Xem mẫu
- 1
- 2
- LỜI NÓI ĐẦU
Giáo trình Kinh tế thương mại đại cương được biên soạn nhằm
trang bị những kiến thức cơ bản và cốt lõi, mang tính tổng quan về kinh tế
thương mại cho sinh viên chuyên ngành Kinh tế thương mại, cũng như
các chuyên ngành đào tạo khác của Trường Đại học Thương mại.
Giáo trình Kinh tế thương mại đại cương do PGS.TS. Hà Văn Sự
làm chủ biên và tập thể các giảng viên trong Bộ môn Kinh tế thương mại
thuộc Khoa Kinh tế - Luật, Trường Đại học Thương mại thực hiện, đặc
biệt là sự tham gia trực tiếp biên soạn của các giảng viên:
1) PGS.TS. Hà Văn Sự (Chủ biên và biên soạn các chương: Chương 1;
Chương 5; Chương 7; Tham gia biên soạn chương 2);
2) TS. Ngô Xuân Bình (Chương 2; Chương 3);
3) TS. Thân Danh Phúc (Chương 4);
4) ThS. Nguyễn Minh Phương (Tham gia biên soạn Chương 3);
5) ThS. Dương Hoàng Anh (Chương 6).
Giáo trình Kinh tế thương mại đại cương được xuất bản lần đầu, các
nội dung trong giáo trình có sự kế thừa, tiếp thu từ các tập bài giảng: Bài
giảng Kinh tế thương mại (1997) của Bộ môn Quản trị doanh nghiệp
Khách sạn - Du lịch; Bài giảng Kinh tế thương mại đại cương (2006) của
Bộ môn Kinh tế thương mại do TS. Ngô Xuân Bình làm chủ biên.
Trong quá trình biên soạn, chúng tôi xin chân thành cảm ơn Ban
Giám hiệu, Phòng Khoa học - Đối ngoại, Khoa Kinh tế - Luật, Bộ môn
Kinh tế thương mại của Trường Đại học Thương mại đã động viên và tạo
điều kiện về mọi mặt để nhóm tác giả hoàn thành giáo trình này. Chúng
tôi cũng xin cảm ơn những góp ý để bổ sung và hoàn thiện các nội dung
giáo trình của các nhà khoa học trong và ngoài trường.
3
- Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song giáo trình chắc chắn không tránh
khỏi những thiếu sót, tập thể tác giả và Bộ môn Kinh tế thương mại mong
nhận được những góp ý của các nhà khoa học, đồng nghiệp và bạn đọc.
Thư góp ý xin gửi về: Bộ môn Kinh tế thương mại, Khoa Kinh tế - Luật,
Trường Đại học thương mại.
Chủ biên
PGS.TS. HÀ VĂN SỰ
4
- Chương 1
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU MÔN HỌC
Mục đích của chương là giới thiệu cho người học nắm được mục
tiêu, đối tượng và nội dung nghiên cứu của học phần, đồng thời hướng
dẫn người học phương pháp tiếp cận và nghiên cứu các nội dung của
học phần một cách phù hợp.
1.1. ĐỐI TƯỢNG VÀ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CỦA MÔN HỌC
1.1.1. Đối tượng nghiên cứu của môn học
Trong lịch sử phát triển, điều kiện cần thiết cho sự tồn tại và phát
triển của mọi xã hội loài người là tái sản xuất của cải vật chất. Tái sản
xuất được chia thành hai kiểu, đó là tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất
mở rộng. Tái sản xuất giản đơn là lặp lại quá trình sản xuất với qui mô
như cũ. Tái sản xuất mở rộng là lặp lại quá trình sản xuất với qui mô
lớn hơn.
Quá trình tái sản xuất mở rộng bao gồm 4 khâu: Sản xuất - Phân
phối - Trao đổi và Tiêu dùng. Các khâu này có mối quan hệ chặt chẽ,
tương hỗ với nhau. Trong đó, hoạt động thương mại thuộc lĩnh vực trao
đổi và phân phối sản phẩm.
Tái sản xuất mở rộng kéo theo sự phân công lao động xã hội và
chuyên môn hóa sản xuất ngày càng sâu sắc. Lý luận và thực tiễn đã
chứng minh chính phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất
và tính chất sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm là mầm
mống xuất hiện trao đổi hàng hóa. Tuy nhiên, lúc đầu trao đổi hàng hóa
diễn ra đơn giản và trong phạm vi hẹp dưới hình thức hiện vật, đó là
hình thức trao đổi hàng hóa ngẫu nghiên hay còn gọi là trao đổi hàng
hóa trực tiếp (hàng đổi hàng). Cùng với sự phát triển của xã hội loài
người, các điều kiện phát triển trao đổi hàng hóa cũng ngày càng được
5
- hoàn thiện, theo đó, lưu thông hàng hóa ra đời, rồi sau này là sự ra đời
của thương mại.
Quá trình phát triển của trao đổi hàng hóa là yếu tố thúc đẩy sự hình
thành và phát triển nền kinh tế hàng hóa. Cũng trong quá trình phát triển
này, bên cạnh thương mại hàng hóa, lĩnh vực thương mại dịch vụ cũng
đã được hình thành và phát triển ngày càng đa dạng, phong phú.
Trong nền kinh tế hàng hóa, mọi chủ thể kinh tế đều tham gia vào
các hoạt động thương mại thông qua hành vi mua và bán. Các hoạt động
này phụ thuộc vào bốn yếu tố cơ bản: 1) Hàng hóa và dịch vụ (đối tượng
của hoạt động mua, bán); 2) Các chủ thể kinh tế (người mua hoặc người
bán); 3) Tiền tệ (phương tiện thanh toán); 4) Thị trường (điều kiện thực
hiện các hoạt động mua bán).
Với tiếp cận đó, có thể nói thương mại là đối tượng nghiên cứu của
nhiều lĩnh vực khoa học và nhiều môn học khác nhau, trong đó có môn
học kinh tế thương mại đại cương. Môn học kinh tế thương mại đại
cương là một khoa học kinh tế nghiên cứu bản chất và những nguyên lý
kinh tế cơ bản của thương mại và chủ yếu trên góc độ vĩ mô, cụ thể:
Thứ nhất, kinh tế thương mại đại cương nghiên cứu các mối quan hệ
kinh tế diễn ra trong lĩnh vực trao đổi, lưu thông hàng hóa và cung ứng
dịch vụ, bao gồm những mối quan hệ trực tiếp giữa người mua và người
bán, cũng như mối quan hệ kinh tế có liên quan tới hoạt động mua, bán.
Trên cơ sở đó, nhận biết được vai trò và những lợi ích to lớn và cả những
tác động tiêu cực của thương mại đối với quốc gia, nền kinh tế - xã hội.
Thứ hai, kinh tế thương mại đại cương nghiên cứu xu hướng phát
triển kinh tế thương mại hàng hóa và dịch vụ, các điều kiện về thị trường,
môi trường thương mại… trong mối quan hệ biện chứng với những tác
động, điều tiết của hệ thống các qui luật kinh tế trong điều kiện nền kinh
tế thị trường.
Thứ ba, nghiên cứu những nguyên lý kinh tế căn bản phát triển
thương mại mà điều kiện các nguồn lực phát triển có hạn trong khi nhu
cầu là vô hạn. Hay nói cách khác, kinh tế thương mại đại cương hướng
vào nghiên cứu những nguyên lý khoa học cơ bản nhất làm cơ sở cho
việc hoạch định chiến lược và chính sách phát triển thương mại trong
6
- điều kiện nguồn lực có hạn nhằm thỏa mãn nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội tối ưu ở từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế.
Kinh tế thương mại đại cương là một khoa học kinh tế nghiên cứu
một lĩnh vực cụ thể trong nền kinh tế, đó là lĩnh vực lưu thông hàng hóa
và cung ứng dịch vụ. Tuy nhiên, kinh tế thương mại đại cương nghiên
cứu các vấn đề trên chủ yếu ở phạm vi vĩ mô, tức là trên phạm vi quốc
gia, của một vùng, địa phương trong mối quan hệ mở với thương mại khu
vực và toàn cầu. Các chủ thể kinh tế là các doanh nghiệp, tổ chức, cá
nhân tham gia vào hoạt động thương mại được nghiên cứu trong mối
quan hệ với một chỉnh thể hợp thành nền thương mại của một quốc gia
hay một vùng, địa phương. Cơ sở lý luận của kinh tế thương mại đại
cương là kinh tế học chính trị Mác - Lênin, kinh tế học, các học thuyết về
phát triển kinh tế, thương mại.
1.1.2. Nội dung nghiên cứu của môn học
Với đối tượng nghiên cứu đã nêu, môn học sẽ tập trung vào nghiên
cứu các nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, môn học nghiên cứu cơ sở, quá trình hình thành và phát triển
của trao đổi, bản chất kinh tế và chức năng của thương mại.
Hai là, nghiên cứu những tác động của thương mại ở các phương
diện và góc độ đến sự phát triển của một quốc gia hay địa phương, đặc
biệt là về kinh tế.
Ba là, nghiên cứu các vấn đề cơ bản về kinh tế thương mại hàng hóa
và thương mại dịch vụ.
Bốn là, nghiên cứu nguồn lực và hiệu quả kinh tế của thương mại,
đồng thời nghiên cứu việc sử dụng nguồn lực và phát triển thương mại
theo hướng bền vững.
Năm là, nghiên cứu những lợi thế so sánh và hội nhập, phát triển
kinh tế thương mại quốc tế của quốc gia.
Các nội dung trên được nghiên cứu trong điều kiện nền kinh tế thị
trường và bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và có định
hướng vào điều kiện của Việt Nam. Trong khuôn khổ chương trình và
thời gian đào tạo, ngoài Chương 1 giới thiệu về Đối tượng, nội dung và
7
- phương pháp nghiên cứu của môn học, chúng tôi kết cấu và trình bày các
vấn đề trên thông qua 6 chương nội dung (từ chương 2 đến chương 7),
đó là:
Chương 2. Bản chất và chức năng của thương mại;
Chương 3. Những tác động của thương mại;
Chương 4. Thương mại hàng hóa;
Chương 5. Thương mại dịch vụ;
Chương 6. Lợi thế so sánh và hội nhập kinh tế thương mại;
Chương 7. Nguồn lực và hiệu quả kinh tế thương mại.
1.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA MÔN HỌC
Là một khoa học kinh tế, bởi vậy phương pháp duy vật biện chứng
được xem là phương pháp luận quan trọng được sử dụng trong nghiên
cứu kinh tế thương mại đại cương. Cụ thể:
Một là, nhận thức khoa học phải bắt đầu bằng sự quan sát các hiện
tượng cụ thể biểu hiện các quá trình kinh tế, rồi dùng phương pháp trừu
tượng hóa để tìm ra bản chất và tính qui luật của sự phát triển, sau đó là
từ các mặt bản chất đến mối quan hệ nội tại, cơ chế tác động cụ thể của
quá trình lưu thông hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
Hai là, thương mại là một bộ phận của quá trình tái sản xuất xã hội,
các qui luật của lưu thông hàng hóa, cung ứng dịch vụ bắt nguồn từ hệ
thống qui luật nói chung, do vậy cần phải có quan điểm hệ thống và toàn
diện trong nghiên cứu cũng như trong trình bày các phạm trù của thương
mại trong quan hệ và tác động qua lại với sản xuất, phân phối và tiêu
dùng. Trong đó, sản xuất là điểm xuất phát, tiêu dùng là điểm kết thúc,
phân phối và lưu thông là trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng.
Ba là, quá trình hình thành và phát triển thương mại luôn gắn liền
với những hoàn cảnh lịch sử nhất định, do đó không thể nghiên cứu các
vấn đề kinh tế của lưu thông hàng hóa và cung ứng dịch vụ nếu không có
quan điểm lịch sử. Đồng thời, sự vận động của mỗi quá trình đều do đấu
tranh để giải quyết những mâu thuẫn nội tại, trong đó cần phải phân biệt
rõ ràng tính chất đối kháng và tính chất không đối kháng của mâu thuẫn
8
- để có biện pháp xử lý thích hợp. Theo đó, kết hợp logic và lịch sử là một
đòi hỏi quan trọng của phương pháp nghiên cứu và phân tích khoa học
các vấn đề của kinh tế thương mại.
Bốn là, các kết luận khoa học đều được rút ra từ nghiên cứu thực tế,
ngược lại, cần phải kiểm nghiệm thường xuyên nhằm hoàn thiện các
quan điểm khoa học trong hoạt động kinh tế thương mại. Đó chính là quá
trình gắn lý luận với thực tiễn trong nghiên cứu các vấn đề của kinh tế
thương mại. Lý luận phải xuất phát từ thực tiễn và trở lại chỉ đạo thực tiễn.
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, kinh tế thương
mại đại cương cần sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp phi thực nghiệm: Đây là phương pháp dựa trên sự
quan sát, thu thập tư liệu đã hoặc đang tồn tại, phân tích xử lý để tìm ra
các kết luận về sự vật và hiện tượng nghiên cứu. Trong trường hợp này,
người nghiên cứu chỉ quan sát những gì đã và đang tồn tại mà không có
sự can thiệp, không gây bất cứ tác động nào làm biến đổi trạng thái của
đối tượng khảo sát, đồng thời cũng không gây bất cứ tác động nào làm
biến đổi môi trường xung quanh đối tượng khảo sát. Phương pháp phi
thực nghiệm được thực hiện thông qua các hoạt động quan sát, phỏng
vấn, hội nghị, điều tra.
Phương pháp thực nghiệm: Đây là phương pháp nghiên cứu trên
đối tượng thực hay mô hình. Việc nghiên cứu trên đối tượng đảm bảo
tính tin cậy hơn, song trên thực tế thì khó thực hiện, vì vậy thường người
ta nghiên cứu trên mô hình. Qua thực nghiệm để quan sát, từ quan sát để
phát hiện bản chất của sự vật hoặc hiện tượng, và cuối cùng là để đặt giả
thuyết hay kiểm chứng giả thuyết đã đặt ra. Cần lưu ý rằng việc chọn mô
hình là vô cùng quan trọng vì là yếu tố chi phối kết quả nghiên cứu.
Từ hai phương pháp chung trên, khi nghiên cứu kinh tế thương mại
người ta sử dụng một số phương pháp cụ thể sau:
Phương pháp so sánh: Khi sử dụng phương pháp này cần phải có
ba điều kiện:
- Lựa chọn tiêu chuẩn để so sánh;
- Lựa chọn điều kiện so sánh;
9
- - Lựa chọn kỹ thuật so sánh, như so sánh bằng số tuyệt đối, tương
đối, số bình quân…
Phương pháp cân đối: Phương pháp này được sử dụng như xây
dựng kế hoạch, qui hoạch, nghiên cứu mối quan hệ giữa cung và cầu,
giữa xuất và nhập khẩu, giữa nguồn thu và nguồn chi…
Phương pháp toán kinh tế: Nội dung của phương pháp này là vận
dụng toán học làm công cụ để nghiên cứu môn học. Sự vận dụng phương
pháp này trong nghiên cứu khoa học kinh tế nói chung và kinh tế thương
mại nói riêng ngày càng phong phú và có hiệu quả nhờ vào phương tiện
tính toán ngày càng hiện đại.
1.3. VỊ TRÍ CỦA MÔN HỌC
Kinh tế thương mại đại cương là môn học bắt buộc thuộc khối kiến
thức cơ sở ngành của chuyên ngành kinh tế thương mại của Trường Đại
học Thương mại. Môn học cung cấp những kiến thức mang tính tổng
quan về những vấn đề cơ bản của kinh tế thương mại, góp phần cung cấp
những kiến thức cơ sở làm nền tảng cho việc tiếp cận những kiến thức
chuyên ngành về kinh tế và quản lý thương mại.
Ngoài ra, môn học Kinh tế thương mại đại cương còn được lựa chọn
làm môn học cung cấp kiến thức cơ sở ngành cho các chuyên ngành đào
tạo khác của Trường Đại học Thương mại, như: Chuyên ngành Luật
Thương mại, Thương mại quốc tế, Quản trị doanh nghiệp…
10
- Chương 2
BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA THƯƠNG MẠI
Mục đích của chương là giới thiệu bản chất và chức năng của
thương mại theo các góc độ tiếp cận, cụ thể là làm rõ điều kiện (cơ sở)
ra đời của trao đổi, các hình thức phát triển của trao đổi và sự ra đời
của thương mại, nghiên cứu bản chất kinh tế của phạm trù thương mại
thông qua các góc độ tiếp cận (là một hoạt động kinh tế, một khâu của
quá trình tái sản xuất xã hội và là một ngành kinh tế quốc dân độc lập),
trên cơ sở đó nghiên cứu các chức năng của thương mại. Đây là những
kiến thức tổng quan về thương mại, có tiếp cận mang tính toàn diện, hiện
đại, là cơ sở quan trọng phục vụ cho các phần nghiên cứu tiếp theo của
giáo trình.
2.1. CƠ SỞ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THƯƠNG MẠI
2.1.1. Cơ sở ra đời của trao đổi
a. Hàng hóa - Đối tượng của hoạt động trao đổi
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn một nhu cầu
nào đó của con người thông qua trao đổi, mua - bán. Một sản phẩm chỉ
trở thành hàng hóa khi sản phẩm đó được sản xuất để mang ra trao đổi
trên thị trường. Trong xã hội hiện đại, bên cạnh những hàng hóa hữu hình
- đó là những hàng hóa có hình thái vật thể hữu hình, còn có những hàng
hóa vô hình/phi vật thể hay còn gọi là dịch vụ được đưa ra cung ứng,
mua - bán trên thị trường.
Hàng hóa - một phạm trù lịch sử và nó chỉ tồn tại trong nền sản xuất
hàng hóa. Hàng hóa là đối tượng của hoạt động trao đổi. Bất cứ một hàng
hóa nào (bao gồm cả dịch vụ) khi đưa ra trao đổi, chúng đều có hai thuộc
tính là giá trị sử dụng và giá trị.
Giá trị sử dụng là công dụng của hàng hóa, nó có thể thỏa mãn nhu
cầu nào đó của con người. Nhu cầu đó có thể là nhu cầu cho tiêu dùng cá
11
- nhân, như: Lương thực, thực phẩm, giày dép, quần áo..., hoặc nhu cầu
cho sản xuất, như: Nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị... Là hàng hóa vô
hình, dịch vụ cũng có những công dụng, giá trị thỏa mãn nhu cầu nào đó
của con người, như: Dịch vụ du lịch thỏa mãn nhu cầu vui chơi, giải trí,
khám phá thế giới; dịch vụ y tế, giáo dục thỏa mãn nhu cầu về thể lực và
trí lực của con người; dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, hậu cần,
kinh doanh, quảng cáo, tiếp cận thị trường... thỏa mãn các nhu cầu mà
đặc biệt là các nhu cầu hỗ trợ hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp trong nền kinh tế.
Giá trị là lao động xã hội thể hiện và vật hóa trong hàng hóa. Giá trị
của hàng hóa là lao động của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng
hóa, nó phản ánh quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa. Bởi vậy,
giá trị hàng hóa là một phạm trù phản ánh quan hệ xã hội. Trong trao đổi
hàng hóa, giá trị của hàng hóa là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi
hay nói cách khác nó là cơ sở chung của trao đổi.
Giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa đều được tạo ra trong khâu
sản xuất, nhưng giá trị của hàng hóa được thực hiện trong khâu lưu thông
thông qua hoạt động trao đổi. Còn giá trị sử dụng của hàng hóa lại được
thực hiện trong khâu tiêu dùng, nằm ngoài lưu thông. Ngoại trừ dịch vụ
là hàng hóa vô hình do quá trình sản xuất, lưu thông và tiêu dùng diễn ra
đồng thời mà giá trị sử dụng có thể được thực hiện đồng thời trong chính
quá trình sản xuất và lưu thông.
Trong trao đổi, người bán quan tâm đến giá trị, còn người mua quan
tâm đến giá trị sử dụng của hàng hóa. Tuy nhiên, để đạt được mục đích
của mình người bán phải quan tâm đến lợi ích của người mua và ngược
lại người mua cũng phải quan tâm đến lợi ích của người bán. Trên thị
trường, các lợi ích của người mua và người bán đều được giải quyết
thông qua hoạt động trao đổi và điều tiết của thị trường.
b. Cơ sở ra đời của trao đổi
Trao đổi hàng hóa là hoạt động mua bán hàng hóa giữa những người
sản xuất diễn ra trong một xã hội đã có những sự phát triển đến một trình
độ nhất định. Lịch sử đã chứng minh, xã hội loài người phải phát triển
12
- đến một trình độ mà ở đó có sự xuất hiện của phân công lao động xã hội
và sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất khi đó
hoạt động trao đổi hàng hóa mới xuất hiện. Đây không chỉ là cơ sở/điều
kiện ra đời mà còn là cơ sở/điều kiện để phát triển trao đổi hàng hóa.
Cụ thể:
Sự xuất hiện của phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã
hội là sự phân chia lao động xã hội ra thành các ngành, các lĩnh vực sản
xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hóa lao động, chuyên môn hóa
sản xuất thành những ngành nghề khác nhau. Do có sự phân công lao
động xã hội, mỗi người chỉ sản xuất một thứ hoặc vài thứ sản phẩm.
Tuy nhiên, nhu cầu của họ lại bao gồm nhiều loại sản phẩm khác nhau,
bởi vậy để thỏa mãn nhu cầu đòi hỏi cần có sự trao đổi sản phẩm giữa
họ với nhau.
Tuy nhiên, sự phân công lao động xã hội chưa thể hoàn toàn quyết
định đến sự ra đời của trao đổi mà cần phải có điều kiện thứ hai là sự
tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất.
Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất.
Tính tách biệt về mặt kinh tế này do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư
liệu sản xuất mà khởi thủy là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất qui định.
Chính do quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao
động đã làm cho lao động của những người sản xuất mang tính chất lao
động tư nhân, làm cho quá trình sản xuất và tái sản xuất của người sản
xuất tách biệt với nhau về mặt kinh tế. Trong điều kiện đó, khi muốn
thỏa mãn nhu cầu sản phẩm giữa những người sản xuất phải thực hiện
thông qua hoạt động trao đổi.
Như vậy, sự ra đời của phân công lao động xã hội đã tạo ra lao động
của những người sản xuất mang tính chất là lao động xã hội, song sự tách
biệt tương đối về mặt kinh tế lại tạo ra lao động của họ mang tính chất là
lao động tư nhân, cá biệt, độc lập. Mâu thuẫn này được giải quyết thông
qua hoạt động trao đổi sản phẩm của những người sản xuất cho nhau và
theo đó hoạt động trao đổi hàng hóa ra đời.
13
- 2.1.2. Quá trình phát triển của trao đổi và sự ra đời của
thương mại
Thương mại là một phạm trù kinh tế xuất hiện và tồn tại gắn liền với
những cơ sở, điều kiện tiền đề ra đời của trao đổi, đó là sự phân công lao
động xã hội và sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người
sản xuất như đã nghiên cứu ở trên. Thương mại là một hình thái - hình
thái phát triển trong trao đổi hàng hóa, bởi vậy khi nghiên cứu sự ra đời
của thương mại cần nghiên cứu quá trình và các hình thái phát triển của
trao đổi.
a. Hình thái trao đổi hàng hóa trực tiếp
Về mặt lịch sử, trong quá trình phát triển, xã hội loài người đã trải
qua hai hình thái kinh tế, đó là: Hình thái kinh tế tự nhiên và hình thái
kinh tế hàng hóa. Hình thái kinh tế tự nhiên là hình thái đầu tiên, sơ khai
của kinh tế loài người. Nó xuất hiện vào giai đoạn chế độ công xã
nguyên thủy. Trong giai đoạn sơ khai của nền kinh tế tự nhiên, mặc dù
phân công lao động xã hội đã hình thành, song chưa có những tách biệt
tương đối về mặt kinh tế, con người sản xuất ra các sản phẩm chủ yếu
với mục đích phục vụ cho nhu cầu của bản thân họ, vì thế chưa có trao
đổi hàng hóa. Thực tế, trong giai đoạn công xã Ấn Độ thời cổ, lao động
đã có sự phân công xã hội, nhưng chưa xuất hiện trao đổi hàng hóa. Bởi
vì, chỉ có sản phẩm của những người sản xuất mang tính tư nhân độc lập
và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng
hóa và khi đó trao đổi hàng hóa mới xuất hiện.1
Vào giai đoạn cuối của chế độ công xã nguyên thủy và thời kỳ đầu
của chế độ chiếm hữu nô lệ, khi hình thức tư hữu về tư liệu sản xuất và
sản phẩm xuất hiện cũng là lúc trao đổi hàng hóa ra đời. Tuy nhiên, lúc
đầu trao đổi hàng hóa mang tính ngẫu nhiên và giản đơn, vì thế người ta
gọi hình thái ban đầu của trao đổi là trao đổi hàng hóa trực tiếp hay trao
đổi hàng hóa giản đơn, trao đổi hàng hóa ngẫu nhiên. Hình thái trao đổi
này được tiến hành trực tiếp theo hình thức hàng đổi hàng, theo công
thức chung là: H - H’. Hình thái trao đổi hàng hóa trực tiếp ra đời không
1
C. Mác và Ph. Ăng ghen: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 1993; Tr 23, tr 72.
14
- những đã góp phần thỏa mãn nhu cầu trao đổi sản phẩm giữa những
người sản xuất mà còn có vai trò quan trọng trong thúc đẩy sự phát triển
của xã hội loài người, trong đó phải nói đến sự thúc đẩy phân công lao
động xã hội.
b. Hình thái lưu thông hàng hóa
Hình thái trao đổi hàng hóa trực tiếp có những giới hạn về phạm vi
không gian và điều kiện trao đổi. Bởi vậy, khi xã hội loài người phát
triển mà đặc biệt là sự phát triển của phân công lao động xã hội thì hình
thái trao đổi hàng hóa trực tiếp không còn đáp ứng được nhu cầu trao đổi
hàng hóa của xã hội loài người.
Trong điều kiện đó, cùng với sự ra đời của tiền tệ với tư cách là hàng
hóa trung gian, trao đổi hàng hóa trực tiếp được thay thế bằng hình thái
trao đổi cao hơn đó là lưu thông hàng hóa. Lưu thông hàng hóa là hình
thái phát triển của trao đổi hàng hóa, là hình thái trao đổi hàng hóa
thông qua môi giới của tiền tệ [4, tr 22]. Công thức chung của lưu thông
hàng hóa là: H – T – H’. Lưu thông hàng hóa ra đời đã mở ra kỷ nguyên
mới cho hoạt động trao đổi hàng hóa, nó khắc phục được những hạn chế
của trao đổi hàng hóa trực tiếp. Đó là phạm vi hoạt động trao đổi được
mở rộng, điều kiện trao đổi và khả năng thỏa mãn nhu cầu về hàng hóa
cả về không gian, thời gian, số lượng thuận tiện hơn.
Lưu thông hàng hóa ra đời đã tạo ra sự tách rời quá trình mua và bán
cả về không gian (người ta có thể mua ở nơi này, bán ở nơi khác), về
thời gian (có thể bán ở thời điểm này, mua ở thời điểm khác) và về số
lượng (có thể bán nhiều lần, mua một lần hoặc ngược lại)… Do sự tách
rời quá trình mua, bán này mà trong hình thái lưu thông hàng hóa đã xuất
hiện mầm mống của mâu thuẫn giữa cung và cầu, giữa sản xuất và tiêu
dùng. Bởi vậy, bắt đầu từ đây nảy sinh mầm mống của khủng hoảng sản
xuất và tiêu thụ.
c. Sự xuất hiện của thương gia và sự ra đời, phát triển của
thương mại
Với sự phát triển ngày càng cao của phân công lao động xã hội, để
đáp ứng tốt hơn nhu cầu trao đổi có tính chuyên nghiệp và nâng cao hiệu
15
- quả lao động xã hội mà một bộ phận lao động trong xã hội đã được tách
ra khỏi sản xuất chuyên làm nhiệm vụ mua rồi lại bán nhằm mục đích
kiếm lời. Bộ phận lao động này được gọi là những thương gia. Hoạt động
kinh tế của những thương gia thông qua mua bán để kiếm lời chính là
hoạt động thương mại. Hoạt động đó thể hiện qua công thức: T - H - T'
(T’ = T + T).
Khác với trao đổi hàng hóa trực tiếp và lưu thông hàng hóa, hoạt
động thương mại bắt đầu bằng tiền với hành vi mua và kết thúc cũng
bằng tiền với hành vi bán. Mục đích của hoạt động thương mại không
phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, cụ thể là nhằm thu lợi nhuận.
Với những đặc điểm hoạt động và vai trò của mỗi hình thái trao đổi
hàng hóa ta có thể thấy: Lưu thông hàng hóa ra đời đã phủ định trao đổi
hàng hóa trực tiếp, song ngược lại thương mại ra đời không đưa đến sự
phủ định lưu thông mà trái lại nó làm cho lưu thông hàng hóa phát triển ở
một trình độ cao hơn.
Như vậy, sự xuất hiện của hoạt động thương mại gắn liền với sự
xuất hiện của thương gia. Về lịch sử, những thương gia xuất hiện vào
cuối chế độ công xã nguyên thủy và đầu chế độ phong kiến.
Những hoạt động thương mại lúc đầu chỉ giới hạn chủ yếu trong lĩnh
vực trao đổi các sản phẩm hữu hình (thương mại hàng hóa), sau đó được
mở rộng sang các sản phẩm vô hình (thương mại dịch vụ). Trong nền
kinh tế hiện đại, thương mại còn liên quan rất chặt chẽ với các hoạt động
đầu tư và sở hữu trí tuệ.
Những thương gia ngày càng đông đảo trong xã hội như là kết quả
tất yếu của quá trình phân công lao động xã hội ngày càng mở rộng và
chuyên sâu.
Ngành thương mại ra đời và phát triển như là kết quả tất yếu của sự
phát triển trao đổi và phân công lao động xã hội. Trong lịch sử phát triển,
xã hội loài người đã trải qua 3 cuộc cách mạng trong phân công lao động
xã hội. Phân công lao động lần thứ nhất là việc tách chăn nuôi ra khỏi
trồng trọt. Quá trình này đã thúc đẩy sự phát triển của trao đổi hàng hóa,
và tiền tệ xuất hiện trong giai đoạn này. Phân công lao động lần thứ hai
là quá trình tách thủ công nghiệp khỏi nông nghiệp, sản xuất hàng hóa
16
- hình thành. Phân công lao động lần thứ ba với việc tách riêng chức năng
tiêu thụ khỏi chức năng sản xuất và theo đó đã làm xuất hiện một ngành
kinh tế chuyên làm chức năng trao đổi, mua bán nhằm mục đích kiếm lời
trong nền kinh tế - đó là ngành thương mại.
Phân công lao động xã hội vẫn tiếp tục phát triển và tạo ra nhiều
ngành kinh tế mới. Trong lĩnh vực thương mại, ngoài ngành phân phối là
ngành chuyên cung cấp các dịch vụ mua bán hàng hóa hữu hình gồm bán
buôn và bán lẻ, còn có các ngành thương mại dịch vụ chuyên đảm nhận
việc cung ứng dịch vụ cho thị trường vì mục đích lợi nhuận (theo phân
loại của WTO, ngay trong lĩnh vực thương mại dịch vụ lại được phân
thành 12 ngành, trong đó có 155 tiểu ngành dịch vụ khác nhau).
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, thương mại ra đời vừa
là một tiến bộ của lịch sử, một nấc thang phát triển của trao đổi hàng hóa,
vừa là điều kiện thúc đẩy sự phát triển của sản xuất hàng hóa. Sản xuất
hàng hóa và lưu thông hàng hóa là hai yếu tố cơ bản hợp thành kinh tế
hàng hóa. Kinh tế hàng hóa tất nhiên sản sinh và hình thành thị trường.
Vì thế, nói tới thương mại, nói đến kinh tế hàng hóa, không thể tách rời
phạm trù thị trường và kinh tế thị trường. Bởi vậy, kinh tế hàng hóa và
kinh tế thị trường, hay thương mại và thị trường là những phạm trù,
những mặt không thể tách rời nhau của cùng một hiện tượng trong nền
kinh tế còn tồn tại những điều kiện của trao đổi hàng hóa.
2.2. BẢN CHẤT KINH TẾ VÀ PHÂN LOẠI THƯƠNG MẠI
2.2.1. Bản chất kinh tế của thương mại
Bản chất kinh tế của thương mại được xem xét và nghiên cứu thông
qua nhiều cách tiếp cận khác nhau. Trong giáo trình này, bản chất kinh tế
của thương mại được rút ra từ ba cách tiếp cận, đó là: Thương mại với tư
cách là một hoạt động kinh tế, là một khâu của quá trình tái sản xuất xã
hội và với tư cách là một ngành kinh tế quốc dân, cụ thể:
a. Tiếp cận thương mại với tư cách là một hoạt động kinh tế
Nếu xem xét dưới góc độ một hoạt động kinh tế thì thương mại là
một trong những hoạt động kinh tế cơ bản và rất phổ biến trong nền kinh
tế thị trường. Mọi hoạt động thương mại đều bắt đầu bằng hành vi mua
17
- và kết thúc bằng hành vi bán. Mục đích của hoạt động thương mại là
nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Có thể tóm tắt hoạt động thương mại bằng
công thức sau: T - H - T'.
Đối tượng mua bán của các hoạt động thương mại là hàng hóa và
dịch vụ. Chủ thể của hoạt động thương mại gồm những người bán (người
sản xuất hàng hóa, người cung ứng dịch vụ, thương gia) và những người
mua (người sản xuất, thương gia và người tiêu dùng). Bên cạnh đó, tham
gia vào hoạt động thương mại còn có một số chủ thể khác, như: Những
người môi giới, đại lý thương mại... Hoạt động thương mại xảy ra trong
khâu lưu thông, trên thị trường với những điều kiện kinh tế, xã hội, luật
pháp, chính trị và môi trường vật chất cụ thể.
Trong hành vi mua, người ta chuyển đổi hình thái giá trị của hàng
hóa từ hình thái tiền tệ sang hình thái hiện vật và cùng với quá trình này
là sự chuyển đổi về sở hữu, người mua đổi quyền sở hữu tiền tệ để có
được quyền sở hữu hàng hóa. Nhờ vậy mà có được quyền sử dụng sản
phẩm cho việc thỏa mãn nhu cầu. Trong hành vi bán hàng, quá trình diễn
ra hoàn toàn ngược lại.
Hoạt động thương mại là một quá trình bao gồm các hoạt động cơ
bản là mua và bán. Ngoài các hoạt động cơ bản còn có các hoạt động hỗ
trợ cho các hoạt động mua bán, người ta gọi chung các hoạt động này là
dịch vụ thương mại.
Dịch vụ thương mại bao gồm tất cả những hoạt động thương mại
ngoài hoạt động thương mại cơ bản (hoạt động mua và bán), chúng phát
sinh gắn liền với hoạt động mua bán, hỗ trợ cho hoạt động mua bán được
thực hiện nhanh chóng và có hiệu quả.
Hoạt động thương mại được tiến hành theo nguyên tắc tự nguyện, tự
thỏa thuận và cùng có lợi. Vì thế, quá trình mua bán vừa là quá trình
cạnh tranh, vừa là quá trình hợp tác giữa người bán và người mua.
Thông qua các hoạt động thương mại, người bán đạt được giá trị
nhằm mục đích lợi nhuận, người mua có được giá trị sử dụng để thỏa
mãn các nhu cầu tiêu dùng khác nhau. Chính nhờ hoạt động thương mại
mà sản xuất và tiêu dùng được nối liền với nhau, thúc đẩy lẫn nhau trong
điều kiện của kinh tế hàng hóa.
18
- b. Tiếp cận thương mại với tư cách là một khâu của quá trình tái
sản xuất xã hội
Quá trình tái sản xuất xã hội gồm bốn khâu cơ bản, đó là: Sản xuất -
Phân phối - Trao đổi và Tiêu dùng. Bốn khâu này có quan hệ mật thiết và
tác động qua lại với nhau, trong đó mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu
dùng là mối quan hệ cơ bản nhất.
Là hình thái phát triển của trao đổi và lưu thông hàng hóa, thương
mại được coi là một khâu cơ bản và quan trọng của quá trình tái sản xuất,
đó là khâu trao đổi - khâu trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng. Trong
điều kiện sản xuất và lưu thông hàng hóa ngày một phát triển, hàng hóa
được tạo ra trong khâu sản xuất, sau đó được chuyển sang khâu lưu thông
qua các giai đoạn khác nhau của khâu lưu thông: Mua, vận chuyển, dự
trữ, bán... Kết thúc khâu lưu thông, hàng hóa sẽ được chuyển sang lĩnh
vực tiêu dùng.
Tuy nhiên, giai đoạn trước chủ nghĩa tư bản, thương mại còn tồn tại
độc lập với sản xuất, do thương mại vận động theo công thức T – H – T’,
còn sản xuất vẫn chủ yếu hướng vào giá trị sử dụng. Lúc này lưu thông
chưa chi phối được sản xuất mà coi sản xuất như một tiền đề có sẵn của
lưu thông, bởi vì thường chỉ có những sản phẩm dư thừa mới trở thành
hàng hóa. Bởi vậy, khi đó lưu thông hàng hóa chưa trở thành một khâu
của quá trình tái sản xuất và cũng vì thế lợi nhuận thương mại chủ yếu là
do mua rẻ, bán đắt từ những người sản xuất và tiêu dùng mà có. Sau này,
với nhiệm vụ quan trọng là thực hiện tái sản xuất sản phẩm nhanh chóng
trong điều kiện thị trường không ngừng mở rộng và cạnh tranh quyết liệt
thì thương mại đã thực sự trở thành một khâu không thể thiếu phục vụ
cho sản xuất. Sự có mặt của thương mại không những đem lại lợi ích cho
khâu sản xuất và các thương nhân mà còn cho toàn xã hội.
Như vậy, có thể nói trong xã hội ngày nay với tư cách là một khâu
của quá trình tái sản xuất, thương mại trở thành cầu nối tích cực giữa các
khâu trong quá trình tái sản xuất, đặc biệt là giữa sản xuất và tiêu dùng,
là phương tiện mở rộng giao lưu kinh tế giữa các quốc gia, khu vực. Đối
với mỗi nền kinh tế, thương mại phát triển, lưu thông hàng hóa thông
suốt là biểu hiện của sự phát triển kinh tế lành mạnh, thịnh vượng.
19
- c. Tiếp cận thương mại với tư cách là một ngành kinh tế
Nếu xem xét dưới góc độ phân công lao động xã hội thì thương mại
được coi là một ngành kinh tế quốc dân độc lập trong nền kinh tế. Đó là
ngành đảm nhận chức năng tổ chức lưu thông hàng hóa và cung ứng các
dịch vụ cho xã hội thông qua việc thực hiện mua bán nhằm sinh lợi.
Như vậy, nghiên cứu thương mại dưới các góc độ cơ bản: Là một
hoạt động kinh tế, một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, cũng như
góc độ là một ngành kinh tế của nền kinh tế quốc dân, chúng ta đều nhận
thấy đặc trưng chung nhất của thương mại là buôn bán, trao đổi hàng hóa
và cung ứng dịch vụ gắn với tiền tệ và nhằm mục đích lợi nhuận. Bởi
vậy, có thể rút ra bản chất kinh tế chung của thương mại là tổng thể các
hiện tượng, các hoạt động và các quan hệ kinh tế gắn liền và phát sinh
cùng với trao đổi hàng hóa và cung ứng dịch vụ nhằm mục đích lợi nhuận.
2.2.2. Phân loại thương mại
a. Theo phạm vi hoạt động thương mại
Theo phạm vi hoạt động, người ta phân loại thương mại thành 2 bộ
phận: Thương mại nội địa và thương mại quốc tế.
Thương mại nội địa hay còn gọi là nội thương/thương mại trong
nước phản ánh những quan hệ thương mại của các chủ thể kinh tế của
một quốc gia. Các hoạt động thương mại nội địa về cơ bản diễn ra trong
phạm vi biên giới của một quốc gia. Các hoạt động thương mại nội địa
diễn ra chủ yếu chịu sự quản lý và điều tiết của nhà nước. Bởi vậy, các
quan hệ kinh tế diễn ra giữa các chủ thể tham gia vào hoạt động thương
mại nội địa vừa thể hiện quan hệ mang tính thị trường, song lại vừa phản
ánh những chủ trương và chính sách của nhà nước. Thương mại nội địa
có thể được phân thành: Thương mại thành thị; Thương mại nông thôn;
Thương mại biên giới, hải đảo; Thương mại vùng sâu, vùng xa...
Thương mại quốc tế hay còn gọi là ngoại thương, bao gồm việc mua
bán hàng hóa và dịch vụ qua biên giới quốc gia có thể ở phạm vi toàn
cầu, phạm vi khu vực hoặc thương mại song phương giữa hai quốc gia.
Thương mại quốc tế phản ánh những mối quan hệ kinh tế thương mại
giữa các chủ thể kinh tế của các quốc gia với nhau. Chúng tuân thủ
20
nguon tai.lieu . vn