Xem mẫu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI Đồng chủ biên: TS. Vũ Văn Hùng - TS. Võ Tá Tri GIÁO TRÌNH LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ NHÀ XUẤT BẢN HÀ NỘI - 2021
  2. LỜI NÓI ĐẦU Lịch sử các học thuyết kinh tế là môn học đã và đang được giảng dạy ở hầu hết các trường đại học và cao đẳng thuộc khối ngành kinh tế - quản trị kinh doanh. Tại Trường Đại học Thương mại, lịch sử các học thuyết kinh tế đã được giảng dạy từ lâu và cho đến nay cùng với quá trình đổi mới và nâng cao chất lượng trong bối cảnh đổi mới giáo dục và đào tạo; đào tạo đáp ứng nhu cầu của xã hội, sự thay đổi trong kết cấu chương trình và nhu cầu cần có tài liệu phục vụ cho giảng dạy và học tập nên việc biên soạn giáo trình trong bối cảnh hiện tại rất cần thiết. Để có thêm tài liệu chính thức, thống nhất và phù hợp, được sự đồng ý của Ban Giám hiệu, chúng tôi biên soạn giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế nhằm giới thiệu những kiến thức cơ bản nhất phục vụ cho giảng dạy và học tập học phần này tại Trường Đại học Thương mại. Về phần nội dung, chúng tôi cố gắng trình bày tóm tắt các học thuyết kinh tế với nguyên tắc phản ánh trung thực nhất các học thuyết của các nhà kinh tế. Về kết cấu, cuốn sách trình bày theo logic phát triển phù hợp với tiến trình phát triển lịch sử các học thuyết kinh tế. Giáo trình được biên soạn dựa theo chương trình môn học thuộc các ngành, chuyên ngành theo Quyết định số 224/QĐ-ĐHTM ngày 26 tháng 3 năm 2018 của Hiệu trưởng Trường Đại học Thương mại phê duyệt về việc phân công các học phần thuộc bộ chương trình đào tạo các chuyên ngành trình độ đại học theo hệ thống tín chỉ. Phân công biên soạn: TS. Vũ Văn Hùng: Chương 1, 2, 6 TS. Võ Tá Tri: Chương 3, 4, 5, 7 TS. Võ Tá Tri và ThS. Lê Thị Anh: Chương 8 TS. Hồ Kim Hương: Chương 9 Trong quá trình biên soạn giáo trình, chúng tôi đã tham khảo, kế thừa và vận dụng có chọn lọc nhiều kiến thức của các nhà nghiên cứu, 3
  3. các giảng viên trong và ngoài nước qua các tài liệu có liên quan đến lịch sử các học thuyết kinh tế. Đồng thời, chúng tôi cũng đã bổ sung nhiều nội dung cụ thể bằng việc cập nhật những kiến thức hiện đại thể hiện qua việc trình bày cô đọng các vấn đề cơ bản của lịch sử các học thuyết kinh tế nhưng vẫn đảm bảo tuân thủ các nội dung cơ bản trong đề cương học phần đang được sử dụng tại Trường Đại học Thương mại. Có nhiều cách tiếp cận, kết cấu khác nhau đối với học phần lịch sử các học thuyết kinh tế, song với thời lượng 2 tín chỉ và kết cấu 9 chương, chúng tôi đã cố gắng chọn lọc và hướng vào những nội dung cơ bản nhất của lịch sử các học thuyết kinh tế nhằm phục vụ tốt nhất quá trình giảng dạy và học tập của giảng viên và sinh viên Trường Đại học Thương mại. Bên cạnh đó, giáo trình cũng gợi mở cho người học những phương pháp và kỹ năng vận dụng kiến thức và hiểu biết của mình trước hết làm cơ sở cho học tập các môn học cơ sở ngành và chuyên ngành, tiếp đến là phân tích, đánh giá và vận dụng vào thực tiễn cuộc sống. Trong quá trình biên soạn giáo trình, chúng tôi đã nhận được nhiều ý kiến đóng góp của đồng nghiệp trong và ngoài trường. Nhân đây, tập thể tác giả bày tỏ lòng cảm ơn tới các nhà khoa học, đồng nghiệp và bạn đọc đã có những nhận xét, đánh giá, góp ý quý báu giúp chúng tôi hoàn thành giáo trình đảm bảo yêu cầu. Mặc dù đã rất cố gắng nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót, chúng tôi mong nhận được nhiều ý kiến nhận xét, góp ý để giáo trình tiếp tục được bổ sung, chỉnh sửa và hoàn thiện hơn./. Tập thể tác giả 4
  4. CHƯƠNG 1 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ 1.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Để xác định đúng đối tượng nghiên cứu cần phân biệt Tư tưởng kinh tế và Học thuyết kinh tế. Những tư tưởng, quan điểm kinh tế có từ thời cổ đại, đó là những ý tưởng, quan niệm về một nội dung kinh tế nào đó trong đời sống xã hội như quan điểm về sản xuất vật chất, về phân phối của cải, về sự giàu có... Tư tưởng kinh tế thời cổ đại được hình thành không có hệ thống, thông thường chỉ là một số quan điểm được trình bày rải rác khi các nhà tư tưởng cổ đại nghiên cứu về các vấn đề như triết học, đạo đức, tôn giáo, giáo dục hay các vấn đề có tính khoa học khác. Tư tưởng kinh tế xuất hiện cả ở phương Đông và phương Tây, gắn với tên tuổi của các nhà khoa học như Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Aristote, Platon, Xenophon... Tuy nhiên, những tư tưởng kinh tế chưa được trình bày một cách hệ thống và chưa trở thành học thuyết, kinh tế học chưa xuất hiện. Đến giữa thế kỷ XV, với sự ra đời của của chủ nghĩa tư bản, sự xuất hiện nền dân chủ tư sản và kinh tế thị trường tư bản vừa đặt ra yêu cầu vừa tạo điều kiện cho khoa học nói chung trong đó có kinh tế học ra đời và phát triển. Các quan điểm kinh tế được nghiên cứu và trình bày một cách hệ thống, từ đó các học thuyết kinh tế xuất hiện. Như vậy, lịch sử các học thuyết kinh tế nghiên cứu quá trình phát sinh, phát triển, đấu tranh và thay thế lẫn nhau của các hệ thống quan điểm kinh tế của các giai cấp cơ bản trong các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau. Lịch sử các học thuyết kinh tế nghiên cứu các tư tưởng và quan điểm kinh tế đã được hình thành thành một hệ thống nhất định. So với Lịch sử tư tưởng kinh tế, phạm vi nghiên cứu của Lịch sử học thuyết kinh tế hẹp hơn, vì nó không nghiên cứu bất cứ tư tưởng kinh tế nào, 5
  5. mà chỉ nghiên cứu những tư tưởng kinh tế có tính khái quát hoá cao, đặc trưng cho một xu hướng, khuynh hướng, hay một giai đoạn lịch sử nào đó của xã hội. Học thuyết kinh tế với bản chất phản ánh sự vận động của các quan hệ kinh tế vào trong bộ óc con người, nó phụ thuộc vào: Một là, học thuyết kinh tế phụ thuộc vào đối tượng mà nó phản ánh. Các quan hệ kinh tế khách quan được con người nhận thức, tư duy, suy nghĩ,... nhằm tìm ra những mối liên hệ nội tại, bên trong của nó. Đối tượng của lịch sử các học thuyết kinh tế không phải là những quan hệ kinh tế khách quan mà nó thuộc lĩnh vực tư tưởng, tinh thần, là những kết quả của quá trình nhận thức. Sự vận động, phát sinh, phát triển và hoàn thiện của những quan hệ kinh tế khách quan đóng vai trò quyết định sự vận động, phát sinh, phát triển của nhận thức, của các học thuyết kinh tế. Những giai đoạn khác nhau của nền kinh tế - xã hội đều sản sinh ra những học thuyết kinh tế khác nhau. Ví dụ như quan hệ kinh tế thời cổ đại đã nảy sinh ra những tư tưởng kinh tế thời cổ đại, những quan hệ kinh tế thời phong kiến đã nảy sinh ra tư tưởng kinh tế thời trung cổ, sự ra đời chủ nghĩa tư bản đã nảy sinh học thuyết trọng thương... Như vậy, lịch sử các học thuyết kinh tế là sự phản ánh quá trình vận động, phát triển của nền sản xuất, của nền kinh tế. Hai là, học thuyết kinh tế là kết quả nhận thức của con người, đại biểu cho một tầng lớp, một nhóm người nhất định trong xã hội. Học thuyết kinh tế mang bản chất xã hội của tầng lớp, nhóm người mà nó đại biểu, trước hết nó mang đậm vị thế và lợi ích của tầng lớp hay nhóm người đã sản sinh ra nó, do vậy đã xuất hiện những khuynh hướng, xu hướng các học thuyết kinh tế khác nhau của những nhóm người, tầng lớp khác nhau, hay các trường phái khác nhau. Cùng một thời điểm lịch sử, những người có vị thế và lợi ích khác nhau, có nhận thức khác nhau đã dẫn đến hình thành những học thuyết kinh tế khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về một quan hệ kinh tế. Sự vận động, phát triển của các học thuyết kinh tế thể hiện thông qua cuộc đấu tranh trong các lĩnh vực nhận thức kinh tế. Với tư cách này, lịch sử các học thuyết kinh tế được thể hiện thông qua cuộc đấu tranh trong lĩnh vực nhận thức kinh tế, đấu tranh tư tưởng của các trường phái trong lĩnh vực nhận thức kinh tế. 6
  6. Ba là, lịch sử các học thuyết kinh tế là kết quả của quá trình nhận thức, do vậy nó tuân theo các quy luật của quá trình nhận thức. Nhận thức từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ nông đến sâu, từ ngoài vào trong, từ kinh nghiệm đến quy luật, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện. Chẳng hạn, nhận thức của loài người đạt đến một trình độ nào đó mới xuất hiện chữ viết, mới có thể ghi chép lại những kinh nghiệm mà họ đã đúc kết ra từ đời sống thực tiễn. Phải phát triển đến mức độ nào đó thì mới khái quát, hệ thống thành các học thuyết kinh tế, nhận thức kinh tế phải đạt đến sự phát triển cao đến mức nào đó mới có thể phát hiện ra những quy luật kinh tế. Do vậy, không có tư tưởng, học thuyết nào là tuyệt đối, hoàn mỹ và cuối cùng, tất cả chỉ là những nấc thang để nhận thức quy luật khách quan, một tư tưởng, học thuyết chỉ mang tính tương đối, chỉ có tính tuyệt đối trong một điều kiện cụ thể nhất định. Với tư cách này, lịch sử các học thuyết kinh tế là lịch sử của quá trình nhận thức những quan hệ kinh tế của loài người, là tư tưởng kinh tế chung của loài người. Đối tượng nghiên cứu của lịch sử các học thuyết kinh tế là các học thuyết kinh tế của các giai cấp khác nhau trong các giai đoạn phát triển của xã hội loài người. 1.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.2.1. Cơ sở phương pháp luận Phương pháp biện chứng duy vật là phương pháp chủ đạo, xuyên suốt của Chủ nghĩa Mác - Lênin được sử dụng với nhiều ngành khoa học khác nhau. Phương pháp này đòi hỏi khi xem xét các hiện tượng, các quá trình nghiên cứu phải đặt trong mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, thường xuyên vận động, phát triển không ngừng chứ không bất biến. Quá trình phát triển là quá trình tích lũy về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất. Phương pháp biện chứng duy vật coi nguồn gốc của sự phát triển là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Phương pháp này tuân thủ nguyên tắc vật chất quyết định ý thức, vì vậy cũng đòi hỏi khi xem xét các hiện tượng và quá trình kinh tế gắn liền với những điều kiện và hoàn cảnh kinh tế xã hội cụ thể. Phương pháp biện chứng duy vật đòi hỏi trong nghiên cứu phải đảm bảo nguyên tắc khách quan, nguyên tắc toàn diện và nguyên tắc lịch sử - cụ thể. 7
  7. Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, nghiên cứu học phần lịch sử các học thuyết kinh tế cần phải xem xét quá trình hình thành, xuất hiện, phát triển của các học thuyết kinh tế để thấy được quá trình vận động và phát triển của chúng. Sự phát triển đó phải luôn đặt trong mối quan hệ giữa biện chứng và tác động qua lại giữa các yếu tố. Hệ thống các quan điểm kinh tế là kết quả của việc nghiên cứu, phản ánh hiện thực quan hệ sản xuất vào ý thức con người trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh tế đòi hỏi phải xem xét các vấn đề kinh tế trong mối quan hệ và tác động qua lại lẫn nhau của sự phát triển. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của C. Mác là thành tựu vĩ đại của tư tưởng khoa học và thực chất của quan niệm duy vật lịch sử về lịch sử là những vấn đề mang tính nguyên lý. Trong sản xuất, con người phải có mối quan hệ với nhau đó là quan hệ sản xuất trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối. Quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất phát triển đến một mức độ nhất định sẽ mâu thuẫn với chính quan hệ sản xuất mà trước đây đã từng phù hợp với nó. Từ chỗ là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất đó đã kìm hãm sự phát triển của nó và khi đó một sự thay đổi lớn tất yếu phải diễn ra. Nguyên tắc chung làm cơ sở phương pháp luận đối với lịch sử các học thuyết kinh tế là nghiên cứu một cách có hệ thống các quan điểm kinh tế, đồng thời đánh giá đúng đóng góp, hạn chế của các nhà kinh tế trong mỗi giai đoạn lịch sử. Điều đó đòi hỏi việc nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh tế phải tuân thủ một cách triệt để nguyên tắc lịch sử. Không nên xem xét các học thuyết, quan điểm kinh tế trong quá khứ bằng tiêu chuẩn hiện tại mà phải đánh giá ý nghĩa của nó căn cứ vào trình độ phát triển khoa học kinh tế của thời đại đó. 1.2.2. Các phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh tế, có thể sử dụng nhiều phương pháp như: phương pháp biện chứng duy vật, phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp logic - lịch sử, phương pháp thống kê, mô hình,….. Tuy nhiên, do đối tượng nghiên cứu là các học thuyết kinh tế, một số phương pháp chủ yếu sau: 8
  8. 1.2.2.1. Phương pháp trừu tượng hóa khoa học Là phương pháp nghiên cứu đặc thù của lịch sử các học thuyết kinh tế. Phương pháp trừu tượng hoá khoa học đòi hỏi gạt bỏ những yếu tố ngẫu nhiên xảy ra trong những quá trình và những hiện tượng được nghiên cứu, tách ra những cái ổn định, điển hình trong những hiện tượng và quá trình đó, trên cơ sở ấy nắm được bản chất của các hiện tượng, từ bản chất cấp một tiến đến bản chất ở trình độ sâu hơn, hình thành những phạm trù và những quy luật phản ánh những bản chất đó. Trong quá trình nghiên cứu, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đôi khi chưa phản ánh đúng bản chất của vấn đề nghiên cứu. Do đó, phải sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học để giữ lại những yếu tố bản chất trong phân tích quá trình phát triển các học thuyết kinh tế từ đó mới có thể đánh giá đúng bản chất và thấy được xu hướng, quá trình vận động và phát triển của các học thuyết kinh tế. 1.2.2.2. Phương pháp logic - lịch sử Phương pháp logic, theo Ăng ghen, phương pháp logic không phải là cái gì khác phương pháp lịch sử, chỉ có điều là nó thoát khỏi những hình thức lịch sử và những ngẫu nhiên, pha trộn. “Lịch sử bắt đầu từ đâu, quá trình tư duy cũng phải bắt đầu từ đó và sự vận động tiếp tục thêm nữa của lịch sử chẳng qua là sự phản ánh quá trình lịch sử dưới một hình thức trừu tượng và nhất quán về mặt lý luận”. Sự phản ánh đã được uốn nắn theo những quy luật mà bản thân quá trình lịch sử thực tế đã cung cấp, hơn nữa mỗi nhân tố đều có thể xem xét tại điểm phát triển mà ở đó quá trình đạt tới chỗ hoàn toàn chín muồi, đạt tới cái hình thức cổ điển của nó. Phương pháp logic là phương pháp xem xét, nghiên cứu các sự kiện lịch sử dưới dạng tổng quan, nhằm vạch ra bản chất, khuynh hướng tất yếu, quy luật vận động của lịch sử. Khác với phương pháp lịch sử, phương pháp logic không đi sâu vào toàn bộ diễn biến, những bước quanh co, thụt lùi lịch sử, mà nó bỏ qua những cái ngẫu nhiên có thể xảy ra, nắm lấy bước phát triển tất yếu, nắm lấy cái cốt lõi của sự phát triển, nghĩa là nắm lấy quy luật lịch sử. Như vậy, phương pháp logic cũng phản ánh quá trình lịch sử nhưng phản ánh dưới hình thức trừu tượng và khách quan bằng lý luận. Có nghĩa là phương pháp logic trình bày sự kiện một 9
  9. cách khái quát trong mối quan hệ đúng quy luật, loại bỏ những chi tiết không cơ bản. Đó là hình thức đặc biệt phản ánh quá trình lịch sử. Phương pháp lịch sử là phương pháp xem xét sự vật, hiện tượng theo đúng trật tự thời gian như nó đã từng diễn ra trong quá khứ (phát sinh, phát triển và kết thúc). Đây là phương pháp xem xét và trình bày quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng lịch sử theo một trình tự liên tục và nhiều góc cạnh, nhiều mặt trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác. Phương pháp này hướng đến mục tiêu tái hiện trung thực bức tranh quá khứ của sự vật, hiện tượng thể hiện ở mô tả đầy đủ, cụ thể tính chất quanh co, phức tạp, bao gồm những cái ngẫu nhiên, cái tất yếu và tính đa dạng. Yêu cầu đối với phương pháp lịch sử là đảm bảo tính liên tục về thời gian của các sự kiện, làm rõ điều kiện và đặc điểm phát sinh, phát triển và biểu hiện của chúng, làm sáng tỏ các mối liên hệ đa dạng của chúng với các sự việc xung quanh. Phương pháp lịch sử xem xét rất kỹ các điều kiện xuất hiện và hình thành ra nó, làm rõ quá trình ra đời, phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến hoàn thiện của các sự vật, hiện tượng. Đồng thời, đặt quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ nhiều sự vật hiện tượng tác động qua lại, thúc đẩy hoặc hỗ trợ lẫn nhau trong suốt quá trình vận động của chúng. Phương pháp lịch sử là phương pháp quan trọng trong nghiên cứu, vì khi xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng phải coi trọng các quan điểm lịch sử, các sự vật, hiện tượng tương đồng đã xảy ra trước đó. Vận dụng phương pháp này để nghiên cứu sự hình thành và phát triển các học thuyết kinh tế qua các thời kỳ, giai đoạn gắn với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia. Bằng phương pháp này có thể cho ta thấy được bức tranh toàn diện về vấn đề phát triển và thay thế lẫn nhau của các học thuyết kinh tế. Phương pháp logic - lịch sử là phương pháp quan trọng của lịch sử các học thuyết kinh tế vì nghiên cứu các lý thuyết kinh tế phải thực hiện một cách triệt để phương pháp lịch sử. Khi nghiên cứu các lý luận kinh tế, còn phải tìm ra nguồn gốc ra đời, những điều kiện phát triển và diệt vong của nó ngay trong cơ sở đời sống kinh tế - xã hội. Vì vậy, khi nhìn nhận, đánh giá một học thuyết kinh tế nào, thì cần phải gắn với điều kiện lịch sử cụ thể nhất định của giai đoạn đó. Một quan điểm hay lý thuyết có thể đúng, phù hợp 10
  10. trong hoàn cảnh này, trong giai đoạn lịch sử này, nhưng không còn đúng, không phù hợp trong hoàn cảnh khác hay giai đoạn lịch sử khác. 1.2.2.3. Phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp Phân tích, trước hết là phân chia cái toàn thể của đối tượng nghiên cứu thành những bộ phận, những mặt, những yếu tố cấu thành đơn giản hơn để nghiên cứu, phát hiện ra những thuộc tính và bản chất của từng yếu tố đó, và từ đó giúp chúng ta hiểu được đối tượng nghiên cứu một cách mạch lạc hơn, hiểu được cái chung phức tạp từ những bộ phận đó. Nhiệm vụ của phân tích là thông qua cái riêng để tìm ra cái chung, thông qua hiện tượng để tìm ra bản chất, thông qua cái đặc thù để tìm ra cái phổ biến. Tổng hợp là quá trình ngược lại với quá trình phân tích, nhưng nó lại hỗ trợ cho quá trình phân tích để tìm ra cái chung và cái khái quát. Từ những kết quả nghiên cứu từng mặt, phải tổng hợp lại để có nhận thức đầy đủ, đúng đắn cái chung, tìm ra được bản chất, quy luật vận động của đối tượng nghiên cứu. Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp gắn bó chặt chẽ quy định và bổ sung cho nhau trong nghiên cứu và có cơ sở khách quan trong cấu tạo, trong tính quy luật của bản thân sự vật. Trong nghiên cứu, việc xây dựng một cách đúng đắn tiêu thức phân loại làm cơ sở khoa học hình thành đối tượng nghiên cứu bộ phận ấy có ý nghĩa rất quan trọng. Phương pháp tổng hợp vai trò quan trọng thuộc về khả năng liên kết các kết quả cụ thể (có lúc ngược nhau) từ sự phân tích, khả năng trừu tượng, khái quát nắm bắt được định tính từ rất nhiều khía cạnh định lượng khác nhau. 1.2.2.4. Phương pháp đối chiếu và so sánh Nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh tế đòi hỏi phải sử dụng phương pháp đối chiếu, so sánh. Sự tồn tại, phát triển của hoạt động thực tiễn và các lý luận kinh tế đều có tính lịch sử trong đó luôn tồn tại sự phê phán của học thuyết kinh tế ra đời trước đó từ đó kế thừa và phát triển học thuyết đó trong điều kiện mới và ứng dụng vào điều kiện kinh tế - xã hội. So sánh những điểm giống và khác nhau của các tác giả và trường phái về cùng một vấn đề nghiên cứu giúp chúng ta hiểu rõ sự thay đổi về cách tiếp cận, đối tượng và phương pháp một cách toàn diện hơn. Như vậy, nguyên tắc chung cho các phương pháp nghiên cứu của lịch sử các học thuyết kinh tế là nghiên cứu có hệ thống các quan điểm 11
  11. kinh tế, đồng thời đánh giá đúng đắn các đóng góp và hạn chế của các nhà lý luận kinh tế trong lịch sử. 1.3. CHỨC NĂNG VÀ Ý NGHĨA CỦA MÔN HỌC 1.3.1. Chức năng của lịch sử các học thuyết kinh tế Lịch sử các học thuyết kinh tế là môn khoa học xã hội, chiếm vị trí quan trọng trong các môn khoa học về kinh tế. Lịch sử các học thuyết kinh tế có các chức năng cơ bản: Chức năng nhận thức: Môn học này trang bị cho người học, người nghiên cứu những lý luận cơ bản của các học thuyết kinh tế, thấy được lịch sử phát triển của các hệ thống lý luận kinh tế của mỗi giai cấp trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Chức năng tư tưởng: Những quan điểm, học thuyết và cách lý giải về một vấn đề kinh tế - xã hội nào đó đều được đưa ra và bảo vệ đều nhằm hướng tới mục đích duy trì và phục vụ cho lợi ích của một giai cấp, tầng lớp nào đó trong xã hội. Tư tưởng gắn liền với lợi ích giai cấp rất sâu sắc, không có tư tưởng phi giai cấp. Chức năng thực tiễn: Việc nghiên cứu các lý thuyết kinh tế nhằm mục đích vận dụng chúng vào thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội. Không chỉ dừng lại ở việc tiếp cận một cách đơn giản các quan điểm kinh tế mà còn giúp cho các nhà kinh tế, các chủ thể khác nhau của nền kinh tế có thể vận dụng nhằm phục vụ lợi ích của mình trong hoạt động thực tiễn. Chức năng phương pháp luận: Môn học cung cấp phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu cho người học, từ đó làm nền tảng cho việc tìm hiểu, nghiên cứu để nắm được kiến thức cho các môn khoa học kinh tế khác như kinh tế chính trị, kinh tế vĩ mô, kinh tế vi mô, kinh tế phát triển và các môn học kinh tế ngành khác. 1.3.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh tế Nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh tế giúp chúng ta hiểu được hoàn cảnh ra đời và đặc điểm (cả về nội dung và phương pháp) của các học thuyết kinh tế; nắm được nội dung cơ bản của các lý thuyết kinh tế; đánh giá thành tựu, hạn chế của các lý thuyết đó. Các học thuyết kinh tế thị trường trang bị cho chúng ta những kiến thức giúp việc nghiên cứu tốt hơn các môn học Kinh tế chính trị học, Kinh tế vĩ mô, Kinh tế vi mô, 12
  12. Kinh tế phát triển, Kinh tế phúc lợi, Thương mại quốc tế và các lĩnh vực khác của kinh tế thị trường như tiền tệ và lưu thông tiền tệ, ngân hàng và hoạt động tín dụng… Đồng thời, nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh tế sẽ giúp cho chúng ta có cơ sở lý luận để xây dựng chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, hoạch định chủ trương, chính sách kinh tế của Nhà nước. Tóm lại, việc nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh tế có ý nghĩa rất lớn cả về lý luận lẫn thực tiễn. NỘI DUNG ÔN TẬP 1. Đối tượng nghiên cứu của Lịch sử các học thuyết kinh tế. Phân biệt Lịch sử tư tưởng kinh tế và Lịch sử các học thuyết kinh tế. 2. Các phương pháp nghiên cứu Lịch sử các học thuyết kinh tế. 3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu Lịch sử các học thuyết kinh tế đối với các sinh viên chuyên ngành kinh tế. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Mai Ngọc Cường (2005), Lịch sử các học thuyết kinh tế - Cấu trúc hệ thống, bổ sung, phân tích và nhận định mới, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội. [2]. Phạm Văn Chiến, Nguyễn Ngọc Thanh (2010), Lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội. [3]. Trần Việt Tiến (2016), Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb. Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. [4]. Hà Quý Tình, Trần Hậu Hùng (2008), Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb. Tài chính, Hà Nội. [5]. Đinh Thị Thu Thủy (2003), Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb. Thống kê, Hà Nội. 13
  13. CHƯƠNG 2 TRƯỜNG PHÁI TRỌNG THƯƠNG 2.1. HOÀN CẢNH RA ĐỜI TRƯỜNG PHÁI TRỌNG THƯƠNG Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII ở Tây Âu là thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến, là thời kỳ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hình thành trong lòng chế độ phong kiến. Phản ánh thời kỳ này, có ba trào lưu tư tưởng kinh tế lớn: Thứ nhất, tư tưởng kinh tế của giai cấp quý tộc, phong kiến nhằm biện hộ và bảo vệ chế độ phong kiến mà cơ sở của nó là nền kinh tế tự nhiên, nó được phản ánh qua thần học, phủ một lớp sơn tôn giáo, trong giai đoạn này nó đã có sự dung hòa giữa tư tưởng kinh tế thời phong kiến với sự phát triển mạnh của sản xuất. Thứ hai, trào lưu không tưởng xã hội. Những tư tưởng về xã hội không tưởng đã xuất hiện từ thời cổ đại, nó phản ánh đời sống cùng cực của các giai cấp bị áp bức bóc lột, niềm khao khát mong muốn một xã hội công bằng, vì vậy nó tồn tại cùng với xã hội có giai cấp đối kháng. Song, giai đoạn này chế độ phong kiến rất hà khắc, các giai cấp bị bóc lột sống cùng cực, không những phương thức sản xuất cũ đang dần bị thay thế mà phương thức sản xuất mới đang dần hình thành, phát sinh. Vì vậy, trào lưu này trở thành một trào lưu lớn bên cạnh những trào lưu tư tưởng kinh tế khác. Thứ ba, khuynh hướng tư bản chủ nghĩa của nền sản xuất, nhận thức được những điều kiện của quá trình phát sinh phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong lòng chế độ phong kiến - đó là trào lưu tư tưởng kinh tế của giai cấp tư sản và hình thức đầu tiên của nó là chủ nghĩa trọng thương1. Trường phái Trọng thương là hệ thống tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản, xuất hiện trong thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến sang 1 Đinh Thị Thu Thủy (2003), Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb. Thống kê, Hà Nội, tr 8. 14
  14. phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Về mặt lịch sử nó xuất hiện vào nửa cuối thế kỷ XV. Chủ nghĩa trọng thương ra đời trong hoàn cảnh: - Ở Tây Âu là thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến, là thời kỳ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hình thành. Lúc này, phương thức sản xuất phong kiến đã tỏ ra lỗi thời, không còn thích hợp, đã kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Về mặt lịch sử, đây là thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của chủ nghĩa tư bản, tức là tước đoạt những người sản xuất nhỏ, tập trung tư liệu sản xuất và sức lao động. Quá trình đó được thể hiện ra là quá trình tập trung tiền tệ, vì vậy người ta cho rằng của cải là tiền tệ, mà tiền tệ được biểu hiện rõ trong lưu thông hàng hóa, cho nên chính vì coi trọng tiền tệ mà trường phái trọng thương trong lý thuyết của mình quá coi trọng thương nghiệp. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa nảy sinh từ trong lòng phương thức sản xuất phong kiến nhưng nó chỉ thực sự xuất hiện khi có đủ hai điều kiện sau: Một là, phải tập trung một khối lượng tiền tệ tương đối lớn vào trong tay một số người, lượng tiền này đủ để bảo đảm cho họ mua tư liệu sản xuất xây dựng xí nghiệp và thuê mướn nhân công. Hai là, phải có những người tự do nhưng không có tư liệu sản xuất, buộc phải mang sức lao động của mình ra bán để kiếm sống. Trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn, sự tác động tự phát của quy luật giá trị đã làm phân hoá những người sản xuất hàng hoá. Một số người phát tài giàu lên nhanh chóng, họ đầu tư mở rộng sản xuất, thuê mướn nhân công và trở thành ông chủ tư bản. Những người khác không gặp may mắn bị vỡ nợ, phá sản trở thành lao động làm thuê. Sự tác động phân hoá này của quy luật giá trị diễn ra chậm chạp, để tạo ra những điều kiện cho sự ra đời của chủ nghĩa tư bản mà chỉ dựa vào tác dụng này của quy luật giá trị thì phải mất một thời kỳ lâu dài. Vì vậy, trong lịch sử của mình, giai cấp tư sản đã đẩy mạnh quá trình này bằng tích luỹ nguyên thuỷ. Đó là sự tích luỹ ban đầu của tư bản, nó được thực hiện bằng bạo lực tước đoạt hàng loạt những người sản xuất nhỏ, nhất là nông dân. Việc tước đoạt tư liệu sản xuất của người sản xuất nhỏ và ruộng đất của nông dân, một mặt tập trung tư liệu sản xuất vào tay các nhà tư bản, mặt khác biến những người sản xuất nhỏ, những người nông 15
  15. dân trở thành lao động làm thuê. Điển hình của quá trình này là ở nước Anh, giai cấp tư sản dựa vào nhà nước phong kiến dùng bạo lực đuổi nông dân ra khỏi đất đai của họ, biến đồng ruộng thành bãi chăn cừu. Đồng thời ban hành các đạo luật hà khắc để buộc những người nông dân bị mất đất phải vào làm thuê trong các xí nghiệp tư bản. Tích luỹ nguyên thuỷ còn được thực hiện bằng việc đi chinh phục và bóc lột thuộc địa, buôn bán nô lệ da đen từ châu Phi đến các vùng đất mới ở châu Mỹ, thực hiện thương mại không bình đẳng, v.v.. Việc sử dụng các biện pháp bằng sức mạnh bạo lực nói trên đã nhanh chóng tạo ra hai điều kiện cần thiết và do đó đẩy nhanh quá trình chuyển hoá từ phương thức sản xuất phong kiến sang phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. - Sản xuất hàng hóa giản đơn đang chuyển mạnh sang kinh tế thị trường. Phân công lao động xã hội đã phát triển mạnh mẽ, đã tạo ra mối liên hệ ngày càng mật thiết giữa các vùng, các miền lãnh thổ, giữa các quốc gia. Sự phát triển của sản xuất hàng hoá đã đòi hỏi phải có thị trường tương ứng. Do vậy quan hệ trao đổi hàng hoá đã trở thành thường xuyên ổn định, vững chắc. Trong điều kiện đó, thương nghiệp, đặc biệt là ngoại thương, đóng vai trò quan trọng trong việc làm giàu của giai cấp tư sản - một giai cấp mới đang dần hình thành. Sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá đã làm xuất hiện hệ thống kinh tế thế giới. - Một loạt những phát kiến về địa lý ở thế kỷ XV: Mở đầu từ việc Vatco de Gama vòng qua châu Phi tìm đường biển thông Tây Âu sang Ấn Độ, tiếp đó Critxtop-Colombo đã phát hiện ra châu Mỹ, giúp cho người châu Âu có cơ hội tiến vào châu Mỹ. Việc phát hiện ra những mỏ vàng ở châu Mỹ (chủ yếu là Mehico và Peru) làm cho mậu dịch thế giới phát triển mạnh mẽ, giúp các nước Tây Âu những khả năng lớn để làm giàu. Hoạt động chuyển vàng từ châu Mỹ sang châu Âu, việc cướp bóc vùng Đông Âu và các dân tộc ở châu Á, châu Mỹ và châu Phi, biến người bản xứ thành nô lệ, việc buôn bán người da đen, chiến tranh cướp bóc thuộc địa và chiến tranh thương mại đã thúc đẩy thương nghiệp thế giới phát triển mạnh mẽ. Từ chỗ thương nghiệp chỉ đóng vai trò môi giới giữa những người sản xuất nhỏ, thì sự phát triển mới của sản xuất hàng hoá đã tạo ra ưu thế cho thương nghiệp, thương nghiệp chi phối công nghiệp và 16
  16. nông nghiệp. Người ta thu được những món lời lớn do cướp bóc thuộc địa và thương mại. Để thúc đẩy phát triển chủ nghĩa tư bản, phát triển kinh tế thị trường đòi hỏi phải có nhiều vốn, trong điều kiện sản xuất chưa phát triển nên khả năng tích lũy từ sản xuất hạn chế, nên người ta buộc phải hướng vào thương nghiệp (thương mại). Để giải quyết những vấn đề cấp bách trong sự phát triển kinh tế, đáp ứng mục đích làm giàu bằng hoạt động thương mại của giai cấp tư sản đang hình thành và có thế lực ngày càng lớn, những nhà tư tưởng của giai cấp tư sản đã kịp thời khái quát kinh nghiệm và đề ra cương lĩnh có tính lý luận. Như vậy, trường phái Trọng thương xuất hiện. Trong bối cảnh đó, hoạt động thương mại - đặc biệt là ngoại thương đã trở thành ngành được đề cao nhất trong hoạt động kinh tế của các quốc gia. 2.2. QUAN ĐIỂM KINH TẾ CƠ BẢN CỦA TRƯỜNG PHÁI TRỌNG THƯƠNG 2.2.1. Quan điểm về của cải Tư tưởng xuất phát của trường phái Trọng thương là sùng bái tiền tệ, đồng nhất tiền tệ với của cải, coi tiền tệ là tiêu chuẩn cơ bản của của cải, quốc gia càng nhiều tiền càng giàu. Những chuyển biến trong đời sống kinh tế, chính trị và xã hội Tây Âu thời kỳ này đã tác động và tạo ra cơ sở khách quan cho các tư tưởng trọng thương, mà bắt đầu từ những tư tưởng về của cải. Các nhà trọng thương ban đầu phải xác định được của cải là gì? sinh ra ở đâu và từ đó mới tìm cách tăng nguồn của cải này lên. Trước đây, các nhà tư tưởng Cổ đại coi các tư liệu sinh hoạt (những giá trị sử dụng cụ thể) là của cải và sự giàu hay nghèo đều được xác định bằng sự sung túc hay thiếu thốn về tư liệu sinh hoạt. Còn các nhà triết gia kinh viện Trung cổ thì mải mê tìm kiếm sự công bằng xã hội thông qua những lời giáo huấn luân lý đạo đức mang đậm màu sắc kinh thánh. Đối với các nhà trọng thương, cách nhìn nhận hiện thực về của cải như vậy đã trở thành xuất phát điểm để các nhà trọng thương xây dựng toàn bộ hệ thống lý thuyết của mình và tạo nên học thuyết kinh tế đầu tiên trong lịch sử các học thuyết kinh tế. 17
  17. Lý do đầu tiên khiến cho các nhà trọng thương để cao tiền tệ được xuất phát từ thực tế phát triển ngày càng mạnh mẽ của nền sản xuất hàng hóa Tây Âu thời điểm đó. Trong kinh tế tự nhiên với bản chất là tự cung tự cấp, đại bộ phận sản phẩm làm ra để phục vụ trực tiếp nhu cầu tiêu dùng cá nhân, nhu cầu về các giá trị sử dụng cụ thể. Các sản phẩm này không mang hình thái hàng hóa. Chúng không phải tạo ra để mua bán, trao đổi. Khi kinh tế hàng hóa xuất hiện và phát triển ở mức độ cao, thị trường phát triển. Khi vị trí của trao đổi được khẳng định trên thực tế thì tiền tệ với tư cách là hình thái nổi bật nhất của giá trị, cũng được nhấn mạnh. Nền sản xuất hàng hóa càng phát triển thì sức mạnh của giá trị trao đổi càng được củng cố, tiền tệ càng hoàn thiện các chức năng của nó và được thần thánh hóa như là tiêu chuẩn căn bản của của cải theo quan điểm của các nhà trọng thương. Bên cạnh đó, căn nguyên dẫn đến việc tiền tệ được đề cao là tiêu chuẩn căn bản của của cải còn xuất phát từ đặc điểm của quá trình tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản, quá trình này được biểu hiện ra thực tế là quá trình tập trung tiền tệ. Việc khai thác vàng và bạc từ những vùng đất mới đã củng cố vững chắc vị thế của vàng và bạc trong đời sống hiện thực của các nước Tây Âu (người ta ước tính lượng vàng đã tăng lên gấp 3 lần, lượng bạc tăng lên gấp 12 lần những gì Tây Âu có được trước đó). Điều này làm cho những đặc quyền của tầng lớp quý tộc phong kiến mất hết ý nghĩa thực tiễn. Sự bành trướng này của tư bản khiến cho vàng, bạc một lần nữa được lý tưởng hóa trong nhận thức và đời sống hiện thực. Các nhà trọng thương đã quan niệm tiền tệ là của cải, thực tế họ đã đánh đồng của cải của một dân tộc với lượng kim loại quý dự trữ ở trong nước. Như vậy, tiền tệ theo cách hiểu của các nhà trọng thương được thể hiện dưới dạng của các kim loại quý như vàng, bạc (tiền kim loại). Của cải được xem xét dưới dạng của cải cải của quốc gia, dân tộc, quan tâm đến sự giàu có của quốc gia, chứ không phải cá nhân. Họ cho rằng, mức độ hoạt động của một nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào khối lượng và tốc độ lưu thông của tiền tệ. Sự tăng lên của khối lượng tiền tệ sẽ dẫn đến sự tăng lên trong mức sản lượng thực tế. Khi khẳng định vai trò rất quan trọng của tiền tệ như vậy và bàn sâu hơn về phương thức làm tăng khối lượng tiền tệ ở mỗi quốc gia, các nhà trọng thương đã phát triển hệ thống 18
  18. lý luận về thương mại, đặc biệt là ngoại thương. Đến giai đoạn sau, các nhà trọng thương cũng đã ít nhiều cảm nhận được rằng, khối lượng tiền tệ dự trữ của một nước nhiều hay ít sẽ chẳng đem lại kết quả nào quan trọng sau khi mức giá đã được điều chỉnh theo số lượng tiền tệ. Nhìn chung, các nhà trọng thương còn hiểu đơn giản về khả năng ảnh hưởng của những thay đổi trong khối lượng tiền tệ đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế nói chung2. 2.2.2. Quan điểm về thương mại Khi đã xác định tiền tệ là tiêu chuẩn căn bản của của cải, các nhà trọng thương đã đi sâu tìm kiếm nguồn gốc sinh ra của cải và phương thức làm tăng khối lượng tiền tệ. Xuất phát từ đây, các quan niệm về thương mại hình thành. Tập trung phát triển hệ thống lý luận về thương mại là điểm đặc thù nhất của trường phái Trọng thương. Họ là những người đề cao vai trò của tiền tệ và tích lũy tiền. Nhưng do tiền tệ được biểu hiện rõ nhất ở trong lưu thông, trong thương mại. Nên họ cho rằng chỉ có thương mại mới là nguồn gốc tạo ra của cải và khả năng tăng trưởng của một nền kinh tế chỉ có thể có được thông qua hoạt động thương mại. Theo trường phái Trọng thương, thương mại là hòn đá thử vàng đối với sự phồn vinh của một quốc gia, ngoài thương mại ra thì không có một phép lạ nào khác có thể tạo ra của cải. Ai làm chủ được nền thương mại quốc tế thì người đó làm trọng tài cho chiến tranh và hòa bình. Với quan niệm như vậy, các nhà trọng thương đã đưa lĩnh vực thương mại hay rộng hơn là lĩnh vực lưu thông trở thành đối tượng nghiên cứu trực tiếp của mình. Để tích lũy của cải, tích lũy tiền thông qua hoạt động thương mại, các nhà trọng thương đã tập trung đưa ra hàng loạt các chính sách điều tiết lưu thông, hướng tới xây dựng một bảng cân đối thương mại xuất siêu hay còn được gọi là cán cân thương mại thuận lợi. Trên thực tế, các nhà trọng thương ban đầu chỉ chú ý tới việc điều tiết lưu thông tiền tệ nhằm giữ khối lượng tiền tệ có ở trong nước. Nhưng về sau họ đã tập trung điều tiết cả lưu thông hàng hóa nhằm gia tăng chứ không chỉ giữ nguyên khối lượng tiền tệ trong nước. Để tạo ra cán cân thương mại thuận lợi, tức là cán cân có thể đem nhiều tiền tệ về cho đất nước, các nhà trọng thương đã khuyến khích xuất khẩu nhiều hơn 2 Phạm Văn Chiến, Nguyễn Ngọc Thanh (2010), Lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr 65-66. 19
  19. nhập khẩu (xuất siêu). Về vấn đề này, các nhà trọng thương rất khuyến khích nhập khẩu nguyên liệu thô giá rẻ sau đó đưa vào chế biến và xuất khẩu thành phẩm. Trên thực tế các nhà trọng thương không hề quan tâm đến cơ sở hoạt động của hoạt động thương mại giữa các quốc gia, nhất là cơ sở khác biệt về lợi thế giữa các quốc gia này3. Hộp 2.1 Có lẽ tóm tắt súc tích nhất các nguyên tắc chủ nghĩa trọng thương là do Philip Wilhelm Von Hornick cung cấp. Ông là một luật sư người Áo ấn hành tuyên ngôn chủ nghĩa trọng thương năm 1684. Bản kế hoạch của Von Hornick về địa vị quốc gia nghe có vẻ là chủ đề độc lập và kho báu. Chính nguyên tắc kinh tế quốc gia quan trọng theo ông gồm: 1 - Mỗi tấc đất trong nước phải sử dụng cho nông nghiệp, khai khoáng hay sản xuất công nghiệp; 2 - Mọi nguyên liệu thô phát hiện trong nước đề sử dụng để sản xuất trong nước, vì hàng thành phẩm có giá trị cao hơn nguyên liệu thô; 3 - Khuyến khích có nhiều người trong độ tuổi lao động; 4 - Cấm đoán xuất khẩu vàng, bạc và tất cả tiền tệ trong nước phải đem ra lưu thông; 5 - Nơi nào bắt buộc phải nhập khẩu thì phải nhập khẩu trước để trao đổi hàng hóa trong nước thay vì trao đổi vàng, bạc; 6 - Hàng nhập có thể giới hạn ở nguyên liệu thô để sản xuất hàng thành phẩm trong nước, càng nhiều càng tốt; 7 - Phải luôn tìm kiếm cơ hội để bán sản phẩm thặng dư trong nước ra nước ngoài, càng xa càng tốt, để đổi lấy vàng, bạc. 8 - Không được phép nhập khẩu nếu hàng hóa đó đã có đủ và trong nước có thể cung cấp. Nguồn: Robert Burton Ekelund, jr và Robert Fry Hébert (2004), Lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb Thống kê, Hà Nội, tr 48-49. Theo các nhà trọng thương, để có tích luỹ tiền tệ phải thông qua hoạt động thương mại mà trước hết là ngoại thương. Trường phái này khẳng 3 Phạm Văn Chiến, Nguyễn Ngọc Thanh (2010), Lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr 67. 20
nguon tai.lieu . vn