Xem mẫu

  1. Chương 3 VƯỜN ƯƠM, PHƯƠNG PHÁP NHÂN GIỐNG HOA KIỂNG Mục đích của chương: hiểu được mục đích, ý nghĩa của việc xây dựng vườn ươm và những thao tác cơ bản trong việc xây dựng vườn ươm 4.1Vườn ươm 4.1.1Mục đích và ý nghĩa xây dựng vườn ươm Tạo ra cây con tốt khỏe là nền tảng cho cây con khi trồng ra ruộng sản xuất sẽ có thích ứng tốt với khí hậu, đất đai, sâu bệnh. Tạo ra được cây con thường xuyên cho nên người nông dân có thể quay vòng nhiều vụ, không bỏ đất trống, góp phần tăng thêm thu nhập cho. Việc gieo ươm sẽ tập trung hơn sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong việc chăm sóc. 4.1.2 Cách xây dựng vườn ươm 4.1.2.1 Chọn đất Đất được chọn làm vườn ươm cần phải: tơi xốp, nhẹ, nhiều dinh dưỡng, bằng phẳng, chủ động nước tưới tiêu, gần vườn trồng và ít gió mạnh 4.1.2.2 Lên liếp vườn ươm Liếp vườn ươm cần phải ngay thẳng và bằng phẳng sẽ giúp cho giữ nước, phân bón và tạo điều kiện cho rễ phát triển tốt đồng thời sẽ dễ dàng chăm sóc. Liếp rộng 1 – 1,2m, cao 15 – 20cm, khoảng cách 2 liếp 30cm (không nên dài quá 50m) Bên cạnh đó cần bón nhiều phân hữu cơ đã hoai mục với lượng khoảng 1 – 3 tấn phân hữu cơ + 50 – 100kg super lân/ 1000m2. Lưu ý: nếu ươm trong khay thì giá thể được trộn theo tỷ lệ: 4/6 đất thịt pha cát + 1/6 phân chuồng hoai + 1/6 phân rác mục (tro trấu). 4.1.2.3 Gieo hạt Trước khi gieo hạt cần phải loại bỏ hạt xấu, lép, sâu, bệnh. Hạt giống cần phải có tỷ lệ nảy mầm >80%. Bên cạnh đó để tăng tỷ lệ nảy mầm thì cần phải xử lý hạt trước khi gieo. Có thể xử lý hạt bằng phương pháp ngâm nước nóng (30 – 350C) từ vài giờ đến 24h: đối với hạt có vỏ dày; hoặc xử lý phòng trừ bệnh bằng: Zineb: 1,5 – 2g/kg hạt. 28
  2. Tùy thuộc vào kích thước của hạt mà có thể gieo hạt một trong ba cách: gieo vãi, gieo hàng, gieo hốc. 4.1.2.4 Chăm sóc cây con Sau khi gieo hạt thì tiến hành tưới nước định kỳ 1-2 lần/ ngày (tùy thời tiết). Bên cạnh đó cần phải gỡ bỏ rơm rạ vì để lâu cây dại, cong, yếu ớt, vống do thiếu ánh sáng. Đồng thời phải thường xuyên làm cỏ để hạn chể sự cạnh tranh dinh dưỡng, ánh sáng giữa cỏ dại và cây giống. Cần phải làm giàn che để hạn chế sự mất nước của cây con. Việc tỉa cây cần được thực hiện trong 7 – 10 ngày đầu nhằm đảm bảo mật số, sức khỏe, sự đồng đều của cây con trong vưởn ươm. Bón phân bổ sung cho những cây con có thời gian trên vườn ươm kéo dài. Phòng trừ sâu bệnh hại nhất là bệnhc hết cây con. 4.2 Các phương pháp nhân giống Cây hoa có nguồn gen rất lớn với rất nhiều loài, nhiều giống, do vậy có rất nhiều cách nhân giống khác nhau. Khi đã có giống hoa tốt, công tác nhân giống hoa có ý nghĩa quyết định thành công trong sản xuất hoa. Qua công tác nhân giống sẽ tạo được cây giống tốt, đồng đều với số lượng nhiều phục vụ công tác sản xuất hoa ở gia đình hoặc sản xuất hoa theo phương thức công nghiệp. Do cấu tạo về đặc điểm thực vật học rất khác nhau của nhiều loài, nhiều giống nên cây hoa có thể được nhân giống bằng nhiều cách khác nhau: - Phương pháp nhân giống hữu tính: gieo hạt - Phương pháp nhân giống vô tính: giâm cành, chiết, ghép, nuôi cấy mô tế bào, củ giống, lá cây. Tuỳ thuộc vào loài hoa, giống hoa và điều kiện trồng trọt mà có thể lựa chọn hình thức nhân giống phù hợp. 4.2.1 Nhân giống hữu tính (gieo hạt) Đây là hình thức nhân giống tương đối phổ biến của một số loài hoa có hạt như: cẩm chướng, cúc, magic, mõm chó, su xi, hướng dương.... Một số loài hoa khác mặc dù phương pháp nhân giống vô tính là chủ yếu nhưng để phục vụ công tác nghiên cứu hoặc lai tạo người ta cũng dùng phương pháp nhân giống hữu tính layơn, lily… Phương pháp nhân giống bằng gieo hạt có các ưu nhược điểm sau: 29
  3. - Ưu điểm: Nhân giống nhanh, số lượng nhiều, hệ số nhân giống cao, có thể tạo giống mới từ phương pháp nhân giống này bằng khi lai tạo. - Nhược điểm: Do thụ phấn tự do trong tự nhiên nên dễ lẫn giống, cây con không đồng đều, năng suất thấp, hạt hoa thường nhỏ, không hoàn chỉnh nên tỷ lệ nảy mầm thấp. Nhân giống bằng gieo hạt ngoài áp dụng đối với một số cây hoa còn đừng để tạo cây gốc ghép từ cây thực sinh với bộ rễ khoé, sinh trưởng mạnh. Mặt khác tuổi sinh lý của gốc ghép trẻ do vậy tuổi thọ của cây dài. Tuỳ theo từng giống hoa, sau khi thu hoạch có thể phải gieo ngay, hoặc có thể bảo quản một thời gian để hạt hoàn thành quá trình chín sinh lý. Kích thước hạt và độ dày vỏ hạt có ảnh hưởng lớn đến chất lượng hạt giống, sức sống và khả năng nảy mầm. Những giống hoa có hạt quá nhỏ như hạt hoa phong lan và địa lan, hạt thường có cấu tạo không đầy đủ có phôi nhưng không có nội nhũ nên chất dinh dưỡng chứa trong hạt không đủ cung cấp năng lượng cho quá trình nảy mầm của hạt. Hạt hoa lan cũng như một số loại hạt tương tự thường không bảo quản được lâu, phải gieo ngay sau khi thu hoạch hạt dược một vài ngày, muốn bảo quản được lâu phải có phương tiện kỹ thuật bảo quản đặc biệt. Sức sống và tỷ lệ nảy mầm của hạt độ thuần cửa hạt phụ thuộc nhiều giống, điều kiện ngoại cảnh và các phương pháp xử lý khi gieo. Đối với các giống hoa có nguồn gốc ôn đới và á nhiệt đới nhiệt độ khi hạt nảy mầm thường cần thấp hơn so với những giống hoa có nguồn gốc nhiệt đới. Khi gieo hạt cần xác định lượng hạt gieo cho một đơn vị diện tích gieo trồng bằng cách căn cứ vào độ sạch, tỷ lệ nẩy mầm và khoảng cách cây gieo trên vườn ươm. Cây con mọc từ hạt thường không duy trì được đặc tính tốt của mẹ và đa số cây giống có tỷ lệ kết hạt thấp, nhan giống bằng hạt đối với hoa hồng chủ yếu là để tạo giống bằng phương pháp lai. Nhưng đối với một số giống tầm xuân nhiều hạt thì có thể dùng để tạo ra số lượng lớn gốc ghép. Gốc ghép gieo từ hạt đa số chọn loài tầm xuân dại ở bản địa vì nó có sức sống khoẻ, khả năng thích ứng tốt, chống bệnh cao, đây là những chỉ tiêu lý tưởng. Nhưng nhược điểm của phương pháp này là: tỷ lệ kết hạt thấp, hạt nảy mầm khó khăn và cây con không đều. - Các phương pháp xử lý hạt giống trước khi gieo: + Phương pháp vật lý nhằm kích thích sự nẩy mầm của hạt, sử lý hạt bằng cách ngâm nước nóng 500C trong 2 giờ, sau đó rửa nước chua 2-3 lần bằng nước lã, tiếp tục ngâm hạt trong nước ấm có nhiệt độ 22-300C trong 24 giờ, ủ hạt cho đến khi hạt nảy mầm. 30
  4. + Xử lý hạt bằng hoá chất nhằm diệt khuẩn có thể tiến hành khử trùng bằng thuốc tím (KMnO4) nồng độ 0,5% - 0,1 % trong 2-3 giờ hoặc H2BO3 nồng độ 0,02- 0,05%, MgSO4 nồng độ 0,02- 0,1%, CuSO4 nồng độ 0,005%, KNO3 nồng độ 0,05- 2%. - Kỹ thuật gieo: + Hạt loại nhỏ (lay ơn, cúc...): khi gieo phải trộn hạt với cát hoặc đất bột khác màu với đất mặt luống gieo. Khi gieo hạt phải chia hạt gieo nhiều lần để cho hạt phân bố đều trên luống, sau đó dùng đất bột màu khác rắc lên luống cho đến khi phủ kín hại là được. + Những hạt loại vừa: trước khi gieo, trên luống đã chuẩn bị sẵn dùng cuốc rạch rãnh sâu 3cm rồi gieo hạt, hoặc gieo thẳng hạt vào bầu đất hoặc chậu với khoảng cách 2x2cm, độ sâu lấp đất 1 - 1 ,5cm. + Những hạt loại lớn: cũng gieo như hạt vừa nhưng độ rạch sâu 5-7cm, khoảng cách 3x3cm, gieo xong phủ 1 lớp đất dày 2-3cm lấp kín hạt. Sau khi hạt nẩy mầm cần chăm sóc để cây đủ tiêu chuẩn thì có thể trồng cây con ra vườn sản xuất. 4.2.2 Nhân giống vô tính Là hình thức tạo ra các cây mới nhờ các cơ quan sinh dưỡng, không có quá trình thụ phấn thụ tinh. Trong phương pháp này có các hình thức: chiết cành, tách chồi, tách mầm, ghép cây, nuôi cấy mô. Các hình thức nhân giống vô tính có các ưu nhược điểm sau: - Ưu điểm: cây con giữ được các đặc điểm quí của cây mẹ, tạo được cây giống đồng đều với số lượng lớn. - Nhược điểm: một số hình thức nhân giống phải đầu tư cơ sở vật chất hiện đại, cây nhân giống liên tục quá nhiều đời thì dễ bị thoái hoá. 4.2.2.1 Giâm Là phương pháp nhân vô tính, người ta cắt rời một bộ phận cành hay rễ. Tìm các biện pháp tác động cho chúng ra rễ, để trở thành cây sống độc lập, phát triển tốt. Hiện nay thường áp dụng đối với một số loài hoa cúc, hồng, cẩm chướng… * Ưu điểm - Có hệ số nhân giống cao vì từ 1 đoạn cành, 1 đoạn rễ hoặc 1 đoạn thân ta có thể tạo ra một cây giống mới. 31
  5. - Cây giống giữ được những đặc điểm di truyền quí của cây mẹ - Vườn cây đồng đều nên thuận lợi cho chăm sóc và thu hoạch - Có thể tạo ra vườn gốc ghép đồng đều từ các cây giâm cành, khắc phục sự không đồng đều của cây gieo hạt (sử dụng giâm cành Tầm xuân làm gốc ghép cho các giống hoa hồng quí). - Có thể sản xuất cây giống theo qui mô công nghiệp. * Nhược điểm: - Cây giống nhỏ, sinh trưởng chậm ở thời kì đầu nên thời gian tạo cây giống lâu. - Nếu sản xuất lớn phải đầu tư các trang thiết bị (nhà giâm, máy phun mù...) * Các bước tiến hành + Chọn những cành bánh tẻ từ các cây mẹ khoẻ mạnh, được phòng trừ sâu bệnh tốt, cắt thành từng đoạn dài 13 - 15 cm, trên đó có mang từ 2- 3 mắt khoẻ, rồi giâm vào trong đất cho đến lúc ra rễ. Những cây to nhiều nhựa mủ, cần cắt đoạn cành để cho ráo nhựa mủ rồi mới đem giâm. Đất giâm phải là đất cát, phù sa nhẹ, đất xốp có thể giữ ẩm tốt và thoáng khí. Đất phải xử lý hoá chất để diệt nấm, vi khuẩn, có thể dùng Formalin 1180 xử lý đất trước 7- 10 ngày, đất đã dùng nhiều lần phải thay đất khác hay phải khử trùng triệt để. Hom khó ra rễ, nảy mầm, ta nên xử lý chất kích thích, có thề dùng IBA, .NAA... nên xử lý nhanh ở nồng độ 2000 - 10.000 ppm. Sau khi cắm hom, phải phun nước giữ ẩm, thường phun mù để thâm hom luôn bão hòa hơi nước, tránh sự thoát hơi nước làm chết hom. Sau khi phun có thể dùng màng Polyetylen che đậy để chống gió, không bốc hơi nước nhanh, hoặc phủ một lớp rơm rạ mỏng thay màng Polyetylen để giữ ẩm. Sau khi giâm cành nếu không có hiện tượng cành thâm đen, thối... là dấu hiệu sẽ cành giâm ra rễ. Khi rễ có màu vàng nhạt, hay màu gỉ sắt, khi nhổ lên có bám nhiều đất bột xung quanh rễ, lúc dù có thể đem trồng, cũng có khi cây yếu, ta phải cho qua vườn ươm để cây làm quen với ánh sáng, đất đai. Một số hoa kết hợp vườn ươm và nhà giâm ngay tại chỗ. Trên vườn ươm chia ra các luống 1,2m - 1,5 m đất làm nhỏ, nện hơi chặt, mặt luống rải một lớp cát mỏng 5- 10 cm sau đó cắm cành giâm. Cắm cọc đầu luống làm giàn phủ cót để cây ra rễ, sau đó mở che sáng dần dần. 32
  6. 4.2.2.2 Chiết cành Là hình thức phổ biến đặc biệt trong hoa cây cảnh dùng chủ yếu cho một số cây cảnh mọc rễ khó và quý hiếm như cây tùng, cây bách, ngọc lan, mẫu đơn… - Chọn cành: Để chiết được cành tết phải chọn những cành đều tán, lá bánh tẻ và cành ở giữa tán, không chiết các cành la, cành vượt. Chọn cành khoẻ, lá xanh đậm không sâu bệnh, cành không có hoa quả, cành có đường kính 0,4 - 1 cm ở gốc cành, chiều dài cành 30 - 40 cm là thích hợp. - Thời vụ: ở các tỉnh phía Bắc, chiết cành chủ yếu vào vụ xuân, nhưng khi chiết cần phải căn cứ vào tình hình sinh trưởng của cây và thời tiết. Một số cây có thể chiết cây vào tháng 11 tháng 12 thời kỳ cây ngủ nghỉ, lưu thông nhựa ít (hoa ngọc lan thường được chiết vào tiết Đông chí 22-24/12) - Khoanh vỏ cành chiết sau khi chọn cành, ta cắt một khoanh vỏ dài từ 1,5 - 2,5 em; bóc vỏ, cạo sạch. Sau khi khoanh vỏ, phơi cành trong điều kiện tự nhiên 2- 3 ngày đối với cây khó ra rễ. Để nâng cao khả năng ra rễ của cành chiết có thể dùng chất kích thích sinh trưởng: NAA, IAA, IBA… nồng độ 2000 - 8000ppm bôi vào vết cắt và bó bấu ngay hoặc có thể pha các chất kích thích thành dung dịch với nồng độ 10-100ppm, trộn đều với hỗn hợp bầu để bó vào chỗ khoanh của cành chiết. - Nguyên liệu bó bầu: là những chất xốp giữ ẩm, tạo điều kiện cành chiết ra rễ tốt: có thể dùng rơm rạ mục, bèo khô hoặc mùn cưa, khử trừng bằng hơi nóng diệt khuẩn phơi khô sử dụng dần. Cũng có khi dùng bùn ao, đất nhẹ pha cát phơi khô, đập nhỏ rây lấy bội trộn 7 đất + 3 rơm rác, làm ẩm tới 70% độ ẩm bão hoà. - Bó bầu: Tạo bầu có hình thuôn dài, đưa vào chỗ khoanh của cành chiết, buộc dây 2 đầu và ở giữa bầu để cố định bầu trên cành chiết. - Cắt cành, giâm cành: Sau khi chiết 30 - 40 ngày hoặc có khi lâu hơn, trên bầu sẽ ra nhiều rễ, rễ chuyển sang màu vàng, có nhiều rễ tơ là có thể cắt cành chiết đưa đi trồng. Những cây trồng khó sống, cần phải hạ xuống một khu giâm riêng, sau khi cây ra rễ và lá mới trồng ra ruộng sản xuất. 4.2.2.3 Tách chồi Thường áp dụng trên cây ngắn ngày (cúc, đồng tiền, thược dược). - Ưu điểm: cây nhanh ra hoa, sớm được thu hoạch, giữ được các đặc điểm tốt của cây mẹ. - Nhược điểm: cây không đồng đều, hệ số nhân thấp, dễ bị lan truyền các loại nấm bệnh. 33
  7. Để tiến hành người ta thường trồng ở mật độ dày, chăm sóc, vun gốc để cho cây mẹ ra nhiều chồi. Cây tách chồi có thể trồng trực tiếp ra vườn sản xuất hoặc giâm ươm trong vườn ươm khi cây đạt tiêu chuẩn và thời tiết thuận lợi sẽ đem trồng ở vườn sản xuất. Việc lấy giống bằng cách tách chồi không được nhiều, nhưng cây thường ra hoa nhanh, hoa cũng có chất lượng tốt. Nhân giống bằng cách tách cây thường thực hiện vào tháng 4-5, lúc này có khí hậu thích hợp và từ 1/5-1/10 là thời gian nhiệt độ cao, là thời gian hoa cắt kể cả hoa đồng tiền bán được số lượng ít, giá rẻ, cây mẹ trồng trong nhà vườn sau khi ra hoa rộ, sản lượng hoa không nhiều nên không ảnh hưởng lớn đến giá trị sản lượng sau khi tách cây. Cây con sau khi tách trồng 4-5 tháng đến tháng 10 lại có thể ra hoa nên có thể có hiệu quả kinh tế cao. Khi tách chú ý vị trí vết tách phải ở chỗ tiếp xúc nhỏ nhất giữa các nhánh để không làm tổn thương lớn đến chồi được tách. 4.2.2.4 Ghép cây Ghép là phương pháp nhân giống vô tính được thực hiện bằng sự kết hợp của bộ phận cây này với bộ phận cây khác tạo thành một tổ hợp ghép cùng sinh trưởng, cùng phát triển như một cây thống nhất. Khi ghép ta gắn một bộ phận của cây giống (mắt ghép hay cành ghép) sang một gốc cây khác (gọi là gốc ghép) để tạo nên một cây mới, mà vẫn giữ được các đặc tính của cây giống ban đầu. Bằng các biện pháp nhất định làm cho tượng tầng của gốc ghép và mắt ghép hoặc cành ghép tiếp xúc với nhau, nhờ sự hoạt động và tái sinh của mô phân sinh tượng tầng làm cho gốc ghép và mắt ghép gắn liền với nhau, cây ghép sẽ phát triển thành một thể thống nhất. Cây hoa ghép thường được áp dụng đối với một số loài hoa: đào, hồng, mai... * Ưu điểm - Cây ghép sinh trưởng tốt, tuổi thọ cao nhờ rễ của gốc ghép hoạt động tốt. - Cây ghép giữ được các đặc điểm tốt của cây mẹ, điều này có được do mắt ghép lấy từ cơ quan sinh trưởng trên cây mẹ đã thành thục, các đặc tính di truyền đã ổn định. - Cây ghép sớm ra hoa vì tuổi của mắt ghép và cành ghép đã thành thục, có thể tiếp tục giai đoạn phát dục của cây mẹ. - Có hệ số nhân giống cao, trong thời gian ngắn có thể tạo ra một số lượng lớn cây giống - Duy trì được nòi giống đối với những giống không có hạt hoặc chiết, giâm cành khó ra rễ. 34
  8. - Nâng cao được sức chống chịu của giống: chịu hạn, chịu úng, chịu sâu bệnh,... trên cơ sở chọn được giống gốc ghép thích hợp. * Nhược điểm - Cây ghép dễ bị nhiễm bệnh nếu không chú ý chọn mắt ghép, gốc ghép sạch bệnh. - Đòi hỏi cán bộ nhân giống phải có trình độ, có tay nghề thành thạo. Phải có các dụng cụ chuyên môn: dao ghép, kéo cắt cành, dây nilon… Lấy mắt ghép liên tục nhiều đời của một giống để ghép có thể dẫn đến hiện tượng thoái hoá giống 35
  9. - Các bước tiến hành: + Chuẩn bị gốc ghép: cây gốc ghép thường cùng bộ, cùng họ, cùng loài với cây ghép được sản xuất bằng cách gieo hạt trên luống hoặc trong bầu ngon (đào, mận....) hoặc giâm cành (hồng, thược dược...) + Thời vụ ghép thường ghép khi có thời tiết mát: vụ Xuân (tháng 2-4), vụ Thu (tháng 8-10). Một số loại cây rụng lá đào, mai có thể ghép vào vụ Đông trước khi cây bật mầm. + Các phương pháp ghép có nhiều cách ghép, nhưng thường được chia làm 2 loại ghép cành và ghép mắt: Ghép cành: ghép áp, ghép nêm, ghép cành bên... Ghép mắt: cửa sổ, chữ T, mắt nhỏ có gỗ... Một số cách ghép thông dụng: - Ghép áp Cây gốc ghép được trồng trong túi bầu PE (polyetylen) kích thước 10 x 15cm hoặc 15 x 20cm. Khi gốc ghép có đường kính tương đương cành ghép ta chọn vị trí treo gốc ghép và sửa sang cành ghép: cắt hết lá, cành tăm, cành gai ở vị trí định ghép. Dùng dao sắc cắt vát qua phần vỏ đến phần gỗ của gốc ghép và cành ghép (dài 1,5 - 2,0 cm, rộng 0,4 - 0,5cm). Dùng dây ngon buộc chặt gốc ghép và cành ghép lại với nhau ở vị trí ghép. Hàng ngày tưới nước cho cây gốc ghép và cây mẹ. Sau ghép 30 - 45 ngày, vết ghép liền có thể cắt gốc của cành ghép và ngọn của gốc ghép để tạo thành cây ghép. Để bảo đảm ta có thể cắt gốc cành ghép làm 2 lần lần đầu cắt 1/2 đường kính, sau 5-10 ngày thì cắt hoàn toàn. Kiểu ghép này cho tỷ lệ sống cao, nhưng tốn công và hệ số nhân giống thấp, chỉ áp dụng đối với việc nhân giống một số cây hoa khó ghép mà không cần đến số lượng cây giống lớn. - Ghép nêm hay ghép cành bên Kiểu ghép này còn gọi là ghép đoạn cành, đây là kiểu ghép tương đối phổ biến đối với nhiều loại cây ăn quả; loại ghép này thường áp dụng đối với các loại cây khó lấy mắt: gỗ cứng, vỏ giòn, khó bóc hoặc ghép trong những thời vụ khó khăn khi nhiệt độ và ẩm độ tháp, sự chuyển động nhựa trong cây kém. Hiện nay kiểu ghép cành bên được áp dụng nhân giống ở cây hoa hồng, cây cảnh... Thao tác cụ thể như sau: 36
  10. + Làm vệ sinh gốc ghép trước 1 tuần, cắt bỏ bớt cành phụ, gai ở đoạn thân cách mặt đất 15-20cm, làm sạch cỏ vườn, bón phân dễ tiêu, tưới nước để cây chuyển động nhựa tốt (nên để lại những lá mọc ở gốc ghép nhằm tiếp tục cung cấp dinh dưỡng cho cây ghép sau khi ghép). +Trên cây lấy cành ghép, chọn các cành "bánh tẻ" có lá to, mầm ngủ tốt, cắt thành từng đoạn 20-30cm, cắt bỏ lá (chú ý không để mầm ngủ bị sây sát), bó thành từng bó và bảo quản trong bẹ chuối hoặc vải, giấy ẩm. + Dùng kéo cắt cành cắt ngang gốc ghép cách mặt đất 20-25cm, chẻ dọc gốc ghép theo chiều từ trên xuống dưới dài 2-3cm. Vết chẻ ở chính giữa gốc ghép (đối với ghép nêm) hoặc một phần vỏ của gốc ghép (đối với ghép cành bên). + Cắt 1 đoạn cành ghép có 2-3 mắt ngủ, dùng dao vát 2 bên gốc cành ghép (đối với ghép nêm) hoặc vát 1 bên (đối với ghép cành bên). Chú ý vết cắt vát phải thật phẳng để cành ghép có thể tiếp xúc tốt với gốc ghép. + Đưa cành ghép vào phần đã chẻ của gốc ghép làm sao cho phần vỏ của gốc ghép phải được tiếp xúc với phần vỏ của cành ghép thật khít. Dùng dây nilon chuyên dùng buộc thật chặt phần ghép giữa gốc ghép và cành ghép, sau đó buộc cuốn lên cả phần cành ghép để giảm sự thoát hơi nước của cành ghép hoặc dùng 1 túi nilon nhỏ chụp ra ngoài bao cả cành ghép và mắt ghép. + Sau 2-3 tuần, mầm ghép từ cành ghép mọc và đâm thủng ngon mỏng chui ra ngoài. - Ghép mắt Đây là phương pháp ghép rất phổ biến áp dụng cho nhiều loại cây hoa khác nhau. Kiều ghép này đơn giản, dễ làm, hệ số nhân giống cao. Sau đây xin giới thiệu 2 kiểu ghép mắt được áp dụng rộng rãi: - Ghép mắt kiểu "Cửa sổ":: Thường áp dụng đối với các loại cây hoa có vỏ dày, gốc ghép và cành ghép có đường kính tương đối lớn, nhựa trong cây chuyển động tốt, dễ bóc vỏ: ngọc lan, hải đường, hồng… + Làm vệ sinh gốc ghép trước 1 tuần, cắt bỏ bớt cành phụ, gai ở đoạn thân cách mặt đất 15-20cm, làm sạch cỏ vườn, bón phần dễ tiêu, tưới nước để cây chuyển động nhựa tốt. + Trên cây ấy cành ghép, chọn các cành "bánh tẻ" có lá to, mầm ngủ tốt, có kích thước đường kính cành: 0,3-0,5 cm, cắt thành từng đoạn 20-30cm, cắt bỏ lá 37
  11. (chú ý không để mầm ngủ bị sây sát), bó thành từng bó và bảo quản trong bẹ chuối hoặc vải, giấy ẩm. + Tại gốc ghép chọn chỗ nhẵn nhụi, cách mặt đất 20 - 25cm, mở một "cửa sổ" ở phần vỏ có kích thước 1x 2cm theo hình chữ nhật dọc. Chú ý không làm sây sát lớp tượng tầng sát phần gô của gốc ghép + Bóc 1 miệng vỏ trên cành ghép có mắt ngủ ở giữa, kích thước đúng bằng "cửa sổ" đã mở. + Đưa mắt ghép vào "cửa sổ" của gốc ghép, đậy "cửa sổ" lại, dùng dây nilon cuốn chặt, kín mắt ghép tạo sự tiếp xúc giữa gốc ghép và mắt ghép. + Sau 15-20 ngày, cởi dây nilon, kiểm tra mắt ghép thấy vẫn còn tươi là thao tác ghép đã thành công. Nếu mắt ghép khô, chết thì phải ghép lại sang vị trí khác của gốc ghép. + Sau khi cởi dây nilon 5-7 ngày thì tiến hành dùng kéo cắt cành cắt ngọn gốc ghép phía trên mắt ghép 1-2 cm. Vết cắt phải phẳng, nghiêng về phía đối diện của mắt ghép để nước không chảy vào mắt ghép. Dùng vôi bôi vào chỗ vừa cắt của gốc ghép. - Ghép chữ "T" Thường áp dụng đối với các loại cây hoa có vỏ mỏng, gốc ghép và cành ghép có đường kính tương đối nhỏ, cành ghép không phẳng, có mấu lồi, khó bóc vỏ: hoa hồng... + Chuẩn bị gốc ghép như đối với ghép "cửa sổ" + Cách mặt đất 15-20 chỉ dùng dao rạch ngang vỏ 1 cm, đặt dao chính giữa vết rạch trên, rạch 1 đường dọc theo thân cây dài 2-3 cm theo chiều từ trên xuống dưới. + Cắt mắt ghép nhỏ có đính cuống lá và mắt ghép ở bên ngoài và 1 lớp gỗ mỏng ở bên trong. + Đưa mắt ghép vào chỗ đã mở ở gốc ghép theo chiều từ trên xuống dưới, dùng dây ngon cuốn chặt, kín mắt ghép gắn chặt giữa gốc ghép và mắt ghép. + Sau 15-20 ngày, cởi dây nilon, kiểm tra mắt ghép thấy vẫn còn tươi cuống lá vàng và rụng là thao tác ghép đã thành công. Nếu mắt ghép khô, cuống lá không rụng, thì phải ghép lại sang vị trí khác của gốc ghép. + Sau 5-7 ngày cởi dây nilon thì tiến hành dùng kéo cắt cành cắt ngọn gốc ghép phía trên mắt ghép 1-2 cm. Vết cắt phải phẳng, nghiêng về phía đối của gốc 38
  12. ghép để nước không chảy vào mắt ghép. Dùng vôi bôi vào chỗ vừa cắt của gốc ghép. Trên đây là một số kiểu ghép chủ yếu đối với nhân giống cây hoa. Căn cứ vào từng giống, loài, điều kiện cụ thể của gốc ghép, mắt ghép, cành ghép và thao tác của người ghép có thể chọn kiểu ghép cho thích hợp. - Chăm sóc cây sau khi ghép + Sau khi cắt ngọn gốc ghép, các mầm gốc ghép mọc lên nhiều, cần loại bỏ để tập trung dinh dưỡng cho mầm của mắt ghép phát triển. Khi mầm ghép cao 15- 20cm thì bắt đầu làm cỏ, vun gốc và bón phân. Mầm ghép cao 40-50cm thì tuỳ giống cây hoa có thể bấm ngọn, tạo hình, để trên cây 2-3 cành cấp 1, cách nhau 15-20cm phân bố về các phía để tạo khung tán cho cây. + Chú ý phòng trừ sâu bệnh, nhất là các loại sâu ăn lá, hại mầm non của cây ghép. - Bảo quản cành ghép, mắt ghép + Cành ghép sau khi cắt phải được ghép ngay, để lâu tỷ lệ ghép sống sẽ thấp. Nếu phải vận chuyển xa có thể cắt cành ghép dài 20-30cm, để hom trong bẹ chuối, giấy bản hoặc vải hàng ngày dấp nước 2 lần. Khi ghép loại bỏ những mắt ở đầu và cuối cành ghép. - Dụng cụ và thao tác ghép Để ghép thành công, dụng cụ và thao tác ghép cần chú ý thực hiện tốt các vấn đề sau: + Dao ghép phải bằng loại thép tốt, đủ độ cứng, tốt nhất là loại thép không gỉ, dao phải được mài sắc để đảm bảo cắt mát ghép, cành ghép phải phẳng, mịn, ngọt, không xơ và chính xác. Dao ghép tốt nhất là loại dao ghép Trung Quốc mài phẳng 1 bên để khi cắt vết cắt không bị vặn. + Dây ghép nên dùng loại dây ngon tự hủy chuyên để ghép, vừa bền, chắc. + Kéo cắt cành dùng để cắt cành ghép, gốc ghép không bị dập nát. + Thao tác cắt mắt ghép, gốc ghép phải nhanh, chuẩn xác để tránh ôxy hoá và tạo mặt phẳng không có khe hở giữa gốc ghép với mắt ghép hoặc cành ghép. + Khi buộc dây nilon phải chặt và chuẩn xác để tượng tầng của gốc ghép với cành ghép hoặc mắt ghép được gắn khít vào nhau. 4.2.2.5 Trồng bằng củ Một số loài hoa lay ơn, huệ, loa kèn, lily... thường trồng bằng củ. 39
  13. - Ưu điểm: cây nhanh ra hoa, giữ được các đặc điểm tốt của cây mẹ. - Nhược điểm: cây không đồng đều nếu không được phân loại của tốt, hệ số nhân thấp dễ bị lan truyền các loại nấm bệnh. Muốn có củ giống tốt, vườn cây giống phải được bón phân đầy đủ cân đối, đặc biệt lưu ý tăng cường phân kali để củ không bị sâu bệnh, to. Thu củ vào ngày nắng ráo, củ được rửa sạch hong khô và xử lý khử trùng rồi đưa vào kho cất giữ. Kho bảo quản phải khô ráo, sạch sẽ hạn chế mầm mọc sớm. Tuỳ theo củ mà có thể đưa ra trồng ngay hoặc bảo quản trong thời gian dài khi có điều kiện thì trồng ra vườn sản xuất. Đối với hoa tay là loại nhân giống chủ yếu bằng củ, đối với các cây nhỏ cần ngắt nụ và nhổ bỏ cây bị bệnh một cách kịp thời. Khi cây thu hoạch hoa, để một thời gian lá héo nên đào củ ngay. Khi đào củ không tách củ ngay củ mẹ với củ con, đợi 1-2 ngày sau loại bỏ đất bùn và rễ rồi mới tách. Cần chú ý là củ được đào về phải để nơi khô mát, tránh không được phơi ra ánh nắng làm khô vẩy. Khi thu hoạch nếu thân cây chưa khô hẳn thì hãy đặt cây vào nơi dâm mát 2-3 ngày, để cho dinh dưỡng trong thân dồn hết về củ rồi mới cắt thân. Mỗi củ mẹ đều có thể có 3-5 củ con tương đối lớn (chu vi 5cm trở lên) và 4 - 8 củ nhỏ (chu vi 1-3cm). Củ mẹ được phân loại theo độ lớn để dùng, lấy củ con có chu vi 5cm trở lên đem trồng sau 1 năm có thể thành củ để sản xuất hoa (loạn) trở lên. Củ có chu vi 1- 3cm thì phải trồng 2 năm mới thành củ sản xuất hoa được. 4.2.2.6 Nuôi cấy mô Nhân giống bằng nuôi cấy mô tế bào là phương pháp nhân giống vô tính tiên tiến nhất hiện nay. Bộ phận để nhân giống có thể là ngọn cây, ngọn cành, nhánh một phần của lá, hoa, rễ cây. Nhân giống hoa ở các nước tiên tiến đều sử dụng phương pháp nuôi cấy mô tế bào đối với cây hoa cúc, cẩm chướng, đồng tiền, loa kèn, layơn... - Ưu điểm: cây được sản xuất từ nuôi cấy mô tế bào là sạch bệnh, cây sinh trưởng, phát triển khoẻ, độ đồng đều cao, hệ số nhân giống cao so với các phương pháp nhân giống khác. - Nhược điểm phải đầu tư các phương tiên kỹ thuật, hoá chất. Giá thành cây con giống cao, khó áp dụng. - Các bước tiến hành với các bước chính sau: + Chọn vật liệu để nuôi cấy (đỉnh sinh trưởng, mầm ngủ, đỉnh sinh trưởng rễ, mô lá) và khử trùng. Để khử trùng mô thực vật, người ta thường dùng một số chất 40
  14. hoá học như: HgCl2, H2O2… Và tuỳ thuộc vào từng loại mô thực vật mà lựa chọn loại hoá chất, nồng độ và thời gian xử lý hoá chất thích hợp. + Tái sinh mẫu nuôi cấy: Quá trình này được điều khiển chủ yếu dựa vào tỷ lệ hợp chất Auxin/Xytokinin ngoại sinh được đưa vào môi trường nuôi cấy. + Nhân nhanh chồi: Đưa vào môi trường dinh dưỡng nhân tạo các chất điều hoà sinh trưởng (Auxin, Xytokinin, Gibberellin...), các chất bổ sung như nước dừa, nước chiết nấm men, dịch thuỷ phân Casein… kết hợp với các yếu tố nhiệt độ, ánh sáng thích hợp. Tuỳ thuộc vào từng đối lượng nuôi cấy, người ta có thể nhân nhanh các cụm chồi hay kích thích sự phát triển của các chồi nách (vi giâm cành) hoặc thông qua việc lạo cây từ phôi vô tính. + Tạo cây hoàn chỉnh: chuyển các chồi, mầm ngủ từ môi trường nhân nhanh chồi sang môi trường ra rễ để tạo ra cây con hoàn chỉnh. Sau 2-3 tuần, từ những chồi riêng lẻ này sẽ xuất hiện rễ và trở thành cây hoàn chỉnh. Ở giai đoạn này thường bổ sung vào môi trường nuôi cấy các Auxin là nhóm hormon thực vật quan trọng có chức năng tạo rề phụ từ mô nuôi cấy.Trong nhóm này, các chất IAA, IBA, NAA được sử dụng nhiều nhất để tạo rễ cho chồi invitro. + Đưa cây con ra vườn ươm với giá thể phù hợp: Chuyển cây con invitro từ trạng thái sống dị dưỡng sang sống hoàn toàn tự dưỡng, do đó phải bảo đảm các điều kiện ngoại cảnh (nhiệt độ, ánh sáng. ẩm độ, giá thể...) phù hợp để cây con đạt tỷ lệ sống cao trong vườn ươm. + Đưa cây con ra vườn sản xuất. Hiện nay nhân giống bằng nuôi cấy mô tế bào đã được áp dụng ở một số loài hoa: đồng tiền, cẩm chướng… và đã đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người sản xuất. Cây hoa được nhân giống từ nuôi cấy mô tế bào có năng suất rất cao (gấp 3-4 lần so với các cách nhân giống khác), chất lượng giống hoa tốt. Vùng hoa Mê Linh (Vĩnh Phúc), Tây Tựu (Hà Nội) hiện nay hầu hết các giống hoa đồng tiền mới đều được trồng bằng cây nhân giống từ phương pháp nuôi cấy mô tế bào. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Tại sao phải xây dựng vườn ươm? 2. Những lưu ý khi thiết kế vườn ươm? 3. Trình bày đặc điểm của một số phương pháp nhân giống trên hoa kiểng? 41
  15. Chương 4 MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT TRONG SẢN XUẤT HOA Mục đích của chương: hiểu thêm một số biện pháp kỹ thuật tác động thích hợp trong việc canh tác và bảo quản hoa. 5.1 Kỹ thuật tỉa cành, tạo tán - Bấm ngọn: nhằm tạo ra nhiều nhánh, từ đó làm cơ sở cho việc nhiều bông - Tỉa những cành chết, cành yếu, cành đâm vào trong, hoặc đâm xéo vào cành khác từ đó tạo sự thông thoáng giúp cho cây trồng hạn chế sâu bệnh hại. - Tỉa nụ nhằm giúp cho cây tập trung dinh dưỡng nuôi nụ, nuôi hoa. Do đó hoa sẽ to và đẹp - Tỉa lá để tạo dáng cây bonsai 5.2 Một số ứng dụng của chất điều hòa sinh trưởng trong nghề trồng hoa * Kích thích sự ra rễ trong giâm cành Cành giâm cây hoa hồng Nhung có số rễ, chiều dài rễ và tỉ lệ ra rễ và sống cao nhất khi giâm cành khoảng 30 ngày tuổi và có xử lý 1.000 ppm NAA hoặc xử lý 1.000 ppm IBA. *Kích thích ra hoa nhiều và đẹp (cúc, hồng, cẩm chướng, thược dược...) Hỗn hợp Gibberellin và các chất vi lượng làm cho cuống hoa to và dài ra, làm cho cây nhiều nụ, hoa và ra hoa tập trung. Một gói chế phẩm pha với 8 lít nước hay 4-5 lít nước được sử dụng đối với cây hoa thân mềm hay cây hoa thân cứng. Dùng chế phẩm kích thích ra lá phát chồi (phun vào thời kỳ cây non và thời kỳ trước khi cắt bán 5-7 ngày). * Kích thích rụng lá Phun KClO3 vào lá, trước rằm tháng chạp bốn ngày với nồng độ 2‰ để kích thích rụng lá hoặc phun Thiourea vào lá, trước rằm tháng chạp 5 ngày với nồng độ 2% để kích thích rụng lá mai. * Xử lý hoa lâu tàn Phun NAA 20 ppm để giữ hoa mai lâu hơn. Thời gian hoa nở kéo dài hơn 3 ngày. 42
  16. * Xử lý cho hoa loa kèn ra hoa trái vụ Hoa loa kèn trồng tháng 9-10 âm lịch cho hoa tháng 4 năm sau, để tăng giá trị của hoa cần thực hiện các bước như sau: - Phá bỏ tính ngủ nghỉ để rút ngắn thời gian nằm trong đất (từ trồng đến lúc mọc 45-50 ngày). Dùng dung dịch Gibberellin 10-15 mg/lít, phun ướt đẫm hoặc ngâm củ hoa, sau đó cho vào sọt đem xử lý lạnh trong một thời gian nhất định. - Khi cây hoa phát triển cao 10 cm thì phun chế phẩm ra lá phát chồi, cứ ngày phun một lần. - Khi cây chuẩn bị ra hoa có thể phun chế phẩm kích thích ra hoa. 5.3 Thu hoạch, đóng gói, bảo quản hoa 5.3.1 Thu hoạch Trước khi thu hoạch hoa, cây cảnh phải lập được kế hoạch tiêu thụ các sản phẩm hoa, cây cảnh như: địa điểm, khoảng cách vận chuyển và thời gian tiêu thụ. * Xác định giai đoạn thu hoa thích hợp Hoa, cây cảnh là một sản phẩm đặc biệt. Giá trị của chúng phụ thuộc nhiều vào thời kỳ thu hoạch để bán. Các sản phẩm hoa, cây cảnh lúc bán phải đảm bảo các yêu cầu thẩm mỹ người tiêu dùng. Do đó quyết định thời điểm thu hoa để bán có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao giá trị của hoa. Kinh nghiệm đối với thị trường thu, bán ngay có thể thu hoạch hoa theo Bảng 5.1 Bảng 5.1: Thời điểm thu hoạch hoa thích hợp để bán ngay ra thị trường STT Tên hoa Giai đoạn nở hoa 1 Hồng Hai cánh hoa đầu tiên bắt đầu nở ra 2 Cúc Cánh tràng phía ngoài xòe hết 3 Cẩm chướng Nở 1/2 hoa 4 Lay ơn 1 - 5 búp xuất hiện màu 5 Lan 3 - 4 ngày sau khi hoa nở 6 Huệ Các hoa trong chùm bắt đầu nở 7 Đồng tiền Hàng bên ngoài hoa xuất hiện màu 8 Loa kèn Hầu hết búp hoa xuất hiện màu 43
  17. 9 Anthurium Cánh mo nở đầy đủ Thời điểm thu hoạch của tất cả các loại hoa đảm bảo nguyên tắc: - Thu hoạch vào ngày nắng ráo, không mưa, thu hoạch vào buổi sáng. - Đảm bảo cho hoa nở đúng lúc tuỳ theo từng giống loài - Trước khi thu hoạch từ 20-30 ngày tiến hành các biện pháp kỹ thuật đặc biệt như: + Làm cỏ sạch sẽ, phòng trừ sâu bệnh, bón phân, đảm bảo chất dinh dưỡng đầy đủ. Có thể phun một số hoá chất kéo dài tuổi thọ của hoa như MH, Cuferon (dần xuất của MH) nồng độ 200 ppm để phun cho hoa trước khi cắt 2-3 ngày, có thể kéo được 10-20 ngày. + Dùng SADH 500ppm, QC (Hydroquinon cirat) 30-500ppm phun cho cành lá và cuống hoa. + Dung dịch cắm hoa: Nitrat bạc, K2MnO4, CuSO4: 0,5g/lít nước, đường 10g/lít nước. Cắm ngập 5cm cành vào dung dịch đã pha thì sẽ kéo dài được thời gian tươi của hoa. Ví dụ: Thời gian thu hái đối với hoa Đồng tiền có ảnh hưởng rất lớn tới độ bền của hoakhi cắm bình. Thời gian thu hái thích hợp nhất là khi cuống hoa đứng thẳng, các cánh hoa ngoài mở phẳng ra. Cây lấy hoa đang ở tình trạng sinh trưởng mạnh. Trong ngày, thời điểm cải hoa tốt nhất là vào sáng sớm và chiều mát, lúc này cuống hoa chứa đầy nước, tránh cắt vào lúc cây bị héo hoặc ban đêm lúc hoa ở trạng thái nửa khép. Cách thu hái và lấy tay cầm gốc cuống hoa bẻ nghiêng cho gãy tại chỗ sát gốc cuống hoa (phần tiếp xúc giữa gốc cuống hoa và thân). Bảng 5.2. Tiêu chuẩn phân cấp hoa Đồng tiền Chỉ tiêu Cấp 1 Cấp 2 Cấp 3 Sự cân đối giữa hoa, Rất cân đối, không Tương đối cân Bình thường cánh và lá cong, gãy đối, không cong, không cong, gãy gãy Hình dáng, màu sắc Hình dáng màu sắc Hình dáng màu Hình dáng màu hoa hoa rất đẹp, đúng sắc hoa rất đẹp, sắc hoa bình giống đúng giống 44
  18. thường, đúng giống Sâu bệnh Không có vết sâu Có vết sâu bệnh Có vết nhưng bệnh nhưng không có không nghiêm rõ trọng Khuyết tật Không gãy, dập, Không gãy, dập, Không có các không cong queo, không cong vênh vết gãy, dập, không phai màu, rõ, không có vết không cong biến dạng, bụi bẩn, bẩn, không có queo, thôi màu, không có đốm, đốm, không có vết biến dạng, bụi không có vết cháy, cháy, vết thuốc trừ bẩn, không có vết thuốc trừ sâu, sâu, cho phép 5% đốm, không có cho phép 3% hoa hoa có khuyết tật vết cháy, cho có khuyết tật nhẹ nhẹ. phép 10% hoa có khuyết tật nhẹ Chiều dài (cm) < 40 40 - 50 50 Đường kính (cm) 10 - 13 > 13 - 15 > 15 - 18 Đặng Văn Đông và cs, 2003 5.3.2 Đóng gói Nếu đưa hoa đi bán ở xa, hoa cần được đóng gói cẩn thận để đảm bảo không khô, héo, dập nát trong quá trình vận chuyển. Mỗi loại hoa khác nhau được đóng gói theo phương pháp khác nhau. Thường hoa được đóng gói trong bao carton theo kích thước Bảng 5.3 Bảng 5.3: Các kích thước bao carton sử dụng trong đóng gói hoa Loại hộp Chiều dài (cm) Chiều rộng (cm) Chiều cao (cm) A 100 40 10 B 100 40 14 C 100 40 19 45
  19. D 120 50 15 Ví dụ: Hoa Đồng Tiền là loại hoa to, cuống dài nên cần phải có cách bao gói đặc biệt. Nếu bảo quản thời gian ngắn hoặc cự ly vận chuyển gần thể xử lý bảo quản khô, cắm hoa vào bao nhận hình phễu, bao lại cho vừa vặn, bao kín hoa chú ý không làm cho cánh hoa gãy. Quá trình bảo quản vận chuyển phải giữ cho đoạn gốc (có màu nâu đỏ) dài 3-6cm, cứ 10 hoa bó thành một bó rồi đóng thùng vận chuyển. Vận chuyển đường dài thì cho hoa vào thùng giấy bìa cứng dài 60 - 70cm, rộng 40cm, trên nắp khoan 50 lỗ nhỏ thành 5 hàng, đường kính lỗ khoảng 2cm. Sau khi xử lý, bảo quản, đóng thùng để vận chuyển thông thường mỗi thùng 50 bó chia làm 5 lớp. 5.3.3 Bảo quản Hoa thu hoạch tốt nhất vào buổi sáng hoặc vào cuối buổi chiều. Không nên thu hoa vào buổi trưa. Hoa cần được thu đúng vào thời kỳ thu hoạch. Thời kỳ thu hoạch của hoa tùy thuộc vào loài, giống hoa và việc xử lý hoa sau thu hoạch (như thu để bán ngay, hay thu vận chuyển đi xa mới bán,...). Sau khi cắt hoa, hoa vẫn còn sống, nhưng hoa sẽ nhanh chóng thối nếu hoa không được xử lý cẩn thận. Các loài hoa khác nhau được xử lý bằng cách thức khác nhau, các loài hoa sẽ tươi lâu, bền hơn nếu hoa được ngâm trong nước. Một số nguyên nhân và hướng khắc phục để hoa được tươi lâu trình bày ở Bảng 5.4 Bảng 5.4: Những nguyên nhân và hướng khắc phục để hoa cắt được tươi lâu Nguyên nhân làm hoa héo nhanh Hướng khác phục 1. Hoa hô hấp mạnh làm hết dinh - Hạ nhiệt độ để giảm hô hấp dưỡng dự trữ trong cành hoa và lá - Dùng các chất kìm hãm hô hấp bộc mang hoa phát do Etylen, dùng chất hấp thụ Etylen 2. Hết dinh dưỡng dự trữ - Chăm sóc tốt cây mẹ để cành hoa cắt có nhiều chất dự trữ. - Hoa có khả năng hút đường, vitamin là nguyên liệu trực tiếp của hô hấp. Có thể cung cấp bổ sung sau khi cắt. 46
  20. 3. Hoa bốc hơi nước mạnh dẫn đến - Thay nước sạch hàng ngày nhanh héo và cánh hoa bị táp - Cắt lại vết cắt thông dẫn. 4. Vi khuẩn nấm gây hại vẻ đẹp thẩm - Thay nước sạch hàng ngày mỹ hoặc làm tắc mạnh dẫn - Dùng chất kháng khuẩn, kháng nấm 5. Sức sống của hoa kém so với các bộ - Chăm sóc cây mang hoa, hoa khỏe, phận khác thu hoạch hoa đúng tuổi - Trưng bày cả cây Axit citric và các hóa chất khác pha thêm vào nước làm giảm pH xuống 3-3,5. Hóa chất được dùng rộng rãi để giữ hoa STS (Silver thiosulphate). Hóa chất có tác dụng ức chế một số ảnh hưởng có hại của khí Ethylen. Bó hoa có thể rửa bằng thuốc tẩy để trừ diệt các loại vi khuẩn có hại. Hoa cắt thỉnh thoảng “ốm”, có nghĩa là đưa nhúng vào dung dịch chữa bệnh có đường 8-24h (phụ thuộc vào loại hoa). Dung dịch bao gồm thuốc diệt khuẩn. Nó có thể diệt các vi khuẩn có hại. Nếu thêm chất điều hòa sinh trưởng vào dung dịch cắm hoa sẽ có tác dụng làm hoa lá giữ được lâu hơn. Sau khi thu hoạch, đưa hoa vào giữ lạnh càng sớm càng tốt. Có thể dùng hệ thống điều hòa lạnh để hạ nhiệt độ xuống. Độ ẩm có thể giữ cao. Mức độ giữ nhiệt độ phụ thuộc vào loại hoa. Như hoa cẩm chướng có thể giữ nhiệt độ từ 0-30C. Ở nhiệt độ đó, hoa giữ được 3-4 tuần. Hoa lay ơn giữ ở nhiệt độ 3-100C, hoa có thể giữ được 7-8ngày. Các loại hoa, đặc biệt là hoa ôn đới như hoa hồng, có thể giữ lạnh trong cả quá trình vận chuyển và thời gian bán hoa. Có thể dùng xe lạnh để vận chuyển, phòng lạnh để đóng gói. Cửa hàng hoa thường có buồng lạnh để giữ hoa trong suốt quá trình bán (Bảng 5.5) Bảng 5.5: Thời gian tối đa giữ hoa trong kho lạnh Loại hoa Nhiệt độ kho (0oC) Thời gian giữ tối đa (tuần) 1. Hồng 0,5 - 3 2 2. Cúc 1 3 47
nguon tai.lieu . vn