- Trang Chủ
- Kinh tế học
- Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế: Phần 2 - TS. Vũ Văn Hùng, TS. Võ Tá Tri
Xem mẫu
- CHƯƠNG 6
HỌC THUYẾT J.M.KEYNES
VÀ TRƯỜNG PHÁI KEYNES
6.1. HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM
6.1.1. Hoàn cảnh ra đời
Những tư tưởng, quan điểm kinh tế cho đến học thuyết kinh tế của
trường phái Cổ điển đã chi phối lý thuyết kinh tế trong một thời gian dài
từ thế kỷ XVII đến nửa đầu của thế kỷ XIX, đặc biệt với lý thuyết xuyên
suốt là lý luận giá trị lao động khi coi lao động là nguồn gốc của giá trị
và các lý giải của các nhà kinh tế đều xoay quanh vấn đề này. Đến những
năm cuối của thế kỷ XIX, sự ra đời của các nhà kinh tế thuộc trường phái
Tân cổ điển, lúc này phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã được xác
lập một cách vững chắc tại các quốc gia phát triển, trọng trách của các
nhà kinh tế học tư sản thời kỳ này không phải là xóa bỏ những quan hệ
sản xuất cũ, cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất mà cần phải tìm
ra cách thức sản xuất tốt nhất với phương thức sản xuất hiện tại đang phát
sinh các vấn đề mà về mặt lý thuyết kinh tế chưa đáp ứng và lý giải một
cách thuyết phục14. Như vậy, đối với trường phái Tân cổ điển, người tiêu
dùng lúc này trở thành vấn đề trọng tâm vì họ là người thực hiện giá trị
của hàng hóa. Quá trình thỏa mãn nhu cầu khi tiêu dùng sản phẩm là quá
trình gia tăng sự bão hòa nhu cầu, cường độ nhu cầu giảm dần. Với sự
gia tăng số lượng thì công dụng của từng đơn vị hàng hóa sẽ giảm dần.
Từ đây xuất hiện nguyên lý tính hữu dụng giảm dần. Giá trị trong quan
điểm của trường phái Tân cổ điển là sự đánh giá giá trị chủ quan của
người tiêu dùng, nó thể hiện rằng cần có bao nhiêu đơn vị hàng hóa để
thỏa mãn nhu cầu. Lượng dự trữ vật phẩm hiện có càng lớn thì giá trị của
nó càng nhỏ. Người tiêu dùng đánh giá các vật phẩm có độ lớn đã biết
tính theo độ hữu dụng biên của chúng. Giá trị trao đổi ở đây được hiểu
14
Phạm Văn Chiến, Nguyễn Ngọc Thanh (2010), Lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb.
Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr 382.
149
- rộng hơn so với lý thuyết giá trị của trường phái Cổ điển vì họ giải thích
giá trị của sản phẩm được tạo ra trong sản xuất và trong lưu thông. Theo
họ, nguyên lý cơ bản của quản lý tối ưu đối với cả hàng hóa tiêu dùng lẫn
các yếu tố sản xuất là nguyên lý cân bằng tính hữu dụng biên. Các nhà
Tân cổ điển cho rằng sự thịnh vượng của xã hội, số lượng sản phẩm hiện
có không chỉ được tạo ra nhờ sự tăng số lượng của các yếu tố sản xuất
mà còn do sự phân phối tốt hơn giữa các khả năng khai thác khác nhau số
lượng hiện có của các yếu tố sản xuất như lao động, tư bản, đất đai,..
Việc thay đổi về mặt nhận thức các vấn đề trọng tâm của nền kinh tế,
việc lần đầu tiên toán học và mô hình, đồ thị được ứng dụng vào phân
tích kinh tế, những nỗ lực đưa các biến động kinh tế vào các mô hình,
chú trọng đến vấn đề phân phối, tích lũy, những cố gắng trong việc tìm
hiểu về sự vận hành của nền kinh tế và sự cần bằng,… thể hiện ở các nhà
kinh tế học thuộc trường phái Tân cổ điển chính là những gợi mở cho sự
phân tích của các nhà kinh tế tiếp theo, các trường phái tiếp theo ở tầm vĩ
mô đầu thế kỷ XX. Bên cạnh đó, sự thành công của lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin về nền kinh tế kế hoạch hoá trong thực tiễn ở Liên Xô (trước
đây) vừa bắt buộc, vừa tạo tiền đề cho các nhà kinh tế học tư sản, tính
đến khả năng của Nhà nước trong điều tiết kinh tế.
Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đặc biệt đầu những năm 30
của thế kỷ XX tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của nước Anh và thế
giới có nhiều biến động lớn. Ngay từ đầu thế kỷ XX ở Anh cũng như ở
các nước tư bản đã công nghiệp hoá, lực lượng sản xuất phát triển mạnh
cả về quy mô, trình độ và đặc biệt là tính chất xã hội hóa cao. Với một
nền kinh tế khổng lồ có tính chất xã hội hóa cao và sự cạnh tranh gia
tăng đòi hỏi phải có sự điều chỉnh của nhà nước vào quá trình phát triển
kinh tế - xã hội.
Thời điểm này, các mâu thuẫn kinh tế - xã hội ở các nước tư bản
(trước hết ở Mỹ và Anh) diễn ra gay gắt. Sự hoạt động tự phát của nền
kinh tế đã dẫn đến những cuộc khủng hoảng lớn cho nền kinh tế. Cuộc
khủng hoảng kinh tế năm 1921 mà đặc biệt là cuộc đại khủng hoảng kinh
tế thế giới kéo dài từ 1929 - 1933 bắt đầu ở Mỹ sau đó lan sang các nước
tư bản khác, khủng hoảng kinh tế kéo dài, các nhà máy đóng cửa, sa thải
hàng loạt công nhân. Người lao động không có thu nhập hoặc thu nhập
150
- quá thấp làm cho sức mua càng giảm sút, mâu thuẫn xã hội diễn ra gay
gắt càng đe doạ sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản. Tại Anh, chủ nghĩa bảo
thủ đang thống trị, chế độ bản vị vàng đựơc áp dụng trở lại, sức mua tiền
tệ tăng khuyến khích nhập khẩu, do vậy càng hạn chế đầu tư, gánh nặng
của thất nghiệp càng leo thang.
Hộp 6.1
Trong thời kỳ này, sản xuất công nghiệp giảm sút mạnh, thất nghiệp
xuất hiện với mức độ lớn. Nếu lấy 1929 làm chuẩn là 100% thì ở Anh, sản
xuất công nghiệp năm 1931 chỉ đạt 23,8%; ở Đức: 40,6%; ở Mỹ: 46,2%;
ở Pháp: 31,4%. Mức sản xuất công nghiệp ở Anh chỉ bằng mức sản xuất
của năm 1913. So với năm 1929, công nghiệp đóng tàu của Anh vào năm
1933 giảm 91% (gần như tê liệt), sản xuất quặng sắt năm 1932 giảm
52,9%, sản xuất thép năm 1931 giảm 46%. Trước chiến tranh thế giới thứ
nhất, tỷ lệ thất nghiệp ở Anh giao động khoảng 2% - 7%. Trong những
năm khủng hoảng, tỷ lệ này là 22%. Ở Mỹ, giai đoạn này thất nghiệp là
25%. Vấn đề thất nghiệp từ một hiện tượng của nền kinh tế đã trở thành
vấn đề cơ bản có tính chất hệ thống và thời đại.
Nguồn: Phạm Văn Chiến, Nguyễn Ngọc Thanh (2010), Lịch sử các
học thuyết kinh tế, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr 383 - 384.
Những biến động về kinh tế, xã hội đã phá vỡ các quan niệm vốn đã
và đang thống trị của các nhà kinh tế trường phái Cổ điển và Tân cổ điển.
Họ cho rằng trong chủ nghĩa tư bản tất yếu có việc làm đầy đủ, cơ chế
giá cả và tiền lương linh hoạt, luôn đảm bảo cung ngang cầu. Giá cả biến
động đủ để đảm bảo cho các nhà sản xuất bán hết sản phẩm. Tiền lương
biến động đủ để tất cả công nhân muốn làm việc với mức lương hiện
hành có thể tìm được việc làm. Giả sử có thất nghiệp thì đó là thất nghiệp
tự nguyện. Chính sách của Nhà nước không nên và không thể tác động
vào mức thất nghiệp và sản lượng. Nó chỉ có thể ảnh hưởng đến mức giá
cả. Trước tình hình đó, nhu cầu thực tiễn đặt ra là phải có một học thuyết
kinh tế mới cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản đang suy thoái, giúp nền kinh
tế tư bản thoát ra khỏi khủng hoảng.
Lý thuyết kinh tế của J.M.Keynes là sản phẩm của một trí tuệ và tổng
hợp tất cả các hoàn cảnh cơ bản trên. Trường phái Keynes do John
Maynard Keynes (1883 - 1946) sáng lập. Ông sinh ra tại Cambridge, Anh,
151
- là nhà kinh tế nổi tiếng ở Anh và thế giới, là nhà khoa học cần cù,
nghiêm túc có năng lực bẩm sinh, sinh ra trong một gia đình trí thức điển
hình và được đào tạo trong một môi trường thuận lợi. Bố ông, John
Neville Keynes giảng dạy tại trường đại học Cambridge về logic học và
kinh tế chính trị học. Mẹ ông, Florence Ada là một trong những người
phụ nữ đầu tiên tốt nghiệp đại học Newham College. Bà là người phụ nữ
đầu tiên trở thành cố vấn thị chính ở Cambridge và năm 1932 được bầu
làm thị trưởng, là người rất có ảnh hưởng đến J.M.Keynes. Trong sự
nghiệp khoa học của ông, cũng như A.Marshall, thầy giáo trực tiếp xuất
sắc của mình, J.M.Keynes bắt đầu từ toán học. Năm 14 tuổi, với vị trí thứ
nhất về toán, ông vào trường đại học Eton và tốt nghiệp với “điểm ưu
toàn diện” ông được quyền vào trường đại học Hoàng gia của Cambridge
với môn học lựa chọn là toán học. Giống như A.Marshall và chính
A.Marshall đã khuyến khích “cậu học trò” J.M.Keynes trở thành nhà
kinh tế học. Năm 1909, ông làm trợ lý giảng dạy tại trường. Ông là một
chuyên gia trong lĩnh vực tài chính, tín dụng và lưu thông tiền tệ, làm cố
vấn cho Nhà vua và Chính phủ Anh về ngân khố quốc gia, một người
hoạt động thực tiễn và là một nhà thương lượng trong liên minh Anh,
Pháp, Mỹ và Nga chống chủ nghĩa phát xít. Năm 1911 ông là tổng biên
tập tạp chí “Kinh tế” (The Economic Journal) thuộc “Hội kinh tế học
Hoàng gia” (Royal Economic Society) và làm cho đến cuối đời. Ông viết
nhiều tác phẩm như “Tiền tệ Ấn Độ và tài chính” (1913); “Cải cách tiền
tệ” (1923); “Bàn về tiền tệ (1930); “Làm thế nào để trả tiền cho chiến
tranh”(1940);… Tuy vậy, nổi tiếng nhất là tác phẩm “Lý thuyết chung về
việc làm, lãi suất và tiền tệ” (1936), đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử
học thuyết kinh tế và là tác phẩm trình bày đầy đủ nhất các tư tưởng, luận
điểm của J.M.Keynes. Việc biên soạn quyển sách này diễn ra trong bối
cảnh suy thoái. Từ đầu những năm 1930, Keynes quan tâm nhiều đến
khủng hoảng việc làm, vốn rất sâu sắc ở Mỹ và Anh, ông nêu vấn đề này
trong một số thông cáo gửi đến tổng thống Roosevelt, kể cả lá thư ngỏ
nổi tiếng đăng trên tờ The New York Times. J.M.Keynes khuyên rằng
nên kiên quyết thực hiện chính sách tài chính (thuế của Chính phủ và các
chính sách về chi phí) để bổ sung vào cơ chế thị trường của bộ phận tư
nhân mà theo ông là không thể tự giải quyết được vấn đề việc làm. Thực
tế, dường như Roosevelt đã áp dụng lời khuyên của J.M.Keynes nhưng ở
152
- mức thận trọng. Cho dù tình tiết đó có ý nghĩa gì đi nữa, nhưng rõ ràng
cho thấy bối cảnh những năm 1930 phần lớn diễn ra như quan điểm của
J.M.Keynes trước khi ông biên soạn quyển sách nổi tiếng này15.
6.1.2. Đặc điểm cơ bản của trường phái J.M.Keynes
6.1.2.1. Đặc điểm về nội dung
Thứ nhất, đối lập với tư tưởng của trường phái Cổ điển và Tân cổ
điển, ông không đồng ý với quan điểm về sự cân bằng kinh tế dựa trên cơ
sở tự điều tiết của thị trường tự do. Ông kịch liệt phê phán chính sách
kinh tế của chủ nghĩa bảo thủ và cho rằng tình trạng không ổn định của
nền kinh tế, khủng hoảng và thất nghiệp ngày càng gia tăng không phải là
hiện tượng nội sinh của chủ nghĩa tư bản, mà là do chính sách kinh tế lỗi
thời, bảo thủ thiếu sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế đã gây ra.
Theo ông, vấn đề nan giải nhất, nguy hiểm nhất đối với chủ nghĩa tư bản
không phải là khủng hoảng, lạm phát… mà là thất nghiệp. Vì vậy, trong
lý thuyết kinh tế của ông đều tập trung vào giải quyết hai vấn đề lớn là
tăng trưởng và việc làm trên cơ sở phát huy vai trò điều tiết nền kinh tế
của nhà nước.
J.M.Keynes đã tiến hành phân tích nền kinh tế ở tầm vĩ mô, trong
cuốn sách “Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ”, ông viết:
“Tôi đặt tên cho cuốn sách này là lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và
tiền tệ, trong đó nhấn mạnh đến chữ tổng quát. Đặt tên cho cuốn sách
như vậy vì tôi muốn nhấn mạnh rằng bản chất các lập luận và các kết
luận của tôi đối lập với lý thuyết Cổ điển về chủ đề này, lý thuyết mà tôi
đã được đào tạo, lý thuyết đang thống trị trong quan điểm kinh tế, cả về
lý thuyết và thực hành, của các Chính phủ và giới khoa học thế hệ ngày
nay cũng như trong suốt 100 năm gần đây. Tôi sẽ chứng minh những
định đề của lý thuyết Cổ điển không áp dụng được cho trường hợp tổng
quát mà chỉ cho trường hợp đặc biệt, bởi vì tình trạng được giả định trong
lý thuyết này là trường hợp giới hạn cho những hoàn cảnh cân bằng có
thể. Hơn nữa, những đặc trưng của trường hợp đặc biệt mà lý thuyết Cổ
điển giả định không tồn tại trong nền kinh tế xã hội ngày nay của chúng
ta. Vì vậy, áp dụng các lý thuyết Cổ điển vào cuộc sống hiện nay là lạc
15
Robert Burton Ekelund, jr và Robert Fry Hébert (2004), Lịch sử các học thuyết kinh
tế, Nxb. Thống kê, Hà Nội, tr 520.
153
- hướng và sẽ nhận lấy những kết quả tai hại”. Trong lời tựa lần xuất bản
bằng tiếng Pháp của tác phầm “Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và
tiền tệ”, J.M.Keynes đã giải thích thuật ngữ “Lý thuyết chung”. Với thuật
ngữ này, J.M.Keynes muốn “chú trọng đến cách ứng xử của hệ thống
kinh tế nói chung với tổng thu nhập, tổng lợi nhuận, tổng sản lượng, tổng
số việc làm, tổng số vốn đầu tư, tổng số tiến tiết kiệm chứ không chỉ đơn
thuần về thu nhập, lợi nhuận, sản lượng, việc làm, vốn đầu tư và tiết kiệm
của các ngành, các công ty hoặc các cá nhân riêng biệt”.16
Thứ hai, lý thuyết của J.M.Keynes đánh giá cao vai trò của tiêu dùng,
của lĩnh vực trao đổi, coi đây là nhiệm vụ số một mà các nhà kinh tế học
phải giải quyết. Theo ông khi việc làm tăng lên thì thu nhập cũng tăng
lên, do đó, có sự tăng lên của tiêu dùng. Nhưng do khuynh hướng tâm lý
nên mức tăng của tiêu dùng chậm hơn mức tăng của thu nhập nên cầu
tiêu dùng giảm và do đó cầu có hiệu quả giảm xuống. Đây là nguyên
nhân gây ra khủng hoảng, thất nghiệp và trì trệ trong nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa. Muốn đẩy mạnh sản xuất, bảo đảm cân đối cung và cầu thì
cần phải tăng cầu tiêu dùng, tìm biện pháp kích thích cầu có hiệu quả. Rõ
ràng lý thuyết của J.M.Keynes là lý thuyết trọng cầu.
6.1.2.2. Đặc điểm về phương pháp
Thứ nhất, cũng như các đại biểu của trường phái Tân cổ điển,
phương pháp nghiên cứu của J.M.Keynes dựa trên cơ sở tâm lý chủ quan.
Tuy vậy, nếu các nhà kinh tế học thuộc trường phái Tân cổ điển, dựa vào
tâm lý cá biệt thì ngược lại, phương pháp của J.M.Keynes lại dựa vào
tâm lý xã hội khi đưa ra mô hình kinh tế vĩ mô với 3 đại lượng (đại lượng
xuất phát, đại lượng khả biến phụ thuộc và đại lượng khả biến độc lập)
làm cơ sở cho việc nghiên cứu. J.M.Keynes chỉ ra rằng điều kiện bảo
đảm cho tái sản xuất bình thường, thúc đẩy tăng trưởng, giải quyết tình
trạng khủng hoảng và thất nghiệp là đầu tư bằng tiết kiệm (I = S), khuyến
khích đầu tư. Trong lý thuyết của ông những phạm trù phản ánh tâm lý
xã hội sống động như khuynh hướng tiêu dùng, khuynh hướng tiết
kiệm… được sử dụng phổ biến.
16
J.M.Keynes (1994), Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ, Người dịch: Đỗ
Trọng Hợp, Trần Mạnh Chín, Lê Minh Nguyệt, Nxb. Giáo dục, tr 31.
154
- Thứ hai, ngược lại với các nhà Tân cổ điển, phương pháp phân tích
kinh tế của ông là phương pháp phân tích vĩ mô có hệ thống. Theo ông
việc phân tích kinh tế phải xuất phát từ các tổng lượng lớn để nghiên cứu
mối liên hệ của các tổng lượng đó và khuynh hướng chuyển biến của
chúng. Trên cơ sở nghiên cứu những tổng lượng này có thể rút ra những
kết luận chung vận dụng cho các đơn vị kinh tế cá biệt.
Thứ ba, học thuyết kinh tế của J.M.Keynes ra đời thực sự đã trở
thành phương thuốc hữu hiệu cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản đang trong
thời kỳ suy thoái và là cơ sở lý luận cho sự điều tiết kinh tế của nhà nước
trong chủ nghĩa tư bản độc quyền. Học thuyết này được các nhà kinh tế
học, giai cấp tư sản và nhà nước tư bản đánh giá cao. Tuy vậy, phương
pháp luận của ông có tính siêu hình vì ông coi lý thuyết của mình đúng
trong mọi chế độ xã hội phát triển.
6.2. LÝ THUYẾT CHUNG VỀ VIỆC LÀM CỦA J.M.KEYNES
6.2.1. Khái quát lý thuyết chung về việc làm của J.M.Keynes
Trong lý thuyết của J.M.Keynes “việc làm” là một khái niệm tổng hợp,
nó không chỉ xác định tình trạng thị trường lao động, sự vận động của thất
nghiệp mà còn bao gồm cả tình trạng sản xuất, tổng cầu, khối lượng sản
phẩm, quy mô của thu nhập, tiết kiệm, đầu tư,... Do vậy “việc làm” ở đây
được hiểu như là sự cụ thể hoá tình trạng nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và
làm cơ sở cho việc điều tiết toàn bộ nền kinh tế của Nhà nước.
- Nguyên nhân thất nghiệp
J.M.Keynes lập luận: khi việc làm tăng lên thì tổng thu nhập thực tế
tăng lên. Do tâm lý xã hội là khi thu nhập tăng thì tiêu dùng cũng tăng.
Nhưng tốc độ tăng tiêu dùng chậm hơn so với tăng thu nhập vì họ có
khuynh hướng dành một phần thu nhập để tiết kiệm nhằm một mục đích
hay do một động cơ nào đó. Sản xuất sẽ bị giảm sút vì các nghiệp chủ sẽ
bị thua lỗ nếu sử dụng toàn bộ số lao động tăng thêm để sản xuất sản
phẩm thoả mãn nhu cầu dự kiến trực tiếp tăng thêm tương ứng với tổng
thu nhập của họ. Đây là trường hợp tổng cầu không tương ứng với thu
nhập. Do sản xuất giảm tương đối nên cầu lao động giảm. Đó là nguyên
nhân dẫn đến thất nghiệp.
155
- - Biện pháp giải quyết thất nghiệp
Theo J.M.Keynes, muốn khắc phục tình trạng trên, cần phải có một
khối lượng đầu tư nhằm kích thích quần chúng tiêu dùng phần tiết kiệm
của họ tức kích thích cầu hiệu quả. Hoặc nói cách khác là muốn giải
quyết vấn đề thất nghiệp thì phải tăng đầu tư để mở rộng sản xuất, tăng
cầu lao động. Vì vậy với một tỷ lệ nào đó của “khuynh hướng tiêu dùng”
của quần chúng thì mức cân bằng việc làm sẽ tuỳ thuộc vào số đầu tư
hiện tại. Khối lượng đầu tư hiện tại đến lượt nó lại phụ thuộc vào các yếu
tố kích thích đầu tư. Yếu tố kích thích đầu tư chính là lợi nhuận, hiểu đơn
giản là sự chênh lệch giữa “hiệu quả giới hạn” của tư bản và lãi suất.
Khi phân tích nền kinh tế thị trường tự do tư bản chủ nghĩa,
J.M.Keynes nhận thấy tồn tại một mâu thuẫn, cái mà cơ chế tự do tự nó
không giải quyết được. Đó là: muốn giải quyết thất nghiệp, phải tăng đầu
tư, đầu tư tăng thì yếu tố kích thích đầu tư giảm vì “hiệu quả giới hạn”
của tư bản giảm còn lãi suất tương đối ổn định. Muốn giải quyết vấn đề
này ông nhận thấy cần phải có sự can thiệp, tác động từ bên ngoài vào.
Đó chính là cách mà J.M.Keynes giải thích cho sự cần thiết và là cơ sở để
xây dựng chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô của chính phủ.
Cụ thể khi phân tích ông đưa ra ba đại lượng làm cơ sở cho việc xây
dựng mô hình kinh tế vĩ mô.
Một là đại lượng xuất phát (đại lượng xác định). Đây là những đại
lượng được coi là không thay đổi hay thay đổi chậm, gồm các yếu tố như:
trình độ chuyên môn và số lượng hiện thời của lực lượng lao động sẵn có,
chất lượng và số lượng thiết bị của thiết bị sẵn có, kỹ thuật hiện có, mức
độ cạnh tranh, các thị hiếu và thói quen của người tiêu dùng cũng như
cấu trúc xã hội. Thực tế đây không phải là những yếu tố bất biến mà ở
đây ông cho là không xét hoặc không tính đến những hậu quả thay đổi
của chúng.
Hai là đại lượng khả biến độc lập (những đại lượng có thể thay đổi
độc lập). Đó là những khuynh hướng tâm lý như khuynh hướng tiêu dùng,
khuynh hướng tiết kiệm, khuynh hướng đầu tư, ưa chuộng tiền mặt, đồ
thị hiệu quả biên của vốn và lãi suất. Tuy nhiên, những đại lượng khả
biến độc lập cũng phụ thuộc vào rất nhiều những nhân tố khách quan và
156
- chủ quan khác. Nhóm này chính là cơ sở hoạt động của mô hình, là đòn
bẩy bảo đảm cho sự hoạt động của các tổ chức kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Ba là, đại lượng khả biến phụ thuộc (là những đại lượng một mình nó
không thể thay đổi được): Tổng sản phẩm, tổng việc làm, thu nhập quốc
dân. Đại lượng này cụ thể hoá tình trạng nền kinh tế. Các đại lượng này
thay đổi theo sự tác động của các biến cố độc lập hay do các đại lượng
khả biến độc lập chi phối. Giữa các đại lượng khả biến độc lập và khả
biến phụ thuộc có mối liên hệ với nhau.
Vấn đề việc làm và giải quyết việc làm là nội dung trung tâm và cốt
lõi của toàn bộ học thuyết kinh tế của J.M.Keynes. Từ đây, vấn đề đặt ra
trong hàm ý của nghiên cứu của J.M.Keynes là sự cần thiết phải có điều
tiết của Nhà nước (Sơ đồ 6.1).
Tổng Tổng
Tổng sản thu Tiêu Tiết
việc phẩm nhập dùng kiệm
làm (Q) (R) (C) (S)
Nhà nước Đầu
điều tiết tư
(I)
TỔNG CẦU
Sơ đồ 6.1. Khái quát lý thuyết chung về việc làm của J.M. Keyenes
Nguồn: Phạm Văn Chiến, Nguyễn Ngọc Thanh (2010), Lịch sử các
học thuyết kinh tế, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr 388.
Nếu ký hiệu AD là tổng cầu, Q là tổng sản phẩm (giá trị sản lượng),
R là thu nhập, C là tiêu dùng, I là đầu tư và S là tiết kiệm
Tổng việc làm quyết định tổng sản phẩm.
157
- Tổng sản phẩm = Tổng thu nhập = Tiêu dùng + Tiết kiệm (Q = R =
C + I)
Tiêu dùng + Đầu tư bằng tổng chi tiêu hay tổng cầu (Tổng cầu = C + I)
Tổng cầu quyết định tổng việc làm mới, đến đây quá trình trên được
lặp lại.
Theo sơ đồ 6.1:
- Không phải lao động tạo ra của cải mà là việc làm tạo ra của cải, việc
làm mới là nguồn gốc của của cải. Trong tác phẩm Lý thuyết chung về việc
làm, lãi suất và tiền tệ, thực chất J.M.Keynes cũng nghiên cứu nguồn gốc,
bản chất và các phương thức làm tăng của cải của quốc gia. “Việc làm” cụ
thể hơn “lao động”, việc làm ngoài “lao động” còn muốn nói đến cả những
điều kiện của lao động hay tư bản. Đứng trên phương diện vĩ mô thì không
phải tổng lao động (bao gồm cả số lượng và chất lượng lao động) tạo ra tổng
sản phẩm, tổng thu nhập mà là tổng việc làm tạo ra tổng sản phẩm, tổng thu
nhập. Tổng việc làm quy định vấn đề tăng trưởng.
- Tổng việc làm do tổng cầu quy định chứ không phải chỉ phụ thuộc
vào đầu tư.
- Tổng cầu do tổng tiêu dùng và tổng đầu tư quyết định.
- Tổng cầu còn phụ thuộc vào lãi suất, do vậy tiền không chỉ đóng
vai trò trung gian trong trao đổi mà tiền tệ và lãi suất còn có tác động làm
tăng hay giảm tổng cầu.
- Tiết kiệm có xu hướng tăng, còn đầu tư có xu hướng giảm tương
đối và chỉ trong điều kiện đặc biệt (hoàn hảo) thì tiết kiệm mới bằng đầu
tư (tức S = I trong điều kiện lý tưởng).
- Tổng sản phẩm chỉ bằng tổng cầu trong trường hợp đặc biệt, nền
kinh tế tự phát luôn ở trạng thái trì trệ.
Sơ đồ 6.1 cho ta thấy rõ tư tưởng của J.M.Keynes về vai trò điều tiết
vĩ mô của nhà nước. Thực chất là nhà nước bằng những lực lượng kinh tế
của mình, tác động vào những đại lượng khả biến độc lập, tiền tệ và lãi
suất để thay đổi tổng cầu, đến lượt nó sẽ làm thay đổi tổng việc làm, tổng
sản phẩm, tổng thu nhập. Trước hết, nhà nước tác động vào tỷ lệ phân
chia giữa tiêu dùng và tiết kiệm bằng chính sách thuế. Thuế thực chất là
lấy vào tiết kiệm để hình thành ngân sách nhà nước. Thuế và tăng thuế
158
- đều làm cho tiết kiệm giảm. Còn việc chi tiêu ngân sách cũng sẽ làm thay
đổi tỷ lệ giữa tiêu dùng và đầu tư, thay đổi tổng cầu. Như vậy, chính sách
tài khóa có tác động mạnh mẽ trong việc điều tiết tổng cầu. Chính sách
tiền tệ (tiền tệ và lãi suất) cũng có tác động đến phân chia tỷ lệ giữa tiêu
dùng và tiết kiệm. Khi lạm phát thực chất đã làm giảm tiết kiệm vì cùng
một số tiền tiết kiệm nhưng mua được ít hàng hơn, phần tiết kiệm ít đi đã
làm gia tăng tiêu dùng. Lãi suất có tác động mạnh đến việc biến tiết kiệm
thành đầu tư và kích thích đầu tư để gia tăng tổng cầu. Với chính sách tài
khóa và chính sách tiền tệ, nhà nước có thể tác động một cách chủ động
làm thay đổi tổng cầu, điều tiết tổng việc làm, chủ động trong việc ổn
định và tăng trưởng kinh tế.17
Học thuyết của J.M.Keynes đánh giá cao vai trò tiêu dùng, của lĩnh
vực trao đổi, coi tiêu dùng và trao đổi là nhiệm vụ số một mà kinh tế học
phải giải quyết. Theo ông, cùng với sự tăng lên của việc làm, thì cũng có
sự tăng lên của thu nhập, do đó, có sự tăng lên của tiêu dùng. Nhưng mức
tăng tiêu dùng chậm hơn mức tăng thu nhập nên cầu tiêu dùng, do đó cầu
có hiệu quả giảm xuống. Đây là nguyên nhân gây ra khủng hoảng, thất
nghiệp, trì trệ trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Vì thế đẩy mạnh sản
xuất, bảo đảm cân đối cung và cầu thì cần phải nâng cầu tiêu dùng, tìm
biện pháp kích thích cầu có hiệu quả. Cho nên, học thuyết của ông được
gọi là học thuyết trọng cầu.
6.2.2. Các phạm trù cơ bản trong lý thuyết chung về việc làm
6.2.2.1. Tổng cầu
J.M.Keynes lập luận, thất nghiệp chỉ có thể giải quyết hiệu quả bằng
việc vận dụng tổng cầu. Công nhân sẵn sàng chấp nhận việc tăng giá gây
ra từ tăng cầu, dựa vào mức lương danh nghĩa ổn định. Tăng như thế sẽ
làm giảm tiền lương danh nghĩa, qua đó kích thích việc làm. Ông xoay
quanh đề xuất trường phái Cổ điển đưa ra: Việc làm không tăng bằng
cách giảm tiền lương thực tế, nhưng tiền lương thực tế giảm vì việc làm
tăng do tăng tổng cầu. Giải thích chi tiết hơn về nội dung này,
J.M.Keynes đã đề cập đến khái niệm tổng cầu. Khi tiếp cận khái niệm
tổng cầu, ông đã trình bày quan sát các yếu tố quyết định và đặc điểm của
17
Phạm Văn Chiến, Nguyễn Ngọc Thanh (2010), Lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb.
Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr 389-390.
159
- những bộ phận cấu thành của tổng cầu hàng hóa. Điểm chính trong số
này là tổng tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ tư nhân, nghĩa là hàm tiêu
dùng. Hàm tiêu dùng liên kết tiêu dùng mọi hàng hóa và dịch vụ tư nhân
với tổng mức thu nhập18. Tổng cầu trong lý thuyết của J.M.Keynes được
đề cập đến cầu tiêu dùng và cầu đầu tư vì quan điểm cơ bản trong lý
thuyết về việc làm của J.M.Keynes là nguyên nhân của thất nghiệp chính
là tổng cầu không đủ độ lớn cần thiết. Muốn tăng việc làm cần tăng tổng
cầu, do đó cần khuyến khích tiêu dùng, khuyến khích đầu tư.
a. Cầu tiêu dùng
- Tiêu dùng
Trong “lý thuyết chung” của J.M.Keynes vấn đề tiêu dùng (hay lý
thuyết về cầu) có một vai trò đặc biệt quan trọng. Ở đây, ông rất quan
tâm đến những vấn đề mà các nhà cổ điển bỏ qua (như D.Ricardo bỏ qua
vấn đề tổng cầu) hay nêu ra nhưng lại không phù hợp (quan điểm “cung
tạo ra cầu của chính nó” của J.B.Say). Đồng thời ông dành nhiều sự chú
ý đến nghiên cứu cầu tiêu dùng và khuynh hướng tiêu dùng. Với ông, cầu
tiêu dùng có vai trò xác định độ lớn của thu nhập quốc dân đồng thời phụ
thuộc vào thu nhập quốc dân.
Hạt nhân của lý thuyết của J.M.Keynes là “việc làm”. Ông nhận thấy
khối lượng nhân công được xác định bởi giao điểm giữa hàm số cầu tổng
hợp và hàm số cung tổng hợp vì tại điểm này dự kiến mức lợi nhuận của
nghiệp chủ đạt được mức tối đa. Hay số lượng việc làm phụ thuộc vào
tổng cung và tổng cầu (hay cầu thực tế). Tuy nhiên, khác với các nhà Cổ
điển và Tân cổ điển, Keynes cho rằng trong hai nhân tố tác động xác định
khối lượng việc làm thì tổng cầu có vai trò quyết định. Số lượng lao động
mà các nghiệp chủ quyết định sử dụng tuỳ thuộc vào tổng cầu. Đến lượt
mình tổng cầu bao gồm số tiền mà cộng đồng định tiêu dùng và số tiền
mà cộng đồng định dành cho đầu tư mới và do vậy nó phụ thuộc vào các
yếu tố: mức chi tiêu cá nhân của mỗi gia đình, mức chi tiêu cho đầu tư,
mức chi tiêu của chính phủ và chi tiêu ròng của nước ngoài đối với hàng
hoá sản xuất trong nước (xuất khẩu ròng). Theo ông, trong một nền kinh
tế khá phát triển, tổng cầu thường không theo kịp với tổng cung vì lúc đó
18
Robert Burton Ekelund, jr và Robert Fry Hébert (2004), Lịch sử các học thuyết kinh
tế, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
160
- xu hướng tiết kiệm một phần thu nhập cao sẽ tăng lên. Do vậy tồn tại một
nghịch lý đó là sự “bần cùng giữa sự phồn vinh”. Vì tình trạng cầu thực
tế không đủ khiến cho mức tăng việc làm phải dừng lại trước khi đạt
được tình trạng toàn dụng nhân công.
Sự thiếu hụt cầu thực tế sẽ cản trở quá trình sản xuất và với những
cộng đồng càng giàu có thì khoảng cách giữa mức sản xuất thực tế và
mức sản xuất tiềm năng sẽ càng rộng vì vậy, các nhược điểm của hệ
thống kinh tế càng rõ rệt và càng trầm trọng hơn.
- Khuynh hướng tiêu dùng
Tiêu dùng là một trong những bộ phận của tổng cầu. Theo J.M.Keynes
thu nhập được chia thành tiêu dùng và tiết kiệm. Từ đó ông thấy có hai
khuynh hướng xảy ra đối với tiêu dùng và tiết kiệm. Trong đó khuynh
hướng tiêu dùng là tương quan hàm số giữa thu nhập và chi tiêu cho tiêu
dùng rút ra từ thu nhập đó. Theo Keynes, số tiền mà cộng đồng chi cho
tiêu dùng tùy thuộc vào những nhân tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng
đến khuynh hướng tiêu dùng19.
Những nhân tố khách quan ảnh hưởng đến khuynh hướng tiêu dùng:
(1) Sự thay đổi trong đơn vị tiền lương;
(2) Sự thay đổi về chênh lệch giữa thu nhập và thu nhập ròng: số tiền
tiêu dùng phụ thuộc vào thu nhập ròng chứ không phải thu nhập, vì thu
nhập ròng là cái mà người tiêu dùng chủ yếu quan tâm đến trước khi
quyết định mức chi tiêu của mình;
(3) Những thay đổi bất ngờ về giá trị - tiền vốn không được tính đến
trong thu nhập ròng. Sự chi tiêu của tầng lớp giàu có rất dễ bị chi phối
bởi những thay đổi không thể lường trước được về mặt giá trị tài sản của
họ tính bằng tiền. Đây là nhân tố cần được xem như là một trong những
nhân tố quan trọng có thể gây ra những thay đổi ngắn hạn trong khuynh
hướng tiêu dùng.
(4) Những thay đổi trong tỷ lệ chiết khấu theo thời gian, nghĩa là
những thay đổi về tỷ lệ trao đổi giữa các hàng hóa hiện tại và hàng hóa
tương lai. Theo J.M.Keynes, khi lãi suất giảm xuống rất thấp, mức tăng
19
Phạm Văn Chiến, Nguyễn Ngọc Thanh (2010), Lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb.
Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr 395.
161
- của tỷ lệ giữa sức mua hàng năm của một khoản tiền nhất định và tiền lãi
hàng năm thu được từ số tiền này có thể tạo nên một nguồn tiết kiệm tiêu
cực quan trọng, bằng cách khuyến khích những người già mua sổ góp
tiền hàng năm lấy tiền lãi để bảo đảm cho tuổi già.
(5) Những thay đổi về chính sách tài khóa: thuế thu nhập, thuế lợi
nhuận vốn, thuế tài sản thừa kế và nhiều loại thuế khác cũng có tác động
thiết thực như lãi suất;
(6) Những thay đổi trong các dự kiến về quan hệ giữa mức thu nhập
hiện tại và tường lai. Theo J.M.Keynes, nhân tố này có tác động đáng kể
tới khuynh hướng tiêu dùng của một cá nhân riêng biệt, nhưng đối với
cộng đồng, thì không có tác động đáng kể do bị bình quân hóa.
J.M.Keynes khẳng định: “Trong một hoàn cảnh nhất định, khuynh
hướng tiêu dùng có thể được coi như một hàm số khá ổn định, miễn là
chúng ta loại trừ những biến động trong đơn vị tiền lương tính bằng tiền,..
Mức chi tiêu dùng tính bằng đơn vị tiền lương tùy thuộc chủ yếu vào
khối lượng sản xuất và số việc làm”20.
Nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến khuynh hướng tiêu dùng:
Đây là nhóm nhân tố thứ hai tác động tới mức tiêu dùng tương ứng
từ một mức thu nhập nhất định. Đó là những động cơ chủ quan và xã hội
quyết định cần phải tiêu dùng bao nhiêu khi biết mức thu nhập tổng hợp
tính bằng đơn vị tiền lương và những nhân tố khách quan có liên quan.
Theo J.M.Keynes, có các nhân tố hạn chế (cản trở) tiêu dùng:
(1) Dự phòng: Lập một khoản dự trữ dành cho những chi tiêu bất ngờ;
(2) Nhìn xa, thấy trước: Dự phòng để đáp ứng cho các nhu cầu chi
tiêu tương lai vì mối quan hệ giữa thu nhập và các nhu cầu của cá nhân
và gia đình không còn giống nhau như hiện tại nữa. Chẳng hạn như dự
phòng cho khi tuổi già, tiền học phí cho con cái trong gia đình, nuôi con
khi còn chưa đến tuổi tự lập;…
(3) Tính toán chi li: Thu thêm lợi tức và mức gia tăng giá trị tiền vốn
để đảm bảo có một sự tiêu dùng thực sự cao hơn về sau này so với mức
tiêu dùng trước mắt còn hạn chế hơn;
20
J.M.Keynes (1994), Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ, Người dịch: Đỗ
Trọng Hợp, Trần Mạnh Chín, Lê Minh Nguyệt, Nxb. Giáo dục, tr 136.
162
- (4) Cải thiện mức sống: Tăng dần mức chi tiêu vì khuynh hướng chung
của mọi người thường hướng về một đời sống luôn luôn được cải thiện chứ
không phải ngược lại, mặc dù khả năng hưởng thụ có thể bị suy giảm;
(5) Tự lập: Tạo cho bản thân một ý thức độc lập và có khả năng làm
những điều mình muốn dù chưa có một ý kiến rõ ràng hoặc một ý định
nào đó về một hành động cụ thể:
(6) Kiêu hãnh: Làm giàu và để lại một gia tài cho con cháu;
(7) Hà tiện: Thỏa mãn tính hà tiện, vô lý nhưng dai dẳng nhằm đề
phòng những khoản chi thực sự.
Bên cạnh đó cũng có các nhân tố kích thích tiêu dùng như: Hưởng
thụ, thiển cận, hào phóng, thiếu suy tính, phô trương và ngông cuồng.
- Khuynh hướng tiêu dùng giới hạn
Lý thuyết khuynh hướng tiêu dùng giới hạn (khuynh hướng biên
trong tiêu dùng) được J.M.Keynes tập trung phân tích. Đây là một trong
những nội dung mà ông đặc biệt quan tâm. Vấn đề này được coi như là
một mắt xích trong hệ thống tự động dẫn đến mâu thuẫn mà nền kinh tế
thị trường tự phát. J.M.Keynes viết trong chương VIII, lý thuyết chung
về việc làm, lãi suất và tiền tệ”: “Quy luật tâm lý cơ bản mà chúng ta có
quyền dựa vào với một sự tin tưởng sâu sắc, vừa do có sự hiểu biết của
chúng ta về bản chất con người, vừa do có những kinh nghiệm thực tế,
cho thấy là con người luôn luôn sẵn sàng tăng mức tiêu dùng khi mức thu
nhập của họ tăng, nhưng con người không tăng mức tiêu dùng bằng mức
thu nhập”. Đó chính là khuynh hướng tiêu dùng giới hạn.
J.M.Keynes nhận thấy khi thu nhập quốc dân tăng lên thì tiêu dùng
cũng tăng nhưng với tốc độ chậm hơn (dẫn đến tổng cầu không đủ). Tỷ lệ
tiêu dùng so với tỷ lệ thu nhập giảm dần. J.M.Keynes giải thích điều này
bằng sự thích ứng chậm trễ của thói quen tiêu dùng và tâm lý tiêu dùng.
Đó là, trong thời gian ngắn, không đủ để thói quen tiêu dùng thích ứng
với những với những hoàn cảnh đã thay đổi, khi thu nhập thấp thì tiêu
dùng hết thu nhập. Khi thu nhập dư thừa thì mong muốn tiết kiệm trỗi
dậy, tốc độ thu nhập ngày càng tăng cùng với sự gia tăng của thu nhập
thực tế. Việc tính đến yếu tố tâm lý (tâm lý cộng đồng) trong việc nghiên
cứu các hành vi kinh tế vĩ mô là một đóng góp rất quan trọng của
163
- J.M.Keyens. Ngày nay, yếu tố tâm lý người tiêu dùng đóng vai trò quan
trọng trong việc đưa ra các quyết sách của công ty, chính phủ.
Khuynh hướng tiêu dùng giới hạn là tương quan tỷ lệ giữa phần thu
nhập gia tăng dành cho tiêu dùng so với mức gia tăng thu nhập. Nếu ký
hiệu khuynh hướng tiêu dùng giới hạn là dC/dR. Trong đó:
dC: Tiêu dùng gia tăng tính theo đơn vị tiền lương
dR: Thu nhập gia tăng
Như vậy, dC là số tiền tiêu dùng, dR là số tiền thu nhập (cả hai đều
tính theo đơn vị tiền lương) thì dC và dR cùng dấu (cùng chiều), nhưng
nhỏ hơn về số lượng, nghĩa là dC/dR là số dương và nhỏ hơn 121.
Theo J.M.Keynes trạng thái tinh thần của cộng đồng là: Khi tổng thu
nhập thực tế tăng lên, thì tổng tiêu dùng cũng tăng lên, nhưng không phải là
cùng môt tổng số như nhau, cả dC và dR có dấu hiệu giống nhau nhưng dR
lớn hơn dC. Theo ông khi thu nhập thấp hơn hoặc chỉ bằng với mức tiêu
dùng cần thiết, người ta phải dành toàn bộ thu nhập cho tiêu dùng. Khi thu
nhập vượt quá mức này sẽ xuất hiện thiên hướng dành một phần thu nhập
cho tiết kiệm mặc dù mức tiêu dùng có tăng lên. Khi thu nhập tuyệt đối tăng
lên nữa, đặc biệt khi họ đạt được mức tiện nghi nào đó rồi, họ sẽ trích từ
phần thu nhập tăng thêm cho tiết kiệm nhiều hơn còn phần cho tiêu dùng
thêm ít đi. Nói cách khác theo ông khuynh hướng tiêu dùng giới hạn giảm
dần cùng với mức tăng của thu nhập, ngược lại khuynh hướng tiết kiệm thì
tăng lên. Ông nhận xét là các quốc gia hay cộng đồng càng giàu có thì
khuynh hướng tiêu dùng giới hạn càng kém đi.
Theo J.M.Keynes, dC/dR có tác động ổn định, trong thời kỳ nền kinh
tế phồn vinh, nó kìm hãm sự tăng quá mức của tổng cầu vì cầu tiêu dùng
tăng chậm hơn sự tăng của thu nhập quốc dân. Còn trong thời kỳ khủng
hoảng nó phanh sự rơi xuống của tổng cầu vì cầu tiêu dùng giảm ở mức
độ nhỏ hơn sự giảm của thu nhập quốc dân. Theo J.M.Keynes, cần kích
thích tiêu dùng để làm tăng tổng cầu, qua đó tăng việc làm.
Từ sự phân tích trên ông đi đến kết luận là: Cùng với việc làm tăng
sẽ làm tăng thu nhập, vì vậy, cũng làm tăng tiêu dùng. Song, do khuynh
21
J.M.Keynes (1994), Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ, Người dịch: Đỗ
Trọng Hợp, Trần Mạnh Chín, Lê Minh Nguyệt, Nxb. Giáo dục, tr 137.
164
- hướng tiêu dùng giới hạn giảm dẫn đến sự giảm sút tương đối cầu tiêu
dùng. Đó là nguyên nhân gây ra tình trạng trì trệ và thất nghiệp ở các
cộng đồng giàu có. Khuynh hướng tiêu dùng giới hạn biến động trong
khoảng từ 0 đến 1. (Bảng 6.1)
- Tiền lương:
J.M.Keynes bác bỏ lý thuyết tiền lương và giá cả linh hoạt của
trường phái Cổ điển và Tân cổ điển. Ông cho rằng, tiền lương và giá cả
không linh hoạt. Bởi vì: (1) Tiền lương được trả theo hợp đồng đã thỏa
thuận, do đó tiền lương không biến động; (2) Giá cả nhiều mặt hàng do
nhà nước điều tiết, có điều chỉnh nhưng không phải ngay lập tức có tác
dụng, thường từ vài tháng đến 1 năm trước khi ủy ban điều chỉnh thực
hiện; (3) Sức ỳ của các tổ chức lớn; (4) Những chấn động về cung và cầu
chỉ tác động đến giá cả và tiền lương sau một thời gian khá dài.
Trường phái Tân cổ điển cho rằng, việc giảm tiền lương trong trường
hợp có thất nghiệp sẽ làm tăng việc làm, do đó muốn tăng việc làm thì
giảm tiền lương. J.M.Keynes cho rằng, muốn làm tăng việc làm cần làm
tăng tổng cầu. Sự giảm tiền lương làm tăng việc làm chỉ đúng cho doanh
nghiệp hoặc ngành công nghiệp. Trên phạm vi toàn xã hội, thì sự thay đổi
của tiền lương chỉ có thể tác động đến mức việc làm thông qua sự thay
đổi của tổng cầu. Muốn biết được điều này thì cần xem xét tác động của
việc giảm tiền lương đến khuynh hướng tiêu dùng, đến độ lớn của tổng
cầu. Theo ông, không thể đo được tác động này. Ông phản đối quan điểm
của trường phái Cổ điển và Tân cổ điển cho rằng tiền lương linh hoạt có
vai trò điều tiết, chính sách tiền lương mềm dẻo là cách để có công ăn
việc làm đầy đủ. Ông đưa ra một số khả năng: nếu giá cả giảm ít hơn sự
giảm của tiền lương thì khuynh hướng tiêu dùng, qua đó là cầu tiêu dùng
và công ăn việc làm giảm (vì thu nhập giảm); tiền lương giảm, đồng thời
chi phí sản xuất giảm, tạo thuận lợi cho xuất khẩu thì nó làm tăng công
ăn việc làm, nếu các nhà đầu tư nhận định rằng việc giảm tiền lương chỉ
là tạm thời, trong tương lai tiền lương sẽ tăng lên thì đó là hoàn cảnh tạo
ra lợi nhuận mong đợi. Và điều đó kích thích họ sử dụng khả năng tiền
lương thấp hơn, tăng dần đầu tư hiện tại và việc làm. Nhưng nếu họ tính
đến việc tiền lương tiếp tục giảm thì họ sẽ hoãn đầu tư, và khi đó công ăn
việc làm sẽ không tăng. J.M.Keynes cho rằng, nhà nước có thể dùng
165
- chính sách kinh tế vĩ mô để tác động làm tăng cầu tiêu dùng và cầu đầu
tư, góp phần làm tăng việc làm, tăng thu nhập quốc dân.
Nhà kinh tế học thuộc trường phái Trọng tiền Milton Friedman (1912 -
2006), đã nhận xét: “Một trong những kết quả quan trọng nhất của cuộc
cách mạng Keynes là quan điểm đã trở thành phổ biến, quan điểm coi tiền
lương và giá cả không linh hoạt như là điểm xuất phát của sự phân tích
những thay đổi kinh tế có thời hạn ngắn. Nghĩa là mức độ thay đổi của tổng
cầu danh nghĩa sẽ được phản ánh hoàn toàn trong sự thay đổi của sản lượng
và được phản ánh ở mức độ nhỏ trong sự thay đổi của giá cả”22.
b. Cầu đầu tư
- Tiết kiệm và khuynh hướng tiết kiệm:
Tiết kiệm là phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng. Cũng tương tự
như vậy, tiết kiệm ròng là phần dôi ra của thu nhập ròng so với tiêu dùng.
Tiết kiệm = Thu nhập - Tiêu dùng; Hay S=R-C
Bảng 6.1: Xu hướng tiêu dùng và tiết kiệm
Thu nhập (R) Tiêu dùng (C) Tiết kiệm (S)
Tổng Tăng Tăng Tổng Tăng
Tổng số
TT số thêm thêm số thêm
(C)
(R) (dR) (dC) (S) (dS)
1 40 40
2 60 20 60 20 0
3 100 40 80 20 20 20
4 110 10 87 7 23 3
5 120 10 93 4 27 4
6 130 10 98 5 32 5
6
Nguồn: Mai Ngọc Cường (1995), Các học thuyết kinh tế - Lịch sử
phát triển, tác giả và tác phẩm, Nxb. Thống kê, Hà Nội tr 235.
Theo J.M.Keynes khối lượng tiết kiệm là kết quả của thái độ chung
của tập thể người tiêu dùng cũng như các cá nhân người tiêu dùng. Qua
22
Milton Friedman: Infláció, munkanélkũliség, monetarizmus (Lạm phát, thất nghiệp,
chủ nghĩa tiền tệ), tiếng Hungary, Budapest, Kõzgazdaság és Jogi Kõnyvkiadó, 1986.
166
- phân tích khuynh hướng tiêu dùng giới hạn, ông đã làm rõ là, với mọi
cộng đồng khi thu nhập đạt mức cao hơn nhu cầu tiêu dùng thiết yếu đều
xuất hiện khuynh hướng dành một phần thu nhập để tích luỹ. Khuynh
hướng tiêu dùng giới hạn giảm bởi khuynh hướng tiết kiệm tăng (dS)
(bảng 6.1). Nguyên nhân của sự gia tăng tiết kiệm chủ yếu là do tác động
của yếu tố tâm lý chủ quan. Những yếu tố chủ quan do tác động hạn chế
tiêu dùng chính là các nhân tố khuyến khích tiết kiệm.
Ví dụ: Với 1 $ thu nhập tăng thêm, dành 0,8 $ cho tiêu dùng thêm và
0,2 $ cho tiết kiệm thêm thì ta sẽ có dC=0,8$, và dS =0,2$.
- Đầu tư
Sự phân tích đầu tư của J.M.Keynes được thực hiện cùng với những
nghiên cứu về tiết kiệm. Đầu tư hiện tại, theo ông, đó là sự tăng thêm giá
trị hiện tại cho số trang thiết bị, là kết quả của các hoạt động sản xuất
trong thời kỳ đó. Tổng mức đầu tư (I) là số chênh lệch giữa số tiền mà
nghiệp chủ bỏ ra để mua thành phẩm của các nghiệp chủ khác so với chi
phí đã sử dụng trang thiết bị của thời kỳ dó. Phần chênh lệch này là số
tăng thêm vào trang thiết bị sản xuất do kết quả của các hoạt động sản
xuất của thời kỳ này, ông gọi đó là đầu tư của của thời kỳ này. Còn số gia
tăng ròng cho trang thiết bị sản xuất, sau khi đã trừ đi phần giảm giá trị
thông thường của trang thiết bị, do hao mòn qua sử dụng và những thay
đổi không lường trước được về giá trị trang thiết bị đó được ghi vào tài
khoản vốn, ông gọi đó là đầu tư ròng của thời kỳ đó.
Khi phân tích đầu tư J.M.Keynes khẳng định đầu tư và tiết kiệm là
phù hợp với nhau. Khối lượng đầu tư là kết quả của thái độ chung của
các nghiệp chủ và cá thể, nó phải bằng với khối lượng tiết kiệm vì cả hai
đều là phần dôi ra của thu thu nhập so với tiêu dùng.
- Số nhân đầu tư
Số nhân đầu tư được trình bày gắn liền với khuynh hướng tiêu dùng giới
hạn vì cái trước có quan hệ nhân quả với cái sau. Số nhân đầu tư là quan hệ
tỷ lệ giữa gia tăng thu nhập so với gia tăng đầu tư. Nó phản ánh mức tăng
thu nhập khi đầu tư tăng và cho chúng ta biết khi đầu tư tăng thì thu nhập sẽ
được khuyếch đại lên bao nhiêu lần. “Nó cho chúng ta biết rằng khi có một
lượng thêm về đầu tư tổng hợp, thì thu nhập sẽ tăng thêm một lượng bằng k
lần mức tăng đầu tư”. J.M.Keynes ký hiệu k là số nhân:
167
- k = dR
dI Trong đó: dR: là gia tăng thu nhập; dI: là gia tăng đầu tư
Từ phương trình trên có thể suy ra: dR = k x dI
Rõ ràng là với một mức gia tăng đầu tư (dI) nào đó, thu nhập sẽ được
khuyếch đại bằng đúng k lần. Nguyên nhân của sự gia tăng thu nhập khi
gia tăng đầu tư nằm ở chính quan hệ giữa thu nhập và đầu tư của tất cả
các tầng lớp kinh doanh và tiêu dùng của cộng đồng đó. Đầu tư của lớp
người này biến thành thu nhập của lớp người kia, thu nhập này trở thành
đầu tư mới của họ, đầu tư mới này lại tạo thành thu nhập của lớp người
sau nữa. Cứ như vậy với một lượng gia tăng tổng hợp ban đầu, nó hình
thành một chuỗi biến hoá về đầu tư và thu nhập. Hậu quả tích cực của số
nhân trước hết là phóng đại thu nhập lên, kéo theo sự gia tăng của cầu bổ
sung công nhân. Do đó số nhân có một ý nghĩa trực tiếp lớn đối với vấn
đề “việc làm”.
Theo J.M.Keynes số nhân có mối liên hệ phụ thuộc với khuynh
hướng tiêu dùng giới hạn. Từ việc cho rằng đầu tư (I) bằng tiết kiệm (S)
nên theo ông dI = dS, tức là mức gia tăng đầu tư bằng mức gia tăng tiết
kiệm. Thay dI = dS vào phương trình trên để tính k ta có:
dR dR dR 1
k= hay k = = =
dI dS dR − dC 1 − dC
dR
Thuần tuý về mặt toán học, k chỉ phụ thuộc và tỷ lệ thuận với khuynh
hướng tiêu dùng giới hạn (dC/dR); khuynh hướng tiêu dùng giới hạn
càng tăng thì số nhân càng lớn và ngược lại. “Nếu khuynh hướng tiêu
dùng gần bằng 1, thì những biến động nhỏ về đầu tư sẽ dẫn đến những
biến động lớn hơn về việc làm; nhưng đồng thời, một lượng tăng thêm
đầu tư tương đối nhỏ sẽ dẫn đến tình trạng có việc làm đầy đủ. Mặt khác
nếu khuynh hướng tiêu dùng giới hạn không lớn hơn số 0 bao nhiêu thì
những biến động nhỏ về đâu tư sẽ dẫn tới những biến động nhỏ tương
ứng về việc làm, nhưng đồng thời, việc này có thể đòi hỏi một lượng lớn
về đầu tư để tạo ra tình trạng có việc làm đầy đủ”.
168
nguon tai.lieu . vn