giá cổ phiếu của các doanh nghiệp Việt nam thống nhất là 10.000 VNĐ/cổ phiếu. + Giá trị ghi sổ (Book value): Là giá trị của mỗi cổ phần căn cứ vào giá trị tài sản ròng của công ty trên bảng tổng kết tài sản. Ví dụ: Một công ty có 50.000 64
  14. cổ phiếu, mệnh giá 10.000 đ/cổ phiếu. Sau 5 năm hoạt động, giá trị tài sản ròng của công ty theo sổ sách kế toán là 1 tỷ đ. Khi đó giá trị của mỗi cổ phần theo sổ sách sẽ là 20.000 đ, ta nói giá trị ghi sổ của cổ phiếu công ty bây giờ là 20.000 đ/cổ phiếu. + Giá trị thị trƣờng: Là giá cả của cổ phiếu khi mua bán trên thị trƣờng. Cổ phiếu có hai loại cơ bản sau:  Cổ phiếu thƣờng hay cổ phiếu phổ thông (Common stock): Là loại cổ phiếu có đầy đủ các đặc trƣng đã nêu trên của cổ phiếu. Đó là:  Không qui định trƣớc số cổ tức cổ đông sẽ nhận đƣợc. Giá trị cổ tức nhiều hay ít còn tuỳ vào tình hình lợi nhuận của công ty và kế hoạch chia lợi nhuận của Hội đồng quản trị. Trong trƣờng hợp công ty làm ăn thua lỗ thì chẳng những cổ tức không đƣợc chia mà cổ đông còn bị hao hụt về vốn góp. Nguyên tắc của các cổ đông cổ phiếu thƣờng là “lời ăn, lỗ chịu”.  Chỉ đƣợc chia lãi sau khi công ty đã thanh toán lãi trả cho những ngƣời nắm trái phiếu và cổ phiếu ƣu đãi.  Thời hạn cổ phiếu là vô hạn.  Đƣợc hƣởng quyền tham gia quản lý công ty cùng các quyền khác nhằm duy trì quyền quản lý công ty, nhƣ: quyền bầu cử, quyền ứng cử vào Hội đồng quản trị, quyền ƣu tiên mua trƣớc với giá ƣu đãi các cổ phiếu mới phát hành. Những cổ đông có nhiều cổ phần hoặc nhiều uy tín có thể nắm quyền điều hành công ty. Còn nói chung đa số những ngƣời đầu tƣ chỉ mua cổ phiếu thƣờng để hƣởng cổ tức hoặc bán đi khi cổ phiếu lên giá nhằm hƣởng chênh lệch giá.  Cổ phiếu ƣu đãi (Preferred Stock): Là loại cổ phiếu cho phép ngƣời nắm giữ cổ phiếu đƣợc hƣởng một số ƣu đãi hơn so với cổ đông cổ phiếu thƣờng. Ví dụ nhƣ: Đƣợc hƣởng một mức cổ tức riêng biệt có tính cố định hàng năm dù công ty làm ăn có lãi hay không, đƣợc ƣu tiên chia lãi cổ phần trƣớc cổ phiếu thƣờng, đƣợc ƣu tiên phân chia tài sản còn lại của công ty khi thanh lý, giải thể. Khác với cổ phiếu thƣờng, cổ phiếu ƣu đãi có thể có mệnh giá hoặc không có mệnh giá. Chẳng hạn một cổ phiếu ƣu đãi có mệnh giá 100 USD, tỷ suất cổ tức là 4,5% sẽ đƣợc hƣởng một khoản cổ tức cố định là 4,5 USD. Còn nếu cổ phiếu ƣu 65
  15. đãi không có mệnh giá thì cổ tức sẽ đƣợc công ty công bố đơn giản là 5 USD/cổ phiếu chẳng hạn. Hạn chế của cổ phiếu ƣu đãi so với cổ phiếu thƣờng là: • Cổ đông nắm giữ cổ phiếu ƣu đãi không đƣợc tham gia bầu cử, ứng cử vào hội đồng quản trị, tức là không đƣợc quyền tham gia quản lý công ty. • Khi lợi nhuận của công ty tăng lên thì cổ tức cổ phiếu ƣu đãi không vì thế mà đƣợc tăng lên theo. Vì cổ tức của cổ phiếu ƣu đãi không tăng, nên giá cả của cổ phiếu ƣu đãi trên thị trƣờng cũng ít biến động. Do vậy, cổ phiếu ƣu đãi thƣờng kém hấp dẫn đối với các nhà đầu tƣ hơn so với cổ phiếu thƣờng. Những ngƣời đầu tƣ vào cổ phiếu ƣu đãi thƣờng là những ngƣời muốn có thu nhập ổn định, đều đặn và không thích mạo hiểm. 3.2.2. Trái phiếu (Bond) Trái phiếu là một chứng thƣ xác nhận nghĩa vụ trả những khoản lãi theo định kỳ và vốn gốc khi đến hạn của tổ chức phát hành. Nhƣ vậy, trái phiếu có bản chất là một công cụ nợ (debt instrument). Nó có những đặc điểm cơ bản sau: - Mệnh giá của trái phiếu (Face value): Là số tiền ghi trên bề mặt của tờ trái phiếu. Mệnh giá của trái phiếu thƣờng chính là giá bán của trái phiếu khi phát hành, và đây cũng là số tiền mà nhà phát hành phải hoàn trả lại cho ngƣời sở hữu trái phiếu khi trái phiếu đáo hạn. Luật các nƣớc có thể qui định mệnh giá tối thiểu của trái phiếu. - Thời hạn của trái phiếu (Maturity): Là thời hạn vay vốn của tổ chức phát hành, nó đƣợc ghi rõ trên tờ trái phiếu. Thời hạn của trái phiếu thƣờng từ 2 năm trở lên, có thể tới hơn 10 năm. - Lãi trả cho trái phiếu (Interest): Lãi trả cho trái phiếu thƣờng đƣợc qui định theo tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá. Lãi suất trái phiếu có thể đƣợc qui định cố định hoặc thả nổi lên xuống theo lãi suất thị trƣờng. Lãi thƣờng đƣợc trả định kỳ hàng năm hoặc một năm hai lần. Kỳ hạn trả lãi cũng nhƣ lãi suất trái phiếu đều đƣợc qui định rất cụ thể trên tờ trái phiếu. 66
  16. - Ngƣời sở hữu trái phiếu (Bondholder): Bằng việc mua trái phiếu, ngƣời sở hữu trái phiếu đã cung cấp cho nhà phát hành một khoản vay ứng trƣớc. Tên của ngƣời sở hữu trái phiếu có thể đƣợc ghi trên tờ trái phiếu (nếu là trái phiếu đích danh) hoặc không đƣợc ghi (nếu là trái phiếu vô danh). Ngƣời sở hữu trái phiếu ngoài quyền đƣợc đòi lãi và vốn khi đến hạn còn có quyền chuyển nhƣợng trái phiếu cho ngƣời khác khi trái phiếu chƣa hết hạn. Khả năng thanh toán gốc và lãi của trái phiếu phụ thuộc rất nhiều vào uy tín của tổ chức phát hành, do vậy khi phân loại trái phiếu, ngƣời ta thƣờng căn cứ vào ai là nhà phát hành. Với căn cứ phân chia nhƣ vậy, trái phiếu có hai loại chủ yếu sau:  Trái phiếu chính phủ (Government bond) Trái phiếu chính phủ thƣờng dƣới dạng trái phiếu kho bạc. Đây là các trái phiếu do Kho bạc phát hành để bù đắp thâm hụt ngân sách quốc gia hàng năm. Trái phiếu kho bạc trung hạn (Treasury note) có thời hạn dƣới 10 năm, còn trái phiếu kho bạc dài hạn (Treasurybond) có thời hạn trên 10 năm. Các trái phiếu chính phủ là loại trái phiếu mua bán mạnh nhất trên thị trƣờng vốn các nƣớc nên đƣợc xem là công cụ nợ lỏng nhất trên thị trƣờng vốn. Các nhà đầu tƣ vào trái phiếu chính phủ bao gồm các ngân hàng (kể cả NHTW), các cá nhân và một số tổ chức tài chính khác. Tại Việt nam, ngoài trái phiếu kho bạc (thƣờng có thời hạn 5 năm), chính phủ còn phát hành công trái quốc gia. Các công trái này thƣờng có mức sinh lời kém, chủ yếu mang tính chất động viên ngƣời dân giúp đỡ nhà nƣớc bằng cách cho vay vốn. Ngoài ra, các ngành lớn của Việt nam cũng phát hành trái phiếu công trình để tài trợ cho hoạt động đầu tƣ của mình, ví dụ: ngành năng lƣợng phát hành trái phiếu công trình để xây dựng đƣờng dây 500 KV, tổng công ty bƣu chính viễn thông phát hành trái phiếu xây dựng hệ thống bƣu điện…  Trái phiếu công ty (Corporate bond) Trái phiếu công ty thƣờng do các công ty có uy tín lớn phát hành. Những ngƣời nắm giữ trái phiếu trở thành chủ nợ của công ty và có quyền yêu cầu thanh toán lãi và vốn khi đến hạn. Khác với các cổ đông, thu nhập của những ngƣời nắm giữ trái phiếu công ty không phụ thuộc vào tình hình lợi nhuận của công ty và họ luôn đƣợc ƣu tiên thanh toán lãi trƣớc các cổ đông, kể cả cổ đông cổ phiếu ƣu đãi. 67
  17. Các trái phiếu công ty nhìn chung có qui mô giao dịch nhỏ hơn so với các trái phiếu chính phủ, do vậy mà chúng kém lỏng hơn. Tại các nƣớc phát triển, thị trƣờng trái phiếu công ty cũng có qui mô nhỏ hơn thị trƣờng cổ phiếu công ty (tại Mỹ thị trƣờng trái phiếu công ty chỉ bằng gần 1/5 thị trƣờng cổ phiếu công ty) tuy nhiên tốc độ phát triển của nó lại nhanh hơn thị trƣờng cổ phiếu công ty nhiều nên trong tƣơng lai trái phiếu công ty có thể sẽ là một nguồn tài chính quan trọng hơn so với các cổ phiếu công ty. Nắm giữ trái phiếu công ty thƣờng là các công ty bảo hiểm (đặc biệt là công ty bảo hiểm nhân thọ), các quỹ hƣu trí, các công ty chứng khoán và cả các cá nhân. Việc phát hành trái phiếu công ty chƣa phổ biến ở Việt nam. Chủ yếu mới chỉ có các ngân hàng phát hành trái phiếu ngân hàng để vay vốn từ dân. 3.2.3. Các khoản vay thế chấp (Mortgages) Vay thế chấp là khoản tiền cho các cá nhân hoặc công ty vay đầu tƣ (mua hoặc xây dựng) vào nhà, đất, hoặc những bất động sản khác, các bất động sản và đất đó sau đó lại trở thành vật thế chấp để đảm bảo cho chính các khoản vay. Ở các nƣớc phát triển, thị trƣờng các khoản vay thế chấp có qui mô rất lớn, đặc biệt là thị trƣờng các khoản vay thế chấp để mua nhà ở. Tại Mỹ, thị trƣờng các khoản vay thế chấp là thị trƣờng nợ lớn nhất, trong đó các khoản vay thế chấp để mua nhà ở gấp bốn lần các khoản vay thế chấp thƣơng mại và nông trại. Các NHTM và các công ty bảo hiểm nhân thọ là những tổ chức cung cấp các khoản vay thế chấp thƣơng mại và nông trại chủ yếu. Còn các khoản vay thế chấp nhà ở thì thƣờng do các hiệp hội cho vay và tiết kiệm (Savings and Loan Associations _S&Ls) và các ngân hàng tiết kiệm tƣơng trợ (Mutual savings banks) cung cấp. Ngoài ra, chính phủ các quốc gia cũng hình thành nhiều tổ chức chuyên hỗ trợ cho thị trƣờng các khoản vay thế chấp này. Ví dụ: Mỹ có 3 cơ quan chính phủ là Hiệp hội vay thế chấp quốc gia thuộc liên bang (Federal National Mortgage Association – FNMA), Hiệp hội vay thế chấp quốc gia thuộc chính phủ (Government National Mortgage Association –GNMA) và Công ty cho vay thế chấp nhà ở thuộc liên bang (Federal Home Loan Mortgage Corporation – FHLMC) đang cung cấp vốn cho thị trƣờng này bằng cách phát hành các trái phiếu để huy động vốn rồi dùng vốn đó để cho vay thế chấp. Ngoài ra, thị trƣờng vay thế chấp nhà ở ngày nay còn đƣợc hỗ trợ phát triển hơn nữa 68
  18. nhờ công nghệ chứng khoán hoá. Đó là hình thức mà một cơ quan trực thuộc chính phủ nhƣ GNMA phát hành các chứng khoán thanh toán vốn và lãi bằng các khoản thu từ hoạt động cho vay thế chấp nhà ở, tức là các khoản thanh toán của các cá nhân vay thế chấp nhà ở sẽ thông qua GNMA chuyển đến cho các nhà đầu tƣ vào các loại chứng khoán bảo đảm bằng các khoản cho vay thế chấp (Mortgage-Backed Securities). Nhờ sự phát triển của công nghệ này mà đến nay 2/3 các khoản cho vay thế chấp nhà ở của Mỹ đã đƣợc chứng khoán hoá, do đó đã tạo đƣợc thị trƣờng thứ cấp cho các khoản vay thế chấp nhà ở, giúp cho thị trƣờng này thêm hấp dẫn và sôi động. 4. Chủ thể tham gia trên thị trƣờng tài chính 4.1. Các nhà phát hành Các nhà phát hành là những ngƣời đi vay trên thị trƣờng tài chính. Các nhà phát hành thông qua phát hành chứng khoán để huy động vốn tài trợ cho các hoạt động của mình. Những phân tích về các công cụ lƣu thông vốn trên thị trƣờng tài chính ở trên cho thấy không phải mọi chủ thể trong nền kinh tế đều có thể trở thành nhà phát hành để huy động vốn trên thị trƣờng tài chính. Chỉ những chủ thể trên nền kinh tế có tiềm lực tài chính lớn, uy tín cao thì mới có thể tham gia trên thị trƣờng tài chính. Những chủ thể đó bao gồm: Chính phủ, các doanh nghiệp lớn. Chính phủ nhờ nắm đƣợc quyền thu thuế nên thƣờng đƣợc coi là nguy cơ mất khả năng trả nợ rất thấp. Chính vì vậy, chính phủ gặp rất nhiều thuận lợi trong việc huy động vốn. Chi phí huy động vốn của chính phủ luôn thấp nhất trên thị trƣờng. Tiếp theo chính phủ là những doanh nghiệp lớn. Đây là những doanh nghiệp hoạt động lâu năm trên thị trƣờng, tình hình tài chính tốt. Thông tin về những doanh nghiệp này có thể dễ dàng tiếp cận nên những ngƣời cho vay có cơ hội tìm hiểu rõ và yên tâm khi quyết định cho vay. Doanh nghiệp càng có tiềm lực tài chính lớn, uy tín cao thì càng có cơ hội có thể huy động vốn với chi phí rẻ. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ gia đình thông qua hoạt động phát hành để vay trên thị trƣờng tài chính vì uy tín và tiềm lực tài chính quá nhỏ, không đủ làm cho những ngƣời cho vay tin tƣởng. Hơn nữa, quy mô mỗi đợt phát hành trên thị trƣờng tài chính thƣờng rất lớn, vì nếu quy mô nhỏ thì sẽ kém 69
  19. hiệu quả, đây cũng chính là rào cản đối với các doanh nghiệp chỉ có nhu cầu huy động vốn trung bình. 4.2. Các nhà đầu tƣ Các nhà đầu tƣ trên thị trƣờng tài chính là những ngƣời đi vay. Bằng cách đầu tƣ (mua) vào các chứng khoán, các nhà đầu tƣ đã nhƣờng cho nhà phát hành quyền sử dụng khoản vốn của mình theo những điều kiện thỏa thuận trong hợp đồng phát hành chứng khoán. 4.3. Các nhà cung cấp dịch vụ hỗ trợ Đây là các công ty cung cấp các dịch vụ nhằm hỗ trợ cho các hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trƣờng tài chính. Trƣớc tiên phải kể đến các sở giao dịch. Các sở giao dịch thƣờng đƣợc tổ chức theo mô hình công ty. Các sở giao dịch cung cấp các dịch vụ mua bán, thanh toán cho các nhà phát hành và nhà đầu tƣ. Cung cấp dịch vụ tƣơng tự là các công ty cung cấp các dịch vụ mua bán chứng khoán trực tuyến. Nhóm các công ty cung cấp các dịch vụ tiếp theo là các công ty cung cấp dịch vụ lƣu ký chứng khoán, lƣu giữ, quản lý các chứng khoán hộ cho các nhà đầu tƣ. Thƣờng các ngân hàng thƣơng mại sẽ cung cấp các dịch vụ này. Cuối cùng là các công ty cung cấp thông tin nhƣ các công ty định mức tín nhiệm (cung cấp các dịch vụ đánh giá về khả năng trả nợ của các nhà phát hành trên thị trƣờng tài chính), công ty cung cấp thông tin tài chính (thông tin về giá các chứng khoán, các chỉ số tài chính...). 4.4. Các nhà quản lý Đây là các cơ quan nhà nƣớc hoặc đƣợc nhà nƣớc ủy thác để quản lý, giám sát hoạt động của thị trƣờng tài chính nhằm đảm bảo cho thị trƣờng hoạt động đƣợc an toàn và phục vụ cho các mục tiêu kinh tế - xã hội của nhà nƣớc. Cơ quan quản lý đầu tiên phải đề cập đến là Ngân hàng Trung ƣơng. Ngân hàng Trung ƣơng với quyền phát hành tiền có khả năng tác động tới các biến số kinh tế vĩ mô quan trọng đối với thị trƣờng tài chính nhƣ lạm phát, lãi suất, vốn khả dụng của các ngân hàng, qua đó ảnh hƣởng lớn tới tình hình hoạt động trên thị trƣờng tài chính. 70
  20. CÂU HỎI ÔN TẬP CHƢƠNG 4 1. Phân biệt thị trƣờng tiền tệ và thị trƣờng vốn. 2. Khi nào những ngƣời đi vay tìm đến thị trƣờng tiền tệ? Hỏi tƣơng tự với trƣờng hợp thị trƣờng vốn. 3. Các chủ thể kinh tế nào thƣờng tham gia vào thị trƣờng tiền tệ? Hỏi tƣơng tự với thị trƣờng vốn. 4. Kể tên các thị trƣờng bộ phận của thị trƣờng tiền tệ và phân biệt chúng. 5. “Do các công ty không tăng thêm đƣợc bất kỳ đồng vốn nào trong các thị trƣờng thứ cấp nên các thị trƣờng này ít quan trọng hơn thị trƣờng sơ cấp”. Hãy bình luận ý kiến này. 6. Trình bày mối liên hệ giữa thị trƣờng sơ cấp và thị trƣờng thứ cấp. Có thị trƣờng sơ cấp và thứ cấp trên thị trƣờng tiền tệ không? 7. Sắp xếp các chứng khoán sau đây theo thứ tự giảm dần về tính lỏng: trái phiếu công ty, tín phiếu kho bạc, thƣơng phiếu, trái phiếu kho bạc. 8. Nêu điểm khác biệt giữa cổ phiếu và trái phiếu. 9. So sánh giữa cổ phiếu thƣờng và cổ phiếu ƣu đãi. 10. Những yếu tố gì làm cho cổ phiếu có độ rủi ro cao hơn trái phiếu 71
nguon tai.lieu . vn