Xem mẫu

  1. Chƣơng 5 MÔ TẢ ĐIỂM NGHIÊN CỨU HỆ THỐNG CANH TÁC MỤC TIÊU  Hiểu được ý nghĩa và các yêu cầu của mô tả điểm nghiên cứu  Hiểu được quy trình và các phương pháp mô tả thông dụng. NỘI DUNG Mô tả điểm nghiên cứu HTCT là một tiến trình công phu nhằm hiểu rõ những đặc điểm (thuận lợi và khó khăn) về tự nhiên, sinh học, và kinh tế xã hội, hiện tại và triển vọng cũng như rủi ro trong phát triển của khu vực nghiên cứu. Việc mô tả điểm rất quan trọng và sẽ lặp đi lặp lại từ bắt đầu chọn điểm đến thiết kế kỹ thuật. 5.1. Ý nghĩa và yêu cầu của việc mô tả điểm nghiên cứu 5.1.1. Ý nghĩa của việc mô tả điểm nghiên cứu Mô tả điểm nghiên cứu là một trong những tiến trình quan trọng nhất của HTCT, nó giúp cho nhóm nghiên cứu thu thập được những thông tin cần thiết cho những mục tiêu khác nhau, làm cơ sở cho xác định HTCT phù hợp cho vùng, cải tiến và hiệu chỉnh những thành phần trở ngại để tăng hiệu quả của HTCT đang áp dụng. Mục đích của khảo sát đặc điểm vùng nghiên cứu là:  Cung cấp những thông số, các dữ kiện về hiện trạng tự nhiên, kinh tế và xã hội của vùng nghiên cứu.  Tìm hiểu và phát hiện được những kỹ thuật tiên tiến của một vài nông dân có thể áp dụng có lợi cho những nông dân khác.  Cung cấp được thông tin để hoạch định các thí nghiệm trên đồng ruộng. 5.1.2. Yêu cầu của việc mô tả điểm nghiên cứu Mô tả điểm để tập trung xác định những vấn đề khó khăn, các thí nghiệm ngoài đồng với các giải pháp được đưa ra sao cho phù hợp các dạng nông hộ trong một thời gian ngắn và tương đối ít tốn chi phí. Những thí nghiệm thành phần kỹ thuật thường được bắt đầu ít tháng sau khi chọn điểm nghiên cứu. Do vậy, việc mô tả điểm nghiên cứu phải được tiến hành nhanh 48
  2. chóng và kết quả mô tả sơ khởi phải sẵn sàng trong vài tuần sau khi bắt đầu công việc mô tả. Sau đó công việc mô tả điểm tiếp tục được thực hiện để khẳng định lại kết quả từ mô tả sơ khởi, xác định các khó khăn trở ngại, và hiểu rõ thêm về hoàn cảnh, tình trạng hiện tại của nông dân. Mô tả điểm cũng được thực hiện để tìm ra được những kỹ thuật canh tác tiên tiến của những nông dân hàng đầu. Những nghiên cứu như vậy có thể được thực hiện trong năm đầu hay thứ hai của giai đoạn thử nghiệm trong tiến trình nghiên cứu HTCT. Mô tả điểm cũng được thực hiện cho việc khuyến nông và phổ triển: tìm ra những tương đồng về điều kiện ngoại cảnh giữa điểm nghiên cứu và những khu vực khác trong vùng mục tiêu (chiến lược), nhằm có thể đưa những thành phần kỹ thuật có triển vọng sang những khu vực chung quanh. Mô tả điểm nghiên cứu cho khuyến nông và phổ triển phải được kết thúc trước khi thực hiện giai đoạn sản xuất thử. 5.2. Tiến trình mô tả điểm nghiên cứu Việc mô tả điểm nghiên cứu được thực hiện trong suốt tiến trình nghiên cứu HTCT; trong đó những dữ liệu thu thập càng về sau càng cung cấp thông tin đầy đủ về những đặc điểm của điểm nghiên cứu. Có thể phân biệt hai tiến trình mô tả điểm:  Mô tả sơ khởi điểm nghiên cứu: áp dụng phương pháp mô tả nhanh, đánh giá nhanh nông thôn (RRA = Rapid Rural Appraisal), để có được cái nhìn tổng quát vể điểm nghiên cứu.  Mô tả đầy đủ điểm nghiên cứu: kết hợp các dữ liệu từ mô tả sơ khởi và các khảo sát, điều tra, nghiên cứu sâu tại điểm trong giai đoạn sau, để có hình ảnh đầy đủ, chính xác hơn đáp ứng yêu cầu cao hơn trong nghiên cứu. 5.2.1. Mô tả sơ khởi điểm nghiên cứu HTCT Mô tả sơ khởi điểm nghiên cứu HTCT nhằm các mục tiêu:  Nhìn tổng quát điểm nghiên cứu trong vùng mục tiêu với các thông tin về đất-nước (tổng diện tích, diện tích canh tác, diện tích đất ướt, đất khô, diện tích có tưới, nguồn nước tưới, địa hình, loại đất, sa cấu, những mô hình canh tác chủ yếu 49
  3. trên từng loại đất đai), khí hậu nông nghiệp (lượng mưa, phân bố mưa, nhiệt độ, các hiện tượng thời tiết khác), cơ sở vật chất hạ tầng (vị trí điểm, đường sá và giao thông, những khu vực chợ búa gần nhất, ngân hàng, trường học, ...), xã hội (dân số, số nông hộ, số hộ phi nông nghiệp, phân bố cỡ nông trại, các hình thức sở hữu đất đai), những phương tiện phục vụ như điện, máy bơm nước, máy kéo, máy suốt lúa, v.v., những thay đổi tại điểm có liên quan, và những thông tin khác. Tóm tắt và phân tích chúng dựa trên các khuyến cáo của các chuyên gia.  Phân chia điểm thành những vùng có điều kiện sinh thái nông nghiệp hoặc những kiểu nông trại tƣơng tự. Những khác biệt chủ yếu giữa các nông dân có thể ảnh hưởng đến việc áp dụng thích hợp các kỹ thuật mới cũng cần được kể đến như cỡ nông trại, chế độ sở hữu ruộng đất, nguồn lao động và sức kéo, thu nhập từ hoạt động nông nghiệp và ngoài phạm vi nông trại, v.v..  Chẩn đoán và xác định những khó khăn của nông dân trong sản xuất. Vấn đề khó khăn còn tồn tại là khi còn có sự cách biệt giữa cái mà nông dân đạt được dựa trên mục tiêu của họ với những tài nguyên và kỹ thuật hiện tại so với cái mà họ có thể đạt được với kỹ thuật mới, cải tiến, hữu dụng và thích hợp. Những khó khăn hạn chế thường thấy là: năng suất thấp hay bấp bênh và không bền vững (tác động bởi yếu tố tự nhiên và sinh học), chưa khai thác hết tài nguyên (vốn, đất đai, lao động, sức kéo, nước, các đầu tư về vật tư), hiệu quả kinh tế thấp và không ổn định, giá thành sản xuất cao.  Đánh giá tƣơng đối mức độ các khó khăn. Các mức độ (tầm quan trọng) của khó khăn, trở ngại được đánh giá về ba phương diện: (i) Mức độ nghiêm trọng (severity): dựa trên phần trăm giảm sút về năng suất, sản lượng hoặc lợi nhuận. (ii) Tần suất xảy ra (frequency): số lần xảy ra trong một đơn vị thời gian hoặc thời gian để xảy ra một lần. (iii) Mức độ phổ biến (prevalence): tỉ lệ diện tích, phạm vi ảnh hưởng. Trong mô tả, mức độ nghiêm trọng của khó khăn có thể được xác định với sự phối hợp với nông dân, như cùng đánh giá các mức độ thất thu năng suất và lợi nhuận: dễ chịu (1-15%), tương đối (16-25%), trầm trọng (26-50%), rất trầm trọng 50
  4. (trên 50%). 5.2.2. Mô tả cụ thể điểm nghiên cứu Với các kết quả thu được từ mô tả sơ khởi điểm nghiên cứu HTCT bằng việc sử dụng phương pháp đánh giá nhanh kết hợp với các phương pháp khác trong phân tích hệ sinh thái nông nghiệp, nhóm nghiên cứu chỉ mới có cái nhìn tổng quát về điểm nghiên cứu được chọn. Muốn hiểu rõ hơn điểm nghiên cứu, việc cần thiết là tiếp tục công việc mô tả điểm với dữ kiện chi tiết, chuyên sâu hơn, đồng thời tranh thủ sự tín nhiệm, hợp tác về mọi mặt của nông dân, chính quyền, lãnh đạo đoàn thể, tôn giáo, v.v. Do vậy, việc mô tả điểm đầy đủ được thực hiện không phải chỉ trong thời gian ngắn mà có thể kéo dài qua nhiều năm, kết hợp với các kết quả nghiên cứu trên đồng ruộng, các xử lý trong phòng, các ý kiến phản ánh từ nông dân và những thành phần khác trong cộng đồng địa phương. Các dữ kiện thu được sau sẽ kiểm chứng và cung cấp thêm chi tiết cho những số liệu trước. Mô tả điểm đầy đủ thường được thực hiện bằng cuộc điều tra kháo sát, phỏng vấn quy mô với nhiều chương mục chi tiết. Sơ lược tiến trình như sau: (i) Tìm hiểu sơ khởi điểm nghiên cứu trong vùng mục tiêu bằng những lần dã ngoại, quan sát trực tiếp; phỏng vấn những người am hiểu sự việc, các cấp lãnh đạo; tận dụng những nguồn thông tin khác để có cái nhìn tổng quát về điểm nghiên cứu. (ii) Áp dụng những phương pháp thu thập thông tin để xác định sơ khởi những khó khăn, trở ngại trong sản xuất hiện tại. (iii) Phác thảo ra một tập câu hỏi dựa trên các dữ kiện thu thập được từ các công việc trên để chuẩn bị cho việc phỏng vấn thử tại điểm. Nội dung của các câu hỏi, chi tiết của từng chương mục trong tập câu hỏi được thiết kế tuỳ thuộc vào mục đích của cuộc điều tra. (iv) Thực hiện cuộc phỏng vấn thử để kiểm chứng lại các câu hỏi trong tập câu hỏi. Có thể thực hiện phương pháp KIP (key informant panel = những người am hiểu sự việc) song song với phỏng vấn thử để kiểm chứng cùng lúc. (v) Biên soạn, sửa chữa lại các chi tiết trong tập câu hỏi cho phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương về nội dung các câu hỏi, cấu trúc câu văn, thứ tự câu 51
  5. hỏi, sự chính xác của thuật ngữ, các đơn vị đo lường, các từ ngữ địa phương sao cho có sự hiểu biết và cảm thông hoàn toàn giữa người phỏng vấn và nông dân. (vi) Thực hiện cuộc phỏng vấn chính thức. (vii) Hiệu chỉnh, tính toán, xử lý các dữ kiện thu thập được sau cuộc phỏng vấn. Lập các bảng tóm tắt kết quả thu thập được, kể cả các bản đồ, các hình ảnh minh họa, đồ biểu, lịch thời vụ, lịch khí tượng, lịch về tiền vốn, lao động, v.v. (viii) Trình bày các kết quả sơ khởi trước nhóm nghiên cứu, thu thập và nghiên cứu các phản ánh từ các thành viên trong nhóm nếu có. (ix) Trình bày kết quả và thu nhận phản ánh của nông dân về các số liệu thu được. (x) Hiệu chỉnh việc tính toán, phân tích số liệu và viết báo cáo chính thức về kết quả mô tả điểm. Có thể sử dụng các kết quả từ mô tả sơ khởi, các hình ảnh số liệu, v.v. để bổ sung cho các kết quả phỏng vấn chính thức. (xi) Xác định lại những khó khăn, trở ngại trong sản xuất hiện tại, những triển vọng trong tương lai bằng các dữ kiện vừa thu thập được qua cuộc điều tra. (xii) Thiết lập các giả thuyết và những hướng thực hiện thí nghiệm trên đồng ruộng. Kết quả từ các thí nghiệm này và các thí nghiệm kế tiếp được bổ sung vào kết quả mô tả điểm. Kết quả những thay đổi về năng suất, kinh tế cũng góp phần bổ sung vào mô tả điểm. 5.2.3. Phƣơng pháp mô tả điểm nghiên cứu Mô tả điểm trong nghiên cứu HTCT luôn bao gồm thu thập và phân tích thông tin. Có nhiều nguồn thông tin và cũng có nhiều cách thu thập và phân tích thông tin.  Thu thập thông tin không qua điều tra - Tham khảo dữ kiện thứ cấp, kể cả kết quả những nghiên cứu trước, - Tìm hiểu, quan sát trực tiếp, hoặc đo đạc trực tiếp.  Thu thập thông tin bằng các hình thức điều tra - Phỏng vấn những người am hiểu nhất về một chuyên đề nào đó, - Phỏng vấn bán chính thức từng nông dân, hoặc nhóm nông dân, - Phỏng vấn chính thức nông dân với nội dung chuyên sâu. 52
  6.  Phân tích theo không gian (spatial analysis) - Bản đồ mặt cắt, - Hình vẽ mô tả hoạt động sản xuất của nông hộ với những mối tương quan giữa các sản phẩm và phụ phẩm của mỗi hoạt động sản xuất.  Phân tích theo thời gian (temporal analysis) - Lịch thời vụ (bố trí cây trồng, vật nuôi), - Lịch diễn biến các yếu tố khí tượng, thuỷ văn, - Lịch diễn biến mức độ cung cấp về thực phẩm, thức ăn gia súc, - Lịch diễn biến mức độ/nhu cầu lao động, tiền mặt, - Lịch diễn biến mức độ xuất hiện của từng loại sâu bệnh, dịch bệnh.  Phân tích dòng tài nguyên (resource flow analysis) - Luân chuyển tiền mặt: thu chi từng tháng, qua đó biết được thời gian nào cần tiền, thời gian nào thu được nhiều tiền, - Dòng vật chất về đầu tư nguyên vật liệu, vật tư cho sản xuất, - Dòng nhu cầu lao động qua từng tháng cho từng hoạt động sản xuất và cho toàn nông hộ. 5.3. Một số phƣơng pháp mô tả điểm thông dụng 5.3.1. Mô tả sơ khởi * Phƣơng pháp đánh giá nhanh nông thôn (PRA ) Theo Trần Thanh Bé (1998), mô tả nhanh điểm nghiên cứu là phương pháp thông dụng giúp cho nhóm nghiên cứu liên ngành và HTCT hiểu được những đặc điểm nghiên cứu mà họ dự định thiết lập trong vùng mục tiêu. Nó gồm nhiều phương pháp hợp lại thành phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (PRA), thường được các nhà nghiên cứu về HTCT áp dụng rộng rãi trong việc tìm hiểu những khó khăn trở ngại trong sản xuất của một vùng hay của một nông hộ riêng rẽ. Phương pháp PRA sử dụng một loạt các kỹ thuật như sau: - Xem xét số liệu thứ cấp. - Quan sát trực tiếp, liệt kê các chỉ số quan sát. - Phỏng vấn bán cấu trúc. - Phỏng vấn người am tường vấn đề (KIP). - Sơ lược lịch sử. 53
  7. - Mặt cắt. - Lịch thời vụ. - Biểu đồ tổ chức (biểu đồ Venn). - Xếp hạng phân loại giàu nghèo. Trong các công cụ trên, có những công cụ thích hợp cho việc thu thập số liệu (quan sát trực tiếp, xem xét các nguồn thông tin có sẵn, phỏng vấn bán cấu trúc), trong khi các công cụ khác thích hợp hơn cho việc phân tích thông tin (đánh giá sáng kiến). Một số công cụ có thể dùng cho 2 mục tiêu thu thập và phân tích số liệu (xếp hạng vài loại biểu đồ). Dĩ nhiên, trong một cuộc PRA sẽ không sử dụng tất cả các kỹ thuật này. Nhóm công tác sẽ chọn lựa các kỹ thuật phù hợp mục đích và hữu dụng nhất cho từng cuộc PRA, và sẽ thử nghiệm, sáng tạo và điều chỉnh khi cần thiết. + Xem xét số liệu thứ cấp Số liệu thứ cấp là các nguốn thông tin có liên quan đến vùng hoặc vấn đề dự định sẽ làm PRA và có sẵn dưới các hình thức xuất bản hoặc không xuất bản (như các báo cáo, thống kê, bản đồ, không ảnh, phim ảnh). Dựa vào kết quả của tham khảo số liệu thứ cấp như những nghiên cứu trước đã được thực hiện, những kết quả, những số liệu về điều kiện tự nhiên, sinh học, kinh tế xã hội của một khu vực rộng lớn, các số liệu thí nghiệm, các điều tra khảo sát về thị trường ... là nguồn cung cấp thông tin rất tốt cho mô tả điểm. Các nguồn thông tin thứ cấp hình thành nền thông tin cơ bản cho việc thu thập thông tin mới. Khi biết được các thông tin đã có sẵn, nhóm công tác sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian (vì không phải thu thập những thông tin ấy nữa). Các nguồn thông tin thứ cấp cũng hữu ích để làm rõ tiêu đề của PRA và hình thành các giả thuyết (để kiểm định) bằng cách xem xét những gì đã được đề cập liên quan đến đề tài và những gì còn thiếu từ các nguồn thông tin này. Các nguồn thông tin cần được xem xét trước khi thực hiện công tác thực địa dưới dạng: - Số liệu thống kê ở cục thống kê, các công trình khoa học, các tổng kết phát triển nông nghiệp hàng năm 54
  8. - Kiến trúc hạ tầng: vị trí điểm, đường sá, giao thông. - Đặc điểm về đất đai: Tổng diện tích, diện tích canh tác, nguồn nước tưới, địa hình, loại đất, sa cấu, những mô hình canh tác chủ yếu trên từng loại đất. - Xã hội: Dân số, số lao động. Những phương tiện phục vụ sản xuất như điện, máy bơm nước, máy kéo, máy suốt lúa, cơ sở gia súc lớn. - Số liệu khí tượng thủy văn là những số liệu có thể tham khảo được ở sở thống kê ở các tỉnh. - Các loại bản đồ có thể tham khảo tại sở nông nghiệp hay sở địa chính gồm có: - Bản đồ không ảnh, địa hình, sử dụng đất đai, hiện trạng về tính thích nghi cây trồng, bản đồ sinh thái nông nghiệp. Có 4 loại bản đồ thường được sử dụng đó là: - Bản đồ mộc: để biết ranh giới hành chính và những cột mốc đặt biệt ở điểm nghiên cứu. - Bản đồ địa hình và thủy văn: được phân trên cơ sở đất và nước và dùng để mô tả điều kiện tự nhiên tại điểm nghiên cứu. - Bản đồ xã hội: để hiểu biết về phân bố quần cư và đặc điểm xã hội như tín ngưỡng, dân tộc, chợ trường học,.v.v... tại điểm nghiên cứu. - Bản đồ hiện trạng sản xuất: thông thường hiện trạng sản xuất sẽ tùy thuộc điều kiện tự nhiên và điều kiện xã hội. Đặc điểm mỗi loại cây trồng và vật nuôi sẽ thích hợp với một điều kiện tự nhiên nhất định, nhưng để chọn loại cây trồng và vật nuôi nào để canh tác sẽ tùy thuộc tình trạng kinh tế - xã hội của nông dân nơi đó. Do vậy, bốn loại bản đồ kể trên khi chồng lấp lên nhau sẽ giải lý cho chúng ta biết nông dân đang canh tác gì và tại sao nông dân làm như thế. - Các biểu đồ. - Các bảng số liệu, bảng liệt kê. - Các đoạn tóm tắt ngắn. - Bản sao các bản đồ và hình ảnh. Cần lưu ý : - Không dành quá nhiều thời gian để xem xét các số liệu thứ cấp mà nên 55
  9. dành nhiều cho công tác thực địa. - Không cả tin (biết hoài nghi) và biết phê phán. - Tìm kiếm những thông tin còn thiếu. - Không nên đem toàn bộ số liệu có từ trước vào sử dụng cho nghiên cứu mà phải biết chọn lọc, đối chiếu, quy đổi, kiểm chứng trước khi sử dụng. + Quan sát trực tiếp Một nguy cơ khi thực hiện PRA là bị đánh lừa (mất phương hướng) bởi những chuyện hoang đường, tin đồn, chuyện "ngồi lê đôi mách". Người dân thường có niềm tin về các giá trị và hoạt động của họ vốn không phù hợp với thực tế. Thường người ta hay nói về một thói quen, mà khi thăm dò những lần đã thực hiện trong quá khứ thì phát hiện rằng nó sai lầm hoặc thậm chí chưa hề được thực hiện bao giờ. Do vậy, quan sát trực tiếp các chỉ tiêu quan trọng để hỗ trợ và kiểm tra chéo các kết quả là rất cần thiết. các chỉ tiêu (vật chỉ thị) cũng có thể được dùng để tạo nên các câu hỏi tại chỗ để hỏi các thành viên cộng đồng mà không cần chuẩn bị các câu hỏi chính quy trước. Quan sát trực tiếp là quan sát một cách có hệ thống các sự vật, sự kiện, tiến trình mối quan hệ, hoặc con người và ghi nhận những gì quan sát được. Quan sát trực tiếp là một phương cách tốt để kiểm tra chéo những câu trả lời của người được phỏng vấn. Dùng bảng liệt kê các câu hỏi chủ chốt (checklist) để thực hiện các cuộc quan sát một cách có hệ thống. Các bước: - Suy nghĩ về mục tiêu và các chủ đề rộng của cuộc PRA. - Xác định các "vật chỉ thị" mà ta có thể đánh giá qua quan sát trực tiếp. - Soạn bảng kê các câu hỏi chủ chốt dựa trên các vật chỉ thị nêu trên. Các cách quan sát trực tiếp - Đo đếm: Sử dụng thước cân hoặc các dụng cụ khác để đo đếm trực tiếp tại thực địa như kích thước thửa ruộng, trọng lượng sản phẩm (vật nuôi, cây trồng) thu hoạch, khối lượng gỗ, củi. - Sử dụng vật chỉ thị: Bất kỳ sự vật, sự kiện, quá trình hay mối quan hệ có quan sát trực tiếp đều có thể được sử dụng như "vật chỉ thị" cho một vài biến 56
  10. khác khó hoặc không thể quan sát được (ví dụ như loại nhà ở là vật chỉ thị mức độ giàu nghèo của một nông hộ). Các vật chỉ thị cần có giá trị, chuyên biệt đáng tin cậy, phù hợp, nhạy cảm, có hiệu quả về mặt chi phí và thời gian. - Ghi chép: Ghi chép dưới nhiều dạng như sổ ghi chép, phiếu ghi chép, biểu đồ hình ảnh, bộ thu thập các mẫu vật (ví dụ như hoa màu bị sâu bệnh, đồ chơi). - Địa điểm quan sát: Có thể thực hiện các quan sát trực tiếp tại chợ, trên phương tiện vận chuyển (xe buýt, taxi, xe lửa), nơi làm việc, nhà ở, trạm y tế, trường lớp, thời gian trước và sau các cuộc họp quần chúng, các địa điểm giải trí, hiệu cắt tóc. - Sử dụng biểu kê câu hỏi kiểm tra. Sử dụng các biểu này trong quan sát để đảm bảo rằng việc quan sát được thực hiện một cách có hệ thống, và kết quả quan sát ở nhiều nơi có thể so sánh nhau được. - Sử dụng mọi giác quan: Khi quan sát cần vận dụng mọi giác quan (thị giác, xúc giác, thính giác, vị giác, khứu giác) và tham gia chia sẻ trong các hoạt động của cộng đồng. - Quan sát các sự kiện phức tạp: Khi quan sát các sự kiện phức tạp (như các buổi hành lễ, các sự kiện thể thao), nhóm công tác cần có kế hoạch và phân công cụ thể cho các thành viên để có nhiều "góc nhìn". Những người quan sát (thành viên nhóm công tác) khác nhau có thể tập trung vào các nhóm người khác nhau, như phụ nữ, nam giới, trẻ con, hoặc các du khách. - Quan sát y phục: Các loại y phục khác nhau có thể phản ảnh sự khác biệt về thân phận, giai cấp (tầng lớp), tình trạng giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo hoặc tư cách chính trị. LƢU Ý: Quan sát trực tiếp xứng đáng được xem là một bộ phận quan trọng của bất kỳ một cuộc PRA nào. Tuy nhiên, không nên sử dụng chỉ một công cụ quan sát trực tiếp. Những người không thành thạo (sử dụng công cụ này) và những người không quen thuộc vùng công tác có thể diễn giải sai lầm những gì quan sát được. 57
  11. + Phỏng vấn bán cấu trúc (SSI) Phỏng vấn bán cấu trúc là một trong những công cụ chính được dùng trong PRA. Đây là hình thức có hướng dẫn (được dẫn dắt qua đối thoại với người được phỏng vấn) với chỉ một vài câu hỏi được xác định trước. Phỏng vấn của PRA không sử dụng biểu điều tra nhưng cần nhất là một danh mục các câu hỏi chủ chốt như là một bảng hướng dẫn linh hoạt. Ngược lại với điều tra chính quy bằng biểu điều tra (tất cả câu hỏi đều đã được định sẵn), trong SSI nhiều câu hỏi sẽ được hình thành trong quá trình điều tra (như trong các cuộc phỏng vấn của nhà báo). Nếu trong quá trình điều tra thấy rõ ràng vài câu hỏi (định trước trong danh mục) không phù hợp thì có thể bỏ các câu hỏi ấy. Các câu hỏi thường đến qua sự đối đáp của người được phỏng vấn, việc sử dụng các phương pháp xếp hạng, việc quan sát các sự vật xung quanh, và từ kiến thức và kinh nghiệm của bản thân nhóm công tác PRA. SSI có các loại như sau: - Các loại SSI: Phỏng vấn cá nhân: Phỏng vấn cá nhân để thu các thông tin đại diện. Thông tin thu được trong các cuộc phỏng vấn cá nhân mang nhiều tính cá nhân (riêng tư) hơn phỏng vấn tập thể (nhóm), và nó có thể phát hiện những xung đột trong nội bộ cộng đồng vì người trả lời cảm thấy họ có thể nói tự do hơn khi không có sự hiện diện của những người láng giềng. Các cuộc phỏng vấn được thực hiện riêng lẻ với những người được chọn (một cách "cơ hội" - ngẫu nhiên) có mục đích. Những nông dân được chọn phỏng vấn nên bao gồm những người lãnh đạo nông dân, nông dân "đổi mới" - là những nông dân đã thử nghiệm các kỹ thuật được khuyến cáo hoặc đã phát triển thành công các kỹ thuật cải tiến, phụ nữ là thành viên gia đình hoặc chủ hộ, nông dân tiêu biểu cho những hệ thống canh tác chủ yếu trong vùng, nông dân đã từ chối (không áp dụng) các kỹ thuật mới. Phỏng vấn một số các nông dân khác nhau về cùng một chủ đề sẽ nhanh chóng phát hiện hàng loạt ý kiến, thái độ và chiến lược. Nên tránh chỉ phỏng vấn nam giới (thiên lệch). Chỉ hỏi người nông dân về kiến thức và hành vi của chính họ chứ không hỏi họ nghĩ gì về kiến thức và hành vi của người khác. 58
  12. Nhiều cộng đồng có (ít nhất một) "người gây rắc rối" luôn không đồng ý với mọi điều. Phản ứng (trả lời) của những người này có thể cung cấp những kiểm tra chéo có giá trị và giúp phát hiện những cách nhìn hữu ích mà các cuộc phỏng vấn khác không thể có được. Phỏng vấn ngẫu nhiên những người qua đường: chẳng hạn trong khi đi cũng có thể khám phá những thông tin hữu ích và những quan điểm không ngờ. Phỏng vấn người cung cấp thông tin chủ yếu: Phỏng vấn những người này để thu nhận những kiến thức đặc biệt. Người cung cấp thông tin chủ yếu (KI) là bất cứ người nào có kiến thức đặc biệt về một chủ đề riêng biệt. Người cung cấp thông tin chủ yếu (KI) là bất cứ người nào có kiến thức đặc biệt về một chủ đề riêng biệt (chẳng hạn, người buôn bán - về việc vận chuyển và tín dụng, "bà đỡ" - về các biện pháp kiểm soát sinh đẻ, nông dân - về thực tiễn canh tác). Các KI có thể trả lời các câu hỏi về kiến thức và hành vi của người khác, và đặc biệt, về các hoạt động của hệ thống (chủ đề, vấn đề) rộng hơn. Trong khi vẫn có những rủi ro do "bị gạt" bởi những câu trả lời của KI, và cần phải kiểm tra chéo, những KI là nguồn thông tin chính của PRA. Những KI giá trị là những "người ngoài cuộc" sống trong cộng đồng (như thầy cô giáo chẳng hạn) hoặc những người ở các cộng đồng láng giềng (người ngoài cuộc có hiểu biết về cộng đồng), bao gồm cả những người đã lập gia đình với (người trong) cộng đồng. Họ thường có cách nhìn khách quan hơn về công việc của cộng đồng so với chính những thành viên cộng đồng. Phỏng vấn nhóm: Phỏng vấn nhóm (GI) để thu nhận thông tin ở mức độ cộng đồng. Phỏng vấn nhóm có nhiều ưu việt: nó tạo điều kiện để tiếp xúc một lượng kiến thức rộng hơn, và cung cấp cơ hội tức thời để kiểm tra chéo thông tin thu nhận được từ những người trong nhóm. Tuy nhiên, khi nhóm quá đông (hơn 20- 25 người), việc quản lý trở nên khó khăn vì họ có khuynh hướng chia thành nhiều nhóm nhỏ hơn. Các cuộc GI không hữu ích cho việc thảo luận các thông tin nhạy cảm. Các cuộc GI cũng có thể bị sai lầm nghiêm trọng khi người dân nghĩ (hoặc tin) rằng người đặt câu hỏi có quyền quyết định phúc lợi hoặc thưởng phạt họ. GI có 59
  13. thể phát hiện ý tưởng của người dân hơn là cái thực sự tồn tại, nhưng "tam giác" về phương pháp và kiểm tra chéo thông tin có thể tìm được bức tranh toàn cảnh. Những người phỏng vấn cần khích lệ các ý kiến và quan điểm khác nhau và cố tránh việc thúc ép phát biểu. Các cuộc nói chuyện không chính thức sau buổi họp có thể rất hữu ích để thu thập thông tin từ những người không thể (do không có điều kiện hoặc không có khả năng) diễn đạt ý kiến của mình trong cuộc phỏng vấn nhóm. Các cuộc GI đòi hỏi việc chuẩn bị và lập kế hoạch của mình trong cuộc phỏng vấn nhóm. Các cuộc GI đòi hỏi việc chuẩn bọ và lập kế hoạch trước chu đáo hơn so với các cuộc phỏng vấn cá nhân. Thảo luận nhóm có trọng tâm Thảo luận nhóm có trọng tâm nhằm để thảo luận chi tiết những chủ đề đặc biệt. Một nhóm nhỏ (từ 6 đến 12 người) những người có kiến thức hoặc quan tâm về những chủ đề cần thảo luận được mời tham gia vào nhóm có trọng tâm. Một "người điều khiển" (người quản trò, người tạo thuận lợi để sự việc xảy ra) cuộc thảo luận được chọn lựa sao cho đảm bảo cuộc thảo luận ấy không đi lệch quá xa chủ đề ban đầu và không để có người nào chiếm ưu thế (nói nhiều) trong cuộc thảo luận. SSI là phỏng vấn "dẫn dắt" với chỉ một vài câu hỏi được xác định trước và các câu hỏi mới sẽ phát sinh trong quá trình phỏng vấn. Người phỏng vấn chuẩn bị một danh sách các chủ đề và câu hỏi hơn là một biểu điều tra (bao gồm tất cả những câu hỏi) cố định. - SSI đƣợc thực hiện với: - Cá nhân để thu thông tin tiêu biểu. Phỏng vấn một số cá nhân về cùng một chủ đề (ví dụ như phụ nữ, nam giới, già, trẻ, người tham gia và người không tham gia). - Người cung cấp thông tin chủ yếu để có thông tin đặc biệt. KI là những người có kiến thức đặc biệt mà người khác không có (ví dụ như các "bà đỡ" về các vấn đề sinh nở). - Nhóm để thu thông tin tổng quát ở mức độ công đồng. - Nhóm có trọng tâm để thảo luận chi tiết về một chủ đề đặc biệt. 60
  14. - Hƣớng dẫn thực hiện với SSI: - Nhóm phỏng vấn gồm từ 2 - 4 thành viên có chuyên môn khác nhau. - Bắt đầu với lời chào hỏi truyền thống và nói rõ nhóm phỏng vấn đến là để học. - Bắt đầu hỏi bằng cách đề cập đến những người hoặc những sự vật dễ thấy được. - Thực hiện phỏng vấn một cách không chính thức và xen các câu hỏi với thảo luận. - Cần (có đầu óc) cởi mở và khách quan. - Để từng thành viên chấm dứt phần hỏi của mình (không chen ngang vào). - Cẩn thận dẫn dắt đến những câu hỏi (về các vấn đề nhạy cảm). - Phân công một người ghi chép (nhưng luân phiên, không cố định suốt thời gian). - Cần chú ý đến những tín hiệu "không lời" (thái độ, cử chỉ). - Tránh những câu hỏi ngầm chứa câu trả lời và phán xét các giá trị. - Tránh những câu hỏi có thể trả lời "có" hoặc "không". - Cuộc phỏng vấn cá nhân không nên kéo dài quá 45 phút. - Cuộc phỏng vấn nhóm không nên dài quá 2 giờ. - Mỗi người phỏng vấn cần có sẵn một danh mục các chủ đề và câu hỏi chủ yếu. Những lỗi thƣờng gặp của SSI: - Không chăm chú nghe người dân nói. - Lặp lại các câu hỏi (đã hỏi và được trả lời rồi). - Giúp người được phỏng vấn đưa ra câu trả lời. - Hỏi những câu hỏi mong lung mơ hồ. - Hỏi những câu hỏi không nhạy cảm (những vấn đề người dân không quan tâm). - Không thực hiện kiểm tra chéo về một chủ đề. - Không xem xét các câu trả lời (cả tin vào mọi điều). 61
  15. - Hỏi những câu hỏi ngầm chứa câu trả lời. - Để cuộc phỏng vấn kéo dài quá lâu. - Khái quát hoá quá mức các kết quả tìm được (khái quát hoá từ quá ít thông tin). - Dựa quá nhiều vào những gì do các người khá giả, người có học vấn, người lớn tuổi, và nam giới trình bày. - Bỏ qua tất cả những gì không phù hợp với những ý tưởng và khái niệm tiền định của người phỏng vấn. - Cho quá nhiều gia trọng (xem nặng) các câu hỏi có chứa số liệu định lượng (ví dụ như đưa ra câu hỏi: Ông nuôi được bao nhiêu con dê?). - Ghi chép không hoàn chỉnh. Hƣớng dẫn chi tiết thực hiện SSI: Trước khi phỏng vấn: - Cần chuẩn bị bản thân cho cuộc phỏng vấn. Bạn cần nắm rõ chủ đề để có thể đưa ra các câu hỏi phù hợp và chứng tỏ mình quan tâm đến đối đáp của người được phỏng vấn. - Trong việc chọn lựa nhóm công tác, cần lưu ý rằng lứa tuổi, giới tính, thành phần (giai cấp), dân tộc,... của các thành viên có thể ảnh hưởng đến chất lượng thông tin thu thập được (chẳng hạn như trong một số cộng đồng xã hội các cán bộ phỏng vấn nữ thì phù hợp để phỏng vấn phụ nữ hơn là nam cán bộ). - Thiết kế một đề cương sơ khởi cho cuộc SSI. Đề cương này sẽ được sửa đổi trong quá trình công tác thực địa. Khởi đầu với những yêu cầu tổng quát về một chủ đề nào đó và bổ sung các chi tiết, sâu hơn trong quá trình thực địa. - Chọn mẫu điều tra: Chọn những người được phỏng vấn thích hợp với chủ đề của cuộc phỏng vấn dựa vào kiến thức, tuổi tác, giới tính, địa vị, dân tộc, v.v...Ghi nhận khái quát về sự phân tầng kinh tế xã hội của cộng đồng bằng cách tìm vài người quen biết cộng đồng (thành viên cộng đồng hoặc cán bộ phát triển cộng đồng) có thể vẽ một sơ đồ về cộng đồng chỉ rõ các xóm ấp và các nhóm kinh tế xã hội, dân tộc và tôn giáo khác nhau. Để có được sự phân tầng (khác biệt) chi tiết về kinh tế xã hội cần tiến hành xếp hạng giàu nghèo. Chọn 62
  16. một số người để phỏng vấn từ các nhóm khác nhau (nam, nữ, già, trẻ) dựa vào tính sẵn có (mẫu cơ hội). - Giữ ở mức độ càng nhỏ càng tốt. Nhóm công tác nhỏ (ít thành viên), sổ ghi chép nhỏ, ít sử dụng xe cộ (đi bộ càng tốt). Tránh "hội chứng thăm dò ý kiến", các nghiên cứu viên lái xe đến gặp nông dân đang làm lụng trên đồng và nhảy ra khỏi xe với sổ ghi chép trong tay sẵn sàng cho cuộc phỏng vấn. Cố gằng hoà nhập vào hoàn cảnh địa phương (nhập gia tuỳ tục) càng nhiều càng tốt, đó là chiến lược tốt nhất. - Cần lưu ý đến thời gian biểu hàng ngày của các thành viên cộng đồng. Chọn thời gian phỏng vấn sao cho không ảnh hưởng đến những hoạt động quan trọng của người được phỏng vấn. Sử dụng thời gian giữa các cuộc phỏng vấn cho các hoạt động khác của PRA (như quan sát, vẽ sơ đồ, phân tích). Trong khi phỏng vấn - Cần nhạy cảm và kính trọng dân. Lấy một cái ghế và ngồi cùng mức độ với những người được phỏng vấn, không ngồi cao hơn họ, và bắt đầu câu chuyện bằng những lời xã giao thông dụng (được chấp nhận) ở địa phương. Phải tuyệt đối tránh những cử chỉ tỏ ra coi thường hoặc không tin vào những gì các thành viên cộng đồng trình bày, như cười cợt giữa các thành viên nhóm công tác hoặc ngay cả phê bình các câu trả lời của người được phỏng vấn. Hành vi không phù hợp có thể đưa đến kết quả không chính xác. - Sử dụng cùng ngôn ngữ với người được phỏng vấn (tiếng địa phương, dân gian) để giảm bớt sự ngăn cách. Có các thành viên cộng đồng tham gia trong nhóm công tác sẽ đảm bảo là các câu hỏi phù hợp và xây dựng theo cách có ý nghĩa và nhạy cảm. Sử dụng "cách đóng vai" để tìm ra ngôn ngữ đúng. - Cuộc phỏng vấn nên là cuộc đối thoại hoặc quá trình mà các thông tin quan trọng sẽ phát triển theo câu chuyện. Chất lượng thông tin thu được tùy thuộc phần lớn vào quan hệ giữa người phỏng vấn và người cung cấp thông tin. Hãy gây niềm tin nơi họ bằng cách thể hiện sự quan tâm đến những gì quan trọng đối với họ. - Quan sát: Lưu ý quan sát các mô hình, hành vi, các dị biệt và những việc 63
  17. không bình thường. Quan sát các chỉ thị "không lời" như các biểu hiện trên mặt, sử dụng không gian (khoảng cách giữa người phỏng vấn và người được phỏng vấn), điệu bộ, âm giọng, sờ mó, và tiếp xúc bằng mắt vì chúng có thể biểu lộ phần lớn các mối quan tâm hay e ngại của người được phỏng vấn và cung cấp những đầu mối giá trị để giải thích các câu trả lời. Trong thực tế, quan sát và phỏng vấn hầu như được thực hiện chung nhau. Tuy nhiên, khi ghi chép cần phân biệt rạch ròi những gì quan sát được và những gì người được phỏng vấn trả lời để dễ dàng phân tích sự việc sau này. Điều đó có thể đạt được bằng cách chia trang giấy của sổ ghi chép thành 2 cột, một cho phần đối đáp và một cho phần quan sát. - Thu thập các cách phân loại, thuật ngữ, hình vẽ (đặc biệt của trẻ con, có thể đề nghị chúng vẽ về một chủ đề nào đó), các bài thơ, bài hát, truyện dân gian, các thành ngữ và tục ngữ của địa phương. - Câu hỏi: Có thể xây dựng các câu hỏi dựa vào: + Danh mục các chủ đề và câu hỏi chủ chốt. + Thông tin hiện có về cộng đồng (các báo cáo và thống kê). + Các bản đồ, không ảnh, và các biểu đồ khác. + Quan sát trực tiếp - Các câu hỏi: Ai? Tại sao? Cái gì? Ở đâu? Khi nào? Thế nào? khi được sử dụng đúng đắn luôn tạo ra nhiều thông tin cho người phỏng vấn PRA. Không phải tất cả 6 câu hỏi trên đều được hỏi cho bất kỳ một vấn đề đặt ra, mà người phỏng vấn cần nhớ trong đầu để đảm bảo không có vấn đề quan trọng nào bị bỏ quên. Tuy nhiên, cần hạn chế sử dụng câu hỏi "Tại sao?" vì chúng có thể đặt người cung cấp thông tin ở vào thế bị động và có thể ngưng cung cấp thông tin. - Trình bày các câu hỏi một cách ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu và hướng tới việc phát hoạ ra nhiều chi tiết rõ ràng. Không hỏi nhiều (hơn một) câu hỏi cùng lúc. - Bắt đầu cuộc phỏng vấn với 1 câu hỏi bao quát để người đối thoại có thể thảo luận với cách hiểu riêng của họ chứ không phải theo cách hiểu của người phỏng vấn. (Câu hỏi được thu hẹp sẽ xác định phạm vi đề tài và giới hạn các câu trả lời có thể có). Sau đó tiếp tục các câu hỏi đặc biệt để nắm được chi tiết 64
  18. hơn và hiểu sâu hơn. Thí dụ: sau khi hỏi "Ông bà cho biết khái quát về các loại cây trồng trong vùng và ông bà sử dụng chúng để làm gì?" tiếp tục với các câu hỏi để biết rõ hơn về việc sử dụng các loài cây trồng. Tuy nhiên đối với các đề tài nhạy cảm, hoặc trong trường hợp người được phỏng vấn rất thích một đề tài nào đó, thì cần mở đầu với câu hỏi thu hẹp vì câu hỏi bao quát có thể dẫn đến một cuộc phỏng vấn mà tất cả câu hỏi tiếp theo sẽ bị thiên lệch theo câu trả lời đầu tiên. Thí dụ nên hỏi "Hạn hán vừa qua có tác động gì đến cuộc sống của ông bà?", Ông bà đã sống như thế nào trước khi xảy ra hạn hán?" "Điều gì xảy ra cho ông bà trong lúc bị hạn hán". - Các câu hỏi cần đưa ra theo cách đòi hỏi phải giải thích (câu hỏi mở) hơn là để cho người được phỏng vấn trả lời "có" hoặc "không". - Đừng đưa ra câu hỏi có tính hướng dẫn. Các câu hỏi có tính hướng dẫn làm cho việc kiểm tra chi tiết sau này gặp nhiều khó khăn và làm cho các câu trả lời ít đáng tin cây hơn. Thí dụ: không nên hỏi "Tại sao tiêm chủng cho trẻ em là quan trọng?" mà nên hỏi "ông bà nghĩ gì về việc tiêm chủng cho trẻ em?" không nên hỏi "ông bà trồng mía vào tháng 7 phải không?" mà nên hỏi "Khi nào ông bà trồng mía?". - Tránh đưa ra kết luận đối với người được phỏng vấn hoặc tránh giúp họ hoàn thành câu của họ ngay khi họ có thể gặp khó khăn để tự trình bày. Người dân địa phương có cách riêng để diễn đạt ý tưởng của mình, cần khuyến khích họ. - Tránh dạy hay khuyên bảo người dân: tính cách này không phù hợp với PRA. Cần thay đổi quan niệm về vai trò: người phỏng vấn đến là để học cùng với người dân địa phương chứ không phải để dạy họ. - Cần hướng dẫn cẩn thận đối với các vấn đề quan trọng và nhạy cảm. Nếu cần thiết phải tiếp xúc với người cung cấp thông tin nhiều lần để tạo mối quan hệ tốt trước khi thảo luận các vấn đề nhạy cảm hơn. Chọn các chỉ tiêu đại diện cho các chỉ tiêu nhạy cảm (thí dụ: chỉ tiêu trong gia đình và ghi các nguồn thu thập là các chỉ tiêu đại diện cho số thu nhập của hộ gia đình). - Kiểm tra thông tin. Kiểm tra chéo trong khi phỏng vấn là để thu thập thông tin chi tiết và sâu sắc hơn. Để có thể kiểm tra, cần nghe rõ những gì được nói, 65
  19. hỏi thêm các thông tin hỗ trợ và chi tiết sâu hơn. Các sách lược kiểm tra khác nhau bao gồm: + Thể hiện sự quan tâm và động viên bằng gật đầu hoặc nói “đúng” “vâng” + Dừng đôi chút để người phỏng vấn bổ sung thông tin, nhưng không dừng quá lâu vì có thể gây ra lúng túng cho họ. + Nhắc lại câu hỏi theo cách khác (Ví dụ: "Các mối nguy hiểm đối với các con của ông là gì?", "Ông bà có khó khăn gì trong việc chăm sóc con cái?", "Ông bà lo lắng điều gì nhất có thể ảnh hưởng đến con cái ông bà?"). + Sử dụng các câu hỏi trung gian như: "Ông bà có thể nói thêm về điều đó không?", "Ông bà có thể cho ví dụ được không ?", "Ông bà có thể giải thích điều đó được không?". + Sử dụng các so sánh tương đồng, tương phản, hoặc thay đổi các "kiểu" thu thập thông tin: phỏng vấn nhóm, phỏng vấn cá nhân, phỏng vấn người cung cấp thông tin chủ yếu. - Cần cân nhắc câu trả lời và đừng dựa vào quá ít người cung cấp thông tin. Những cảm nhận đầu tiên thường bị sai lệch. Nên kiểm tra sự hiểu biết của mình về một vấn đề, thuật ngữ hoặc khái niệm bằng cách sử dụng hoặc mô tả lại trong các cuộc thảo luận và phỏng vấn tiếp sau. Nếu bạn hiểu sai, người cung cấp thông tin có thể sửa chữa cho bạn. - Ghi chép, ghi chép tốt, chi tiết và đầy đủ (có thể tốc ký) là yêu cầu cần thiết cho một cuộc PRA. Đánh số các câu hỏi và đánh dấu các câu trả lời một cách rõ ràng. Chỉ định một thành viên của nhóm phỏng vấn (luân phiên) làm nhiệm vụ ghi chép sẽ giúp cho các thành viên khác của nhóm tập trung vào việc phỏng vấn. Cần thiết kế công cụ ghi chép (mẫu biểu, biểu đồ) sao cho dễ dàng phân tích thông tin này. - Ghi chép những gì được nói và những gì nhóm nhìn thấy, nhưng không kết hợp sự phỏng đoán riêng. - Trong trường hợp việc ghi chép gặp khó khăn hoặc không thể thực hiện được ngay tại hiện trường thì cần nhớ lại và ghi chép nhanh một số vấn đề ngay sau khi phỏng vấn hoặc quan sát. Trong ngày (chiều, tối) sẽ ghi chép lại đầy đủ 66
  20. và chi tiết những gì đã ghi sơ bộ ở hiện trường, nếu để lâu sẽ quên mất thông tin. - Kết thúc cuộc phỏng vấn một cách lịch sự và cảm ơn người được phỏng vấn, người cung cấp thông tin. + Phỏng vấn ngƣời am tƣờng vấn đề (KIP) Đây là một trong những phương pháp thu thập thông tin từ nông dân thực hiện cho việc mô tả điểm nghiên cứu có điều tra phỏng vấn. Có nhiều cách để thu thập thông tin và phương pháp hỏi những người am hiểu sự việc (Key informant Pnel), về một chuyên đề nào đó, là một phương pháp thông dụng để tìm hiểu thêm hoặc kiểm chứng những thông tin đã có từ trước, hoặc đối chiếu những thông tin thu thập được qua điều tra phỏng vấn chính thức. * Phương pháp KIP là gì? Phương pháp thu thập thông tin từ một nhóm người am hiểu về một chuyên đề nào đó gọi tắt là KIP. KIP là phương pháp thảo luận nhóm gồm những người am hiểu về sự việc khác nhau được tập hợp trong một cuộc tọa đàm về những sự kiện, những chuyên đề, hoặc những thông tin khác trong một cộng đồng, mà cộng đồng này có thể là một xã hội, một tổ chức, hoặc là một cơ quan nào đó. * Tiến trình phương pháp KIP Thành phần địa phương tham gia. Số người lý tưởng là từ 7 đến 15 người. Những người có thể tham gia nhóm KIP bao gồm: + Nông dân. + Nhà buôn bán. + Chủ ngân hàng. + Chủ nhiệm hợp tác xã. + Chính quyền xã. + Nhân viên khuyến nông địa phương. + Thầy giáo. - Tổ chức phỏng vấn: Nhóm chuyên gia liên ngành lần lượt thảo luận, trao đổi, hỏi người tham gia về các vấn đề thuộc các lĩnh vực liên quan. Xác định lại những khó khăn trở ngại trong sản xuất hiện tại, những triển vọng trong 67
nguon tai.lieu . vn