Xem mẫu

  1. BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TRƯỜNG CAO ĐẲNG CƠ GIỚI NINH BÌNH GIÁO TRÌNH MÔN HỌC: CÔNG TÁC XàHỘI CÁ NHÂN NGHỀ: CÔNG TÁC XàHỘI TRÌNH ĐỘ: CAO ĐẲNG/TRUNG CẤP Ban hành kèm theo Quyết định số:    /QĐ­TCDCGNB ngày…….tháng….năm 2018 của Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Cơ giới Ninh Bình 1
  2. Ninh Bình, năm 2018 TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thông tin có thể được  pháp dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về  đào tạo và tham  khảo. Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử  dụng với mục đích kinh  doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm. 2
  3. MỤC LỤC Bài 1: Một số vấn đề cơ bản về công tác xã hội cá nhân 1.Lịch sử hình thành công tác xã hội cá nhân 2.Khái niệm, vị trí và mục đích của công tác xã hội cá nhân 3.Vai trò, chức năng của nhân viên xã hội trong công tác xã hội cá nhân 4.Các yếu tố cấu thành công tác xã hội cá nhân Bài 2: Kỹ năng trong công tác xã hội cá nhân 1.Kỹ năng nghe tích cực 2.Kỹ năng quan sát 3.Kỹ năng đặt câu hỏi  4.Kỹ năng thấu cảm 5.Kỹ năng phản hồi 6.Kỹ năng vấn đàm 7.Kỹ năng tham vấn 8.Kỹ năng xử lý căng thẳng thần kinh 9.Kỹ năng xử lý khủng hoảng Bài 3: Tiến trình công tác xã hội cá nhân 1.Tiếp nhận đối tượng 2.Thu thập thông tin 3.Đánh giá và xác định vấn đề của thân chủ 4.Lên kế hoạch can thiệp 5.Triển khai kế hoạch 6.Lượng giá, kêt thúc/đóng hồ sơ/chuyển giao TÀI LIỆU THAM KHẢO 3
  4. LỜI NÓI ĐẦU Công tác xã hội là một ngành khoa học  ứng dụng nhằm đào tạo những   nhân viên xã hội chuyên nghiệp trực tiếp làm việc với cá nhân, gia đình, nhóm,   cộng đồng có nhu cầu và cao hơn nữa là có khả năng tác động vào xã hội ở tầm   vĩ mô. Vì vậy, công tác xã hội ngày nay đã dược phát triển ở nhiều quốc gia trên  thế giới và tác động tích cực trong việc giải quyết các vấn đề  xã hội, góp phần   thúc đẩy sự tiến bộ và công bằng xã hội. Công tác xã hội cá nhân là một trong những phương pháp rất quan trọng  trong đào tạo nghề  Công tác xã hội. Phương pháp này đã bắt đầu được hình  thành và phát triển trên cơ  sở khoa học thông qua việc được đưa vào giảng dạy  tại các trường đại học và cao đẳng. Tuy nhiên, việc giảng dạy phương pháp này  ở  Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn do thiếu giáo trình bài giảng và tài liệu  tham khảo,.  Để kịp thời đáp ứng nhu cầu thực tiễn về đào tạo và nghiên cứu công tác  xã hội  ở  nước ta,Trường cao đẳng nghề  Cơ  giới Ninh Bình tổ  chức biên soạn  Giáo trình “Công tác xã hội cá nhân". Giáo trình này cung cấp những kiến thức  cơ  bản, nền tảng, tiến trình giúp đỡ  và các kỹ  năng tác nghiệp. Giáo trình này  bao gồm: Bài 1: Một số vấn đề cơ bản trong công tác xã hội cá nhân Bài 2: Kỹ năng trong công tác xã hội cá nhân Bài 3: Tiến trình Công tác xã hội cá nhân Giáo trình được biên soạn trên cơ  sở  tham khảo và sử  dụng tài liệu của  một số  giảng viên, nhà nghiên cứu về  công tác xã hội  ở  Việt Nam và trên thế  giới. Là giáo trình được biên soạn lần đầu tại trường, do đó không tránh khỏi  những thiếu sót, chúng tôi mong nhận được sự  đóng góp ý kiến của các đồng   nghiệp và bạn đọc để giáo trình ngày càng hoàn thiện hơn. Xin trân trọng cảm ơn!                      Nhóm biên soạn: Phạm Thanh Bằng Lê Hùng Cường Nguyễn Thị Lành 4
  5. GIÁO TRÌNH  MÔ ĐUN  Tên mô đun:Công tác xã hội cá nhân Mã mô đun: MĐ 19 Vị trí, tính chất của môđun: ­ Vị  trí: Công tác xã hội cá nhân là mô đun chuyên môn nghề  quan trọng   trong chương trình đào tạo nghề  Công tác xã hội. Mô đun này được giảng dạy  sau khi sinh viên đã được học các môn học cơ sở. ­ Tính chất: Là mô đun chuyên môn nghề bắt buộc. Mục tiêu môđun:  ­ Về kiến thức: + Nêu được khái niệm, đặc điểm công tác xã hội cá nhân; + Trình bày được các nội dung các kỹ năng cơ bản trong công tác xã hội cá  nhân; + Nêu được cách phân tích sơ đồ phả hệ, sơ đồ sinh thái, các vấn đề để phân tích ca; + Phân tích được tiến trình công tác xã hội cá nhân. ­ Về kỹ năng: + Vận dụng các kỹ  năng cơ  bản của công tác xã hội cá nhân, với các tình  huống cụ thể; + Thực hành tiến trình công tác xã hội cá nhân vào các tình huống. ­ Về năng lực tự chủ và trách nhiệm: Tôn trọng, chấp nhận, thấu cảm với  hoàn cảnh và vấn đề của đối tượng; Rèn luyện những tính tích cực trong học  tập như sự chăm chỉ, kỷ luật và tính sáng tạo. Nội dung môđun:  BÀI 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC XàHỘI CÁ NHÂN Mã bài: MĐ19­B01 Mục tiêu của bài: 5
  6. ­ Kiến thức : + Trình bày được lịch sử hình thành công tác xã hội cá nhân + Nêu được khái niệm, vị trí, mục đích và các yếu tố  cấu thành của công  tác xã hội cá nhân + Trình bày được vai trò chức năng của nhân viên xã hội trong công tác xã   hội cá nhân   ­ Kỹ năng : + Xác định được vai trò trong quá trình trợ giúp thân chủ. + Áp dụng những kiến thức trên vào trong quá trình trợ giúp thân chủ ­ Năng lực tự chủ và trách nhiệm: + Tôn trọng, đảm bảo thực hiện theo tiến trình khi làm việc với cá nhân + Tích cực phát biểu ý kiến, học hỏi và trao đổi với các thành viên trong   lớp học. Nội dung chính 1. Lịch sử hình thành công tác xã hội cá nhân Mục tiêu: ­ Trình bày được lịch sử hình thanh công tác xã hội cá nhân ­ Xác định được nhiệm vụ  của công tác xã hội cá nhân trong nghề  nghiệp và cuộc   sống. ­ Rèn luyện được tính tích cực, chủ động trong quá trình học tập và trong cuộc 1.1. Sự hình thành công tác xã hội cá nhân trên thế giới Công tác xã hội là sản phẩm của thế kỷ XX, nhưng công tác xã hội có nguồn gốc sâu xa từ  truyền thống tương thân tương ái trong mối quan hệ giữa con người với con người đến hình  thức hỗ trợ, giúp đỡ những cá nhân gặp hoàn cảnh khó khăn, éo le trong cuộc sống. Khi xã hội   ngày càng phát triển, hình thức hỗ trợ cá nhân mang tính chuyên nghiệp và khoa học hơn. Trong phần nội dung lịch sử hình thành CTXH cá nhân trên thế  giới được chi ra 3 giai đoạn:   Giai đoạn 1: Giai đoạn từ  trợ  giúp từ  thiện đến từ  thiện khoa học (đến thế  kỷ  XIX); Giai   đoạn 2: Thời kỳ hình thành cơ sở khoa học phương pháp công tác xã hội cá nhân (Từ đầu thế  kỷ XX đến những năm 50); Giai đoạn 3: Thời kỳ phát triển chuyên nghiệp (từ thập kỷ 50 của   thế kỷ XX đến nay). a. Giai đoạn từ trợ giúp từ thiện đến từ thiện khoa học (đến thế kỷ XIX) Đây là giai đoạn được coi là cột mốc đầu tiên phản ánh yêu cầu của hoạt động giúp đỡ  cá  nhân chuyên nghiệp, là tiền đề cho sự phát triển phương pháp công tác xă hội cá nhân chuyên   nghiệp sau này. 6
  7. Năm 1601, tại Anh, đạo luật Elizabeth ban hành đã tạo thành điều lệ  cho tinh thần hỗ  trợ  những người nghèo và người yếu thế. Đạo luật này cho thấy hoạt động từ thiện không chỉ bó   hẹp trong phạm vi cá nhân, tổ chức tình nguyện, hảo tâm mà cần có sự quan tâm của thiết chế  xã hội. Theo quan niệm từ  thiện  ở xã hội phương Tây trước đây cho đến những năm 60 của thế  kỷ  XIX, hoạt động hỗ trợ được hiểu dưới hình thức “ban ơn” giữa những người “cho” và người  “nhận”, phụ  thuộc vào sự  hảo tâm, vào sự  tử  tế  của người giúp đỡ. Người nhận được giúp  đỡ theo quan niệm của xã hội cũng như của những người giúp đỡ là những người “đáng” phải   chịu những vấn đề khó khăn và vấn đề của họ chính là do họ gây ra. Trong triết lý đạo Phật cũng nhấn mạnh đến hoạt động dhana có nghĩa là cho, cấp phát, tặng.  Vì vậy, người ta có thể thấy rằng Công tác xã hội trong nghĩa hạn chế của hoạt động giúp đỡ  đã có từ thời xa xưa. Công tác xã hội cá nhân là phương pháp can thiệp đầu tiên của công tác xã hội, bắt đầu hình   thành vào cuối những năm 1800. Lí luận và thực tiễn của công tác xã hội cá nhân được phát  triển và hoàn thiện trải qua một thời gian khá dài.  Mốc chính trong sự  phát triển của Công tác xã hội cá nhân xuất hiện trong bối cảnh công   nghiệp hoá và đô thị hoá ở các nước phương Tây, đặc biệt ở Anh và Hoa Kỳ. Đầu tiên Công   tác xã hội được khởi xướng từ hoạt động giúp đỡ những người nghèo thất nghiệp, trẻ em mồ  côi, người tàn tật... của các tổ chức từ thiện COS (Charity Organization Society). Phương thức   giúp đỡ  vào thời gian đầu của các tổ  chức COS là cử  người đi thăm gia đình những người  nghèo khổ, thất nghiệp, mồ côi..., tìm hiểu hoàn cảnh, nhu cầu cần giúp đỡ của họ, từ đó đưa   ra những lời khuyên, giúp đỡ tài chính, cung cấp các dịch vụ gia đình và cá nhân mà chủ yếu là   tham vấn. Những nhân viên công tác xã hội này là những người thăm viếng thân thiện, do   những người từ tâm tình nguyện, họ thực hiện những cuộc viếng thăm với nghĩa cử  từ thiện  không hề mong được thù lao tiền bạc. Thời gian sau, qua những khám phá của các nhân viên  xã hội này cho thấy rằng, nguyên nhân của khó khăn không chỉ xuất phát từ một khiếm khuyết   của cá nhân mà cả từ các điều kiện xã hội mà trong đó đối tượng sinh sống. Từ đó họ đi đến   kết luận rằng, môi trường có ảnh hưởng rất lớn đối với cá nhân. Trên cơ sở đó các tổ chức từ  thiện nói trên quyết định thực hiện cải cách xã hội để cải thiện các điều kiện vật chất và xã  hội của người lao động nghèo. Họ  đã thành công ở  nhiều khía cạnh, tuy có những cải thiện   nhưng nhiều gia đình vẫn tiếp tục phải sống trong tình trạng nghèo khổ và bần cùng. Vì vậy  họ cho rằng, các "nhà thăm viếng hữu nghị" phải làm việc gần gũi hơn nữa với từng cá nhân   và gia đình trên cơ sở trực tiếp với từng trường hợp một. Một trong những khám phá của giai   đoạn này mà các nhân viên đã phát hiện ra là sự phục hồi của đối tượng không thể thực hiện   chỉ  bằng tham vấn mà sự  giúp đỡ  tài chính cũng cần thiết cho gia đình đối tượng trong giai   đoạn thích  ứng và phục hồi. Các nhân viên xã hội này cũng hiểu rằng giúp đỡ  con người là  một quá trình phức tạp và tế nhị đòi hỏi sự hiểu biết cả về cá nhân và cả về xã hội. Họ cũng   7
  8. rút ra nhiều kinh nghiệm về cách tiếp xúc để tìm hiểu từng trường hợp, ghi chép để theo dõi  diễn biến của đối tượng, nhu cầu thông tin, phối hợp hoạt động giữa các cơ quan. Cũng từ đó   hình thành cơ sở ban đầu của phương pháp Công tác xã hội cá nhân và ý thức về vai trò nhiệm  vụ nhân viên xã hội, đạo đức nghề nghiệp... Như  vậy, các hoạt động giúp đỡ  cá nhân lúc này không chỉ  đơn thuần là ban phát những gì  người khác muốn làm từ thiện mà đã quan tâm đến nhu cầu người được hưởng lợi. Thể hiện  qua các công việc người đi giúp đỡ cá nhân đã có đánh giá hiện trạng, ghi chép phúc trình đảm   bảo làm từ thiện phù hợp với nhu cầu của người được hưởng lợi. Tại Mỹ, công tác xã hội cá nhân cũng bắt nguồn từ  nỗ  lực trợ  giúp cá nhân những người  nghèo của tổ  chức Hiệp hội Cải thiện các điều kiện cho người nghèo (CICP) thành lập vào  năm 1843. Mục tiêu của CICP là đến viếng thăm người nghèo tại gia đình họ, tư vấn và hỗ trợ  họ tìm kiếm việc làm, tạo lập cho người nghèo tính tôn trọng bản thân và tự chủ. Những phát  triển tiếp theo của các tổ  chức từ thiện (COS) vào những năm 1877 đã tạo ra bước tiến mới   trong công tác hỗ trợ cá nhân. Lúc này phương pháp làm việc đã có những thay đổi bằng việc   đưa ra cách thức điều tra xác định nhu cầu, ghi chép lại những vấn đề và sử dụng những nhà  thăm viếng gia đình tình nguyện. Thông qua những nhà thăm viếng tình nguyện đã xuất hiện  khái niệm “Từ thiện khoa học”. Những chuyến viếng thăm của những người tìn nguyện đến   các gia đình đã làm thay đổi quan niệm về người nghèo là do lười nhác, không chịu tìm việc,  để  có cách nhìn khác người nghèo là do hoàn cảnh đem lại. Kết quả  đánh giá của những   chuyến viếng thăm này đã trở thành nền tảng cho việc hình thành nguyên tắc cá biệt hóa trong  phương pháp công tác xã hội cá nhân sau này. Những năm 1870 đến năm 1890 đánh dấu bước tiến quan trọng đặt nền móng khoa học cho  công tác xã hội khi nội dung công tác xã hội đưa vào giảng dạy. Khởi đầu bằng những bài  giảng cho nhân viên xã hội tại Anh của tổ  chức Octavia Hill vào năm 1873. Vào những năm   1890 những bài giảng này tiếp tục giảng dạy tại Luân Đôn. Năm 1895 một khóa học mùa hè  được tổ chức tại Chicago dưới sự tài trợ  của Hull House. Năm 1898 “Trường Từ  thiện New   York” – trường đầu tiên  ở  Mỹ  chính thức giảng dạy về  công tác xã hội được thành lập.  Chương trình ban đầu của trường là tổ chức các khóa mùa hè và các chương trình huấn luyện  những người tình nguyện và những người thăm viếng thân thiện và chương trình đào tạo một   năm. Tuy nhiên, nếu xét chương trình đào tạo công tác xã hội chuyên nghiệp đầu tiên thì   trường giảng dạy công tác xã hội chính là Viện đào tạo Công tác xã hội được thành lập tại  Amsterdam năm 1899. Tóm lại, ở giai đoạn sơ khai ban đầu cho đến những năm 1860, hoạt động hỗ trợ cá nhân chủ  yếu dựa trên tinh thần từ  thiện, giúp đỡ  những người có khó khăn, đặc biệt là những người  nghèo và các hoạt động này mang đậm màu sắc tôn giáo và văn hóa. Tuy nhiên, ở giai đoạn từ  những năm 1860 đến cuối thế kỷ XIX đã ghi nhận sự thay đổi phương pháp hỗ trợ. Xuất phát   từ  nhu cầu cần giúp đõ cá nhân có khoa học và hiệu quả  hơn đòi hỏi những người làm công   8
  9. tác từ  thiện thay đổi phương pháp làm việc thông qua việc tiến hành đánh giá nhu cầu đối   tượng, ghi chép phúc trình. Quan trọng hơn,  ở  những năm cuối của thế  kỷ  XIX, hoạt động   huấn luyện, đào tạo cách thức cung cấp các dịch vụ xã hội đã được đưa vào trường học. Đây  là những dấu mốc quan trọng cho thấy xã hội cần có cách thức giúp đỡ chuyên nghiệp và khoa   học đối với những cá nhân yếu thế trong xã hội. b. Thời kỳ hình thành cơ sở khoa học phương pháp công tác xã hội cá nhân (từ đầu thế kỷ XX đến những  năm 50) Vào đầu thế kỷ XX, trước những nhu cầu thực tiễn đòi hỏi hoạt động giúp đỡ cá nhân cần có   phương pháp hỗ  trợ  mang tính khoa học. Hình thức giúp đỡ  theo mô hình từ  thiện khoa học   không còn phù hợp, đặc biệt là trước sự thay đổi mạnh mẽ của xã hội do hệ quả của quá trình   công nghiệp hóa, các phương pháp giúp đỡ  đã có những bước phát triển hướng tới phương   pháp công tác xã hội cá nhân chuyên nghiệp dựa trên cơ sở khoa học. Vì vậy, ở giai đoạn này,   phương pháp công tác xã hội cá nhân đã dần củng cố cơ sở khoa học của nghề công tác xã hội   chuyên nghiệp.  Năm 1905, lần đầu tiên nhân viên xã hội được chính thức tuyển dụng vào làm việc tại Bệnh   viện đa khoa Massachusetts tại Boston, Mỹ để giúp đỡ bệnh nhân giải quyết vấn đề xã hội –   hậu quả của bệnh tật gây ra. Đây là điểm khởi đầu cho việc phát triển nghề công tác xã hội,   người sử dụng phương pháp giúp đỡ cá nhân được tuyển dụng là nhân viên trả công ăn lương   như những nghề nghiệp khác thời bấy giờ. Năm 1917 Mary Richmond, nhà tiên phong đầu tiên về công tác xã hội cá nhân đã tiếp cận một  cách khoa học hơn trong lĩnh vực này. Bà cho rằng, Công tác xã hội cá nhân gồm ba mặt:  nghiên cứu xã hội, chẩn đoán và trị  liệu. Trong cuốn "chẩn đoán xã hội", Mary Richmond đã   nêu lên lý thuyết và phương pháp công tác xã hội và tập trung vào việc hướng dẫn các nhân   viên xã hội lên can thiệp vào công việc của đối tượng như thế nào, và bà đã mô tả  tiến trình  công tác xã hội theo 3 giai đoạn: 1) Thu thập những chứng cứ, dữ liệu xã hội về truyền thống   gia đình và thông tin về  vấn đề  hiện tại; 2) Xem xét yếu tố  dẫn đến chẩn đoán và 3) Xây  dựng một kế hoạch giúp đỡ có sự tham gia của đối tượng. Cũng cùng năm này, tổ chức đầu tiên của những người làm công tác xã hội đã được thành lập.   Đó là “Hiệp hội trao đổi Nhân viên xã hội quốc gia” của Mỹ với việc làm đầu tiên là đánh giá  các  ứng viên xin vào vị  trí nhân viên xã hội. (Năm 1934 Hiệp hội này đổi thành “Hiệp hội  Nhân viên xã hội y tế của Mỹ”). Năm 1919, Hiệp hội các trường đào tạo công tác xã hội tại Mỹ và Canada đã hình thành, thiết  lập tiêu chuẩn chung về giáo dục và đào tạo công tác xã hội chuyên nghiệp.    Đến năm 1920, cùng với sự  phát triển của khoa học tâm lý, đặc biệt dưới  ảnh hưởng của   những khám phá của nhà tâm lý học nổi tiếng Sigmund Freud và các học trò của ông đã cung   cấp thêm những cơ sở lý luận khoa học cho việc tìm hiểu khía cạnh tâm lý cá nhân, tâm lý xã   hội của đối tượng. Các bệnh viện đa khoa bắt đầu tuyển dụng nhân viên xã hội để  tìm hiểu  9
  10. điều kiện gia đình và hoàn cảnh sinh sống của bệnh nhân nhằm mục đích hỗ trợ chữa trị về y   khoa. Ở Châu Á, năm 1921, Trường Phụ nữ Nhật Bản đã thành lập trường quốc gia đầu tiên về an  sinh xã hội. Đây được coi là nỗ lực đưa các hoạt động dịch vụ công tác xã hội giúp đỡ những   cá nhân yếu thế trong xã hội và đảm bảo phúc lợi chung của xã hội. Vào năm 1923, bản báo cáo Tufts H.James về đào tạo công tác xã hộ đã đưa ra những thành tố  cần thiết đảm bảo chất lượng đào tạo nhân viên xã hội, nhấn mạnh đến việc đào tạo sinh   viên đem lại những thay đổi cho xã hội cũng như  cho các cá nhân trong xã hội. Sự  kiện này   đánh dấu bước tiến đảm bảo cung cấp những nhân viên xã hội có chất lượng phục vụ xã hội. Hiệp hội Nhân viên xã hội giúp đỡ  trẻ  em của Mỹ  (AAPSW) thành lập năm 1926 là xúc tác  làm tăng cường tầm quan trọng của nhân viên làm công tác xã hội cá nhân và những nhà thực   hành thực địa. Năm 1930 Virginia Robinson và Julia JessieTaft đã phát triển trường phái tiếp cận chức năng   trong công tác xã hội cá nhân kết hợp các khái niệm về  công tác xã hội và động năng tâm lý  trong tác phẩm “Một sự thay đổi tâm lý trong công tác xã hội cá nhân”. Như  vậy, phương pháp công tác xã hội cá nhân đã thay đổi hướng tiếp cận từ việc chỉ quan   tâm đến điều kiện kinh tế, xã hội đến việc chú ý đến khía cạnh tình cảm và tâm lý xã hội   trong các vấn đề  của đối tượng. Sự  chuyển biến này đánh dấu sự  phát triển của công tác xã  hội cá nhân từ nhấn mạnh các yếu tố xã hội học bên ngoài sang thái độ nhận thức xã hội của   cá nhân. Cách tiếp cận cũng có đổi mới, thay vì trước đây những người thăm viếng chủ  yếu  thu thập thông tin về hoàn cảnh của đối tượng, chỉ dành ít thời gian để đào sâu về những cảm   xúc của đối tượng thì lúc này qua việc phỏng vấn người thăm viếng dành quan tâm nhiều hơn   đến việc tìm hiểu sâu hơn về đời sống tình cảm, những hy vọng và những điểm tích cực của  đối tượng. Vì vậy, công tác xã hội cá nhân đã có thể  giải quyết được những vấn đề  về  lo  lắng và giúp đối tượng sử  dụng biện pháp giải tỏa lo lắng, cũng như  những vấn đề  về  tình   cảm, thái độ, kiềm chế xung đột và đấu tranh với những hiện tượng vô thức. Tuy nhiên, cách  tiếp cận này vẫn mang phong cách theo hình thức “chẩn trị”. Và như vậy, mối quan hệ  công   việc giữa nhân viên xã hội và đối tượng vẫn mang dáng dấp phân biệt theo chiều hướng từ  trên xuống dưới. Chiến tranh thế giới thứ nhất cũng ảnh hưởng đến Công tác xã hội cá nhân, các nhân viên xã   hội bắt đầu làm việc gần gũi với các cựu chiến binh và gia đình họ. Theo kết quả quan sát và  kinh nghiệm, họ  sử  dụng cách giải thích về  tâm lý và tâm thần học để  thay thế  các lý giải  mang tính xã hội học. Họ bắt đầu điều chỉnh phương pháp làm việc với những  người có nhu  cầu. Một số nguyên tắc hướng dẫn và tiền đề về giá trị  hình thành trong giai đoạn này. Tiếp   đó, chiến tranh thế  giới thứ  hai cũng  ảnh hưởng đến sự  thực hành công tác xã hội cá nhân.  Người ta quan sát thấy, song song với khó khăn vật chất thì khó khăn về nhân cách ngày càng  tăng. Từ đó, nhân viên xã hội xem xét lại tính chất các dịch vụ mà họ cung ứng cho các cá nhân  10
  11. có vấn đề về nhân cách. Tham vấn được tăng cường và nới rộng để bao gồm gia đình của đối   tượng. Càng ngày, người ta cũng nhận thấy  ảnh hưởng của văn hoá đối với hành vi của đối   tượng. Các nhân viên xã hội trong lĩnh vực y tế và tâm thần ngày càng cần thiết. Bước tiếp theo trong lịch sử Công tác xã hội cá nhân là việc đưa công tác xã hội vào giảng dạy   ở các trường đại học ở Hoa Kỳ và Anh. Sau đó, công tác xã hội được đưa vào giảng dạy trong   nhiều trường đại học ở Châu Âu. ở Châu Á và Châu Mỹ La Tinh, các trường công tác xã hội   mọc lên đồng loạt sau chiến tranh thế giới thứ hai. Trong đó Trung Quốc và Ấn Độ do sự gần  gũi với nước Anh nên đã du nhập ngành công tác xã hội sớm nhất ở Châu Á. Có thể  khẳng định, giai đoạn này chứng kiến mạnh mẽ  những thay đổi mang tính chất khoa  học và chuyên nghiệp của phương pháp công tác cá nhân. Mặc dù còn có những phê phán cho   rằng cách tiếp cận công tác xã hội cá nhân trong giai đoạn này chỉ  tập trung vào yếu tố  nội  tâm, chưa quan tâm đến yếu tố môi trường. Tuy nhiên, cần phải khẳng định đây là cơ  sở  tạo   tiền đề  cho sự  phát triển mạnh mẽ   ở  giai đoạn sau này của phương pháp này bên cạnh các  phương pháp công tác xã hội khác. c. Thời kỳ phát triển chuyên nghiệp (từ thập kỷ 50 của thế kỷ XX đến nay) Giai đoạn phát triển của phương pháp công tác xã hội cá nhân được đánh dấu bằng hàng loạt  những thay đổi quan trọng. Thứ  nhất là những thay đổi tính chất chuyên nghiệp về  tổ  chức   với sự hoàn thiện về tổ chức Hiệp hội nhân viên xã hội và hiệp hội giáo dục và đào tạo; tăng   cường các bậc học cao hơn trong đào tạo công tác xa hội. Thứ  hai là, sự  thay đổi phong phú  hơn về  cách thức tiếp cận hỗ  trợ  các cá nhân hướng vào những hình thức can thiệp trao   quyền, tăng cường năng lực giải quyết vấn đề  của đối tượng. Thứ  ba là, sự  phát triển rộng  khắp của nghề công tác xã hội ở nhiều nước trên thế giới. Năm 1950, lần đầu tiên tại California Mỹ, công tác xã hội được cấp phép là cơ sở độc lập đào   tạo. Năm 1952, thành lập Hội dồng đào tạo công tác xã hội, cùng với Hiệp hội các trường đào  tạo công tác xã hội đã xây dựng tiêu chuẩn cho các trường đào tạo công tác xã hội. Tiêu chuẩn   đào tạo sau này đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm định chương trình đào tạo thạc sỹ  công tác xã hội. Năm 1956, Hiệp đoàn quốc tế của Nhân viên xã hội thành lập (NASW) đã tạo   điều kiện mởi rộng hơn tầm hoạt  động và  ảnh hưởng của công tác xã hội, trong đó có   phương pháp công tác xã hội cá nhân với nhiều nước trên thế  giới. Tại  Ấn Độ, năm 1970   thành lập Hiệp hội quốc gia của nhân viên xã hội. Điều này càng khẳng định, công tác xã hội   là một khoa học ứng dụng cần thiết phục vụ cho đời sống con người. Đồng thời, sự phát triển  các bậc đào tạo sau đại học cũng được ghi nhận là những bước tiến quan trọng phát triển   nghề công tác xã hội, trong đó có sự phát triển công tác xã hội cá nhân.  Năm 1950, Nhật Bản là nước Châu Á đầu tiên đã có chương trình đào tạo thạc sỹ công tác xã   hội tại Đại học Doshisha, Kyoto. Năm 1977, Nhóm thúc đẩy Đào tạo trình độ  tiến sĩ về  công  tác xã hội được thành lập, tạo cơ hội cho những nhân viên xã hội tiến bước xa hơn trong việc   nâng cao kiến thức, kỹ năng và nghiên cứu nghề nghiệp. 11
  12. Xét về những thay đổi trong phương pháp giúp đỡ cá nhân, giai đoạn này có sự thay đổi mạnh  mẽ. Cách tiếp cận theo trường phái “chẩn trị/chẩn đoán” hay “chức năng” đã thay đổi hướng  tiếp cận. Trường phái chức năng phát triển theo cách tiếp cận tập trung cao vào định hướng  mục tiêu trong can thiệp cá nhân. Trường phái chẩn đoán tập trung hơn vào hướng tâm lý xã  hội. Các mô hình tiếp cận được phát triển theo nhiều trường phái khác nhau. Phương pháp tiếp  cận giải quyết vấn đề  (problem solving) được Perlman đưa ra tại trường Chicago vào năm  1957. Mô hình này tạo ra một sự  khác biệt trong công tác xã hội cá nhân. Phương pháp tiếp   cận giải quyết vấn đề  nhấn mạnh vào việc xác định vấn đề  đối tượng gặp phải,  phấn tích   khía cạnh chủ quan của con người trong hoàn cảnh. Trọng tâm đặt vào đối tượng và vấn đề  của họ, tìm giải pháp giải quyết vấn đề và thực hiện giải pháp. Mục tiêu của tiến trình là phát   huy cái tôi của ðối týợng trong việc giải quyết vấn ðề và huy ðộng các nguồn lực bên trong và   bên ngoài ðể hoàn thành vai trò của mình. Tiếp đến vào năm 1960, Pavlovian và Skinnerian đã đưa cách tiếp cận hành vi vào công tác xã   hội cá nhân, vì họ cho rằng hành vi của con người có thể điều chỉnh được nếu được quan sát.   Như vậy cũng có nghĩa là hành vi con người sẽ có thể học được hoặc được chỉnh sửa nếu có   điều kiện. Đây là quá trình học tập và điều chỉnh. Đến năm 1970, mô hình công tác xã hội cá nhân tập trung vào nhiệm vụ  được phát triển tại  Đại học Chicago, Mỹ. Đây là mô hình được xây dựng tập trung vào giải quyết những vấn đề  tâm lý xã hội cụ thể  của các cá nhân và gia đình. Trong giai đoạn này, phương pháp tiếp cận   thực hành tổng quát cũng được phát triển. Mô hình này cũng cung cấp những cách thực hành   tổng quát, giải quyết vấn đề dựa trên quan điểm hệ thống. Công tác xã hội cá nhân đã hoàn thiện tính chuyên nghiệp của phương pháp giúp đỡ thông qua  việc tuân thủ các quy điều đạo đức được Hiệp hội nghề nghiệp xây dựng. Lần đầu tiên quy   điều đạo đức của Hiệp hội nhân viên xã hội được biên soạn năm 1962 và được sửa đổi vào   năm 1979. Những năm 1980 và sau này, phương pháp công tác xã hội cá nhân có phát triển thêm những  cách tiếp cận mới như mô hình tiếp cận sinh thái cuộc đời của Carla B.Germain (1980) hay mô   hình tiếp cận xử lý khủng hoảng của Howard J.Parad và Naomi Golan. Bên cạnh đó các quan   điểm hệ thống, sinh thái, bình quyền, dựa trên quyền con người, dựa trên điểm mạnh của thân   chủ ...đã và đang được lồng ghép vào trong quá trình giúp đỡ cá nhân. Theo Skidmore và Thackeray (2000) dự đoán trong thiên niên kỷ  mới cách tiếp cận của công  tác xã hội cá nhân sẽ  đi theo quan điểm  triết trung có chọn lựa. Theo các tác giả  này, cách  thức tiếp cận công tác xã hội cá nhân sẽ sử dụng nhiều thành tố từ các lý thuyết khác nhau và  có sự phối kết hợp giữa các mô hình. Bên cạnh đó các kỹ năng đối phó sẽ ít tập trung vào các  vấn đề  nội tại bên trong và sẽ  sử  dụng nhiều hơn các hình thức can thiệp có thể  đo lường   được. 12
  13. Như vậy, có thể khẳng định công tác xã hội cá nhân trong giai đoạn này đã và đang phát triển  mạnh mẽ các phương pháp thực hành nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu giúp đỡ  của   những cá nhân gặp khó khăn trong xã hội. Đặc biệt là có sự  thay đổi quan điểm giúp đỡ  tập  trung vào khai thác điểm mạnh của thân chủ, giúp họ  tăng cường năng lực để  tự  giải quyết  được khó khăn của bản thân. Mối quan hệ  giữa người giúp đỡ  (nhân viên xã hội ) và người   nhận giúp đỡ  (đối tượng) là mối quan hệ  cùng hợp tác, hỗ  trợ; trong đó sự  tham gia và tự  quyết định của đối tượng được nhấn mạnh làm nên thành công của quá trình hỗ trợ. Tóm lại, để có được sự phát triển như ngày nay trong phương pháp công tác xã hội cá nhân có  sự đóng góp to lớn của những học giả, nhà nghiên cứu, nhà thực hành. Những học giả và các   nhà tiên phong có  ảnh hưởng rất lớn  đến phương pháp công tác xã hội cá nhân là: Mary  Richmond, Gordon Hamilton và Florence Hollis triển khai cách tiếp cận tâm lý xã hội; Hellen   Harris Perlman với việc gắn kết cá nhân đối tượng đối với quá trình giải quyết vấn đề; Roth  Smalley và Tybel Bloom với cách tiếp cận chức năng;William Reid và Laura Epstein với cách  tiếp cận tập trung vào nhiệm vụ; Howard J.Parad và Naomi Golan với cách tiếp cận vào chức  năng hoạt động tâm lý xã hội của một cá nhân trong giai đoạn khủng hoảng. Phương pháp   công tác xã hội cá nhân đã và đang khẳng định những lợi ích và đóng góp cho sự phát triển các  cá nhân, đặc biệt là những cá nhân yếu thế  trong xã hội. Đồng thời, công tác xã hội cá nhân   góp phần quan trọng trong phát triển nghề công tác xã hội chuyên nghiệp. 1.2. Công tác xã hội cá nhân ở Việt Nam Cho đến nay, ở Việt Nam chưa có nhiều tài liệu viết về sự phát triển của phương pháp công  tác xã hội cá nhân. Qua quá trình tìm hiểu và tổng hợp thông tin cho thấy những hoạt động   mang tính công tác xã hội bao hàm phương pháp công tác xã hội cá nhân đã và đang triển khai   trong hoạt động hỗ trợ những người yếu thế tại Việt Nam. Bắt nguồn từ văn hóa tương thân, tương ái sâu sắc của người Việt từ thời Lý Cao Tông (1176­ 1210) đã có hình thức cấp phát gạo cho người dân bị  thiên tai, lỹ  lụt. Vua Lý Thánh Tông   (1054­1072) đã đưa ra chính sách nhân đạo quan tâm đến những phạm nhân như để  họ  có hai   bữa ăn mỗi ngày và được cung cấp chăn chiếu. Đến thời kỳ  trước giai đoạn Việt Nam trở  thành thuộc địa của Pháp (trước năm 1862), nhà cầm quyền thời đó có nhấn mạnh việc đảm   bảo công bằng và bình đẳng xã hội. Những người vi phạm pháp luật bị phạt một phần được   đóng góp cho những người cần sự giúp đỡ. Bên cạnh đó, họ  còn đưa ra các văn bản pháp lý  quy định phân chia lúa gạo cho những người nghèo khó. Người giàu được yêu cầu chăm sóc và  chia sẻ một phần bữa ăn cho người nghèo. Những vấn đề xã hội khác nhau như nghiện thuốc  phiện cũng được triều đình Nhà Nguyễn đưa vào quy định xử  phạt nghiêm minh. Thời kỳ  Pháp thuộc (1862­1945: tại Miền Bắc 1862­1945; miền Nam 1862­1954), dưới ảnh hưởng của   tôn giáo, các trại chăm sóc trẻ em mồ côi, trẻ em khuyết tật, trường học dành cho trẻ câm điếc  đã được thành lập. Đây được coi là một loại hình dịch vụ  công tác xã hội cho các cá nhân bị  13
  14. tổn thương trong xã hội. Nội dung công tác xã hội trong đó phương pháp làm việc với cá nhân  được được vào giảng dạy tại Trường Công tác xã hội Caritas vào năm 1947. Trong thời kỳ  trước khi thống nhất đất nước,  ở  miền Nam, các hoạt động công tác xã hội,   trong đó có công tác xã hội cá nhân đã hình thành mang tính chuyên nghiệp và có những bước  phát triển được ghi nhận. Theo tác giả  Nguyễn Thị  Oanh (2002), công tác xã hội đã được   giảng dạy trong các chương trình ngắn hạn và 2 năm và bắt đầu hình thành chương trình cử  nhân. Công tác xã hội cá nhân đã được đưa vào thực hành giúp đỡ những người khốn khó trong  nhà thờ. Trong thời kỳ xây dựng đất nước,  ở  miền Bắc đã có nhiều hình thức giúp đõ các cá nhân có   những khó khăn như: đi thăm và tìm hiểu người nghèo để  trợ  giúp, hay hình thức đến chăm   sóc những người già neo đơn, thương bệnh binh, người khuyết tật của các thành viên thuộc  các tổ chức đoàn thể: Thanh thiếu niên, đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ,   Hội Chữ Thập đỏ, Công đoàn. Chính phủ cũng đưa ra rất nhiều các chính sách tăng cường các   hoạt động cứu trợ  xã hội như  Thông tư  202/CP và cứu trợ  đột xuất cho những đối tượng là   người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người gặp rủi ro, người bị đói; Vào những năm đầu của thập kỷ 90, sau khi Việt Nam triển khai chính sách đổi mới kinh tế,   do nhu cầu thực tiễn về phương pháp chăm sóc người yếu thế, với sự hỗ trợ của các tổ chức  quốc tế, đặc biệt là Quỹ Nhi đồng của Liên Hợp Quốc (UNICEF) và các tổ chức Cứu trợ trẻ  em như Cứu trợ em Thụy Điển, công tác xã hội cá nhân đã được đưa vào ứng dụng trong lĩnh   vực chăm sóc trẻ em. Bên cạnh đó, các phương pháp và mô hình công tác xã hội cá nhân hiện   nay mới chỉ được vào giúp đỡ phần nào cho những đối tượng trong các trung tâm, cơ sở chăm   sóc tập trung. Vì vậy, phương pháp này chưa được đầu tư nhân rộng trong hoạt động hỗ  trợ  những người dễ bị tổn thương ngoài cộng đồng. Tuy nhiên, xét về  khía cạnh đào tạo, công tác xã hội cá nhân là môn học sớm được đưa vào  đào tạo, tập huấn từ những năm đầu của thập kỷ 90, thế kỷ XX. Đầu tiên là tại trường Đại  học Mở  bán công Thành phố  Hồ  Chí Minh (nay là trường Đại học Mở  Thành phố  Hồ  Chí   Minh) và  Trường Cao đẳng Lao động – Xã hội (nay là trường Đại học Lao động – Xã hội),   nội dung công tác xã hội các nhân đã được đào tạo trong các ngành học Nghiên cứu  Phụ nữ và   Xã hội học. Đến năm 2004, học phần này được chính thức quy định trong Chương trình khung của Bộ  Giáo dục và Đào tạo ban hành kèm theo Quyết định số 35/2004/QĐ – BGD&ĐT ngày 11 tháng  10 năm 2004 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo áp dụng cho tất cả các trường trong cả  nước được phép đào tạo ngành công tác xã hội. Trong chương trình khung, công tác xã hội cá   nhân là môn học bắt buộc nằm trong khối kiến thức ngành. Thời lượng dành cho môn học  phương pháp công tác xã hội khác. Chương trình khung mới chỉnh sửa ngành công tác xã hội   trình độ đại học theo Thông tư 10/2010/TT – BGD ĐT có hiệu lực vào tháng 5 năm 2010. Mặc   dù chương trình được chỉnh theo hướng giảm thiểu tối đa thời lượng các môn học bắt buộc   14
  15. vẫn giữ thời lượng đảm bảo cho môn công tác xã hội cá nhân cả nội dung học trên lớp và nội  dung thực hành. Bên cạnh đó, với các chương trình đào tạo ngắn hạn, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn cho  cán bộ cơ sở ở những ngành, lĩnh vực an sinh xã hội và trợ giúp xã hội, chủ  đề phương pháp   công tác xã hội cá nhân đã được đưa vào là một nội dung tập huấn. Ví dụ  như trong chương   trình đào tạo cán bộ ngành lao động, thương binh và xã hội, ngành dân số, gia đình và trẻ  em,  cán bộ  hội chữ  thập đỏ, cán bộ  đoàn thanh niên, cán bộ  phụ  nữ, của các tổ  chức Liên Hợp   Quốc như Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF), tổ chức Cứu trợ trẻ em, các tổ chức phi   chính phủ quốc tế... Tuy chỉ mới ở giai đoạn ban đầu của sự phát triển nhưng cần phải khẳng định công tác xã hội   cá nhân  ở Việt Nam đã có nền tảng hình thành và đang  ở  giai đoạn phát triển ban đầu cả   ở  việc phát triển các mô hình can thiệp, trợ  giúp và đào tạo chuyên sâu. Hiện nay, công tác xã   hội cá nhân đã phần nào khẳng định tính hiệu quả trong quá trình hỗ trợ những thân chủ yếu   thế giải quyết những khó khăn về tâm lý xã hội và hòa nhập cộng đồng. Trong thời gian tới,   khi công tác xã hội trở thành một nghề chuyên môn ở Việt Nam, phương pháp công tác xã hội  cá nhân sẽ có cơ hội để phát triển mạnh mẽ hơn, chuyên nghiệp hơn, góp phần nâng cao chất   lượng cuộc sống của những người yếu thế nói riêng và chất lượng cuộc sống của mọi người   trong cộng đồng xã hội ở Việt Nam nói chung. 2. Khái niệm, vị trí và mục đích của công tác xã hội cá nhân Mục tiêu: ­ Nêu và phân tích được khái niệm, mục đích và ý nghĩa của công tác xã hội cá nhân; ­ Xác định được nhiệm vai trò của công tác xã hội cá nhân trong nghề nghiệp và cuộc   sống; ­ Rèn luyện được tính tích cực, chủ động trong quá trình học tập và trong cuộc sống. 2.1. Khái niệm công tác xã hội cá nhân Có nhiều học giả, nhiều nhà khoa học trong nước và ngoài nước đã đưa ra quan niệm khác   nhau về công tác xã hội cá nhân. Theo They Farley và các tác giả  khác (2000): công tác xã hội cá nhân là “Hệ  thống giá trị  và   phương pháp được các nhân viên xã hội chuyên nghiệp sử dụng, ở đó các khái niệm về tâm lý  xã hội, hành vi và hệ thống được chuyển thành các kỹ năng giúp đỡ  cá nhân và gia đình giải  quyết những vấn đề về nội tâm, quan hệ giữa các cá nhân, kinh tế xã hội và môi trường thông   qua các mối quan hệ “mặt đối mặt”. Như vậy, công tác xã hội cá nhân là một cách thức, quá   trình nghiệp vụ mà nhân viên xã hội sử dụng các kỹ năng kiến thức chuyên môn để  giúp đối   tượng (cá nhân hoặc gia đình) phát huy tiềm năng, tham gia tích cực vào quá trình giải quyết   vấn đề, cải thiện điều kiện sống của mình. Virgina P.Robinson (1930) đưa ra quan điểm khá tương đồng với Farley, tuy nhiên nhấn mạnh hơn  đến việc phát triển các kỹ năng giải quyết vấn đề : “Công tác xã hội cá nhân là một phương pháp  15
  16. thực hành, có hệ thống giá trị được các nhân viên xã hội chuyên nghiệp sử dụng, trong đó những khái  niệm về tâm lý xã hội, hành vi và hệ thống được chuyển thành những kỹ năng để giúp các cá nhân và   gia đình giải quyết những vấn đề nội tâm, mối quan hệ giữa người và người, vấn đề kinh tế xã hội  và vấn đề môi trường thông qua những mối quan hệ trực tiếp mặt đối mặt”. Theo tác giả Grace Mathew (1992) đã nhấn mạnh công tác xã hội cá nhân hướng đến việc giúp   đỡ con người giải quyết những khó khăn về chức năng xã hội của họ trên cơ sở mối quan hệ  nghề nghiệp một – một. Theo tác giả “Công tác xã hội cá nhân là một phương pháp giúp đỡ cá   nhân con người thông qua mối quan hệ một­một. Công tác xã hội cá nhân được các nhân viên   xã hội ở các cơ sở xã hội sử dụng để giúp đỡ những người có vấn đề về chức năng xã hội và   thực hiện chức năng xã hội”. Mối quan hệ  một­một được tác giả  nhắc đến trong khái niệm  này là mối quan hệ giữa một (nhân viên xã hội) và một (đối tượng). Theo tác giả Nguyễn Thị Oanh (1998), công tác xã hội cá nhân được định nghĩa rất ngắn gọn  và tập trung vào can thiệp những vấn đề nhân cách của đối tượng: “Công tác xã hội cá nhân là   một biện pháp can thiệp quan tâm đến những vấn đề  về  nhân cách mà một đối tượng cảm  nghiệm”. Tác giả Lê Chí Anh (2006): “Công tác xã hội cá nhân là một phương pháp giúp đỡ con người giải   quyết các vấn đề khó khăn. Nó mang tính đặc thù, khoa học và nghệ thuật. Nó giúp các cá nhân có  những vấn đề riêng tư cũng như những vấn đề bên ngoài và vấn đề môi trường. Đó là một phương  pháp giúp đỡ thông qua mối quan hệ để khai thác tài nguyên cá nhân và những tài nguyên khác nhằm  giải quyết các vấn đề. Lắng nghe, quan sát, vấn đàm và đánh giá là những công cụ chủ yếu của công   tác xã hội cá nhân. Nhờ tính năng động của mối quan hệ trong công tác xã hội cá nhân mà cá nhân thân  chủ thay đổi thái độ, suy nghĩ và hành vi của mình”. Như  vậy, có thể khái quát công tác xã hội cá nhân là phương pháp của công tác xã hội thông  qua tiến trình giúp đỡ khoa học và chuyên nghiệp, nhằm hỗ trợ cá nhân tăng cường năng lực  tự giải quyết vấn đề của mình. Trong tiến trình này, nhân viên xã hội cần biết vận dụng nền   tảng kiến thức khoa học tâm lý xã hội, xã hội học và các khoa học xã hội liên quan khác, đồng   thời sử  dụng kỹ năng, tuân thủ  đạo đức nghề  nghiệp, sát cánh cùng đối tượng, hỗ  trợ  họ  tự  giải quyết vấn đề  của bản thân và có khả  năng vượt qua những vấn đề  khác có thể  xảy ra   trong tương lai. 2.2. Vị trí của công tác xã hội cá nhân Công tác xã hội cá nhân là phương pháp công tác xã hội đầu tiên, có vị trí quan trọng và  then chốt trong nghề công tác xã hội. Ngay từ giai đoạn sơ khai cho đến hiện nay sự phát triển   của công tác xã hội cá nhân gắn liến với sự phát triển của công tác xã hội chuyên nghiệp. Với   những người làm công tác xã hội, phương pháp công tác xã hội cá nhân là phương pháp  thường được sử dụng và đem lại hiệu trực tiếp giúp cá nhân vượt qua những khó khăn để  có   cơ  hội phát triển. Bên cạnh vị  trí và tầm  ảnh hưởng quan trọng đối với an sinh của các cá  nhân, gia đình, cộng đồng và xã hội, công tác xã hội cá nhân có vai trò và tầm ảnh hưởng lớn  16
  17. tới nghề  công tác xã hội chuyên nghiệp. Có thể  nói, công tác xã hội cá nhân có vị  trí và tầm  quan trọng trong cuộc sống con người và trong sự nghiệp phát triển nghề nghiệp. Vì vậy, cần khẳng định công tác xã hội cá nhân có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt về  những đóng góp to lớn đối với sự phát triển của cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã hội. Công   tác xã hội cá nhân tin tưởng vào giá trị  vốn có và sự  quan trọng của mỗi cá nhân và sự  phụ  thuộc lẫn nhau của các cá nhân và xã hội. Công tác xã hội cá nhân giúp ngăn ngừa hay cải   thiện những điều kiện gây ra các vấn đề  làm đổ  vỡ  mối quan hệ lành mạnh giữa cá nhân và   gia đình, giữa cá nhân và những người khác hay giữa cá nhân và môi trường. Công tác xã hội  cá nhân giúp đối xác định và giải quyết vấn đề trong mối quan hệ của họ hay ít nhất là giảm  thiểu những ảnh hưởng tiêu cực. Bên cạnh đó, công tác xã hội cá nhân giúp làm lành mạnh tối   đa khả năng của các cá nhân. Có thể khẳng định, công tác xã hội cá nhân có những ý nghĩa sâu   xa đối với sự  phát triển của con người, gia đình, cộng đồng và xã hội. Một xã hội chỉ  được  đánh giá là phát triển tốt đẹp khi trong xã hội đó mỗi cá nhân có cuộc sống lành mạnh và hạnh   phúc. 2.3. Mục đích của công tác xã hội cá nhân Trong thực hành công tác xã hội, cá nhân và gia đình có vấn đề  thường là những người có   chức năng xã hội suy giảm do nhiều nguyên nhân khác nhau như tình trạng sức khoẻ, kinh tế  yếu kém, quan hệ  xã hội mâu thuẫn (quan hệ  gia đình: vợ  chồng, bố  mẹ, con cái; quan hệ  đồng nghiệp tại cơ  quan; quan hệ bạn bè; tình yêu nam nữ...). Do đó, mục đích của phương   pháp công tác xã hội cá nhân là nhằm thiết lập mối quan hệ  tốt với đối tượng, giúp cho họ  hiểu rõ về chính họ hoặc về hoàn cảnh của họ, xác định lại mối tương quan với những người   xung quanh, giúp họ tăng khả  năng huy động và vận dụng các nguồn lực của bản thân và xã   hội nhằm tạo sự thay đổi cho chính mình. Nói một cách khác, công tác xã hội cá nhân nhằm phục hồi, củng cố  và phát triển các chức  năng xã hội của cá nhân và gia đình thông qua sự tham gia tích cực của cá nhân và xã hội vào   quá trình giải quyết vấn đề. Công tác xã hội ngày nay có xu hướng mang tính tổng quát nhiều hơn, tức là nhấn mạnh đến   sức mạnh của đối tượng nhiều hơn là chỉ chú ý đến những khó khăn của họ. Vì khi đối tượng   gặp khó khăn họ thường bị rối, chỉ thấy sự yếu kém của mình và có cái nhìn tiêu cực về bản   thân cũng như bối cảnh xung quanh mình. Do vậy, chỉ khi nào họ nhìn thấy được, nhờ sự phân   tích của nhân viên xã hội, các mặt tích cực của mình và của những người xung quanh thì họ  mới có thêm động lực vượt khó và đó cùng là cơ sở để xây dựng phương hướng cho cách giải   quyết vấn đề. 3. Vai trò, chức năng của nhân viên xã hội trong công tác xã hội cá  nhân Mục tiêu: ­ Trình bày được vai trò, chức năng của nhân viên xã hội trong công tác xã hội cá nhân; 17
  18. ­ Xác định được nhiệm vụ của nhân viên xã hội chuyên nghiệp; ­ Rèn luyện được tính tích cực học tập và phẩm chất nghề nghiệp. 3.1. Vai trò, chức năng của nhà giáo dục Với chức năng và vai trò của nhà giáo dục, nhân viên xã hội trong quá trình giúp đỡ cá   nhân đối tượng sẽ cung cấp kiến thức và rèn luyện các kỹ năng để cá nhân có thể tăng cường   chức năng xã hội và ngăn ngừa vấn đề không tốt có thể  xảy ra. Ví dụ như việc nhân viên xã   hội giúp một trẻ em lang thang những kiến thức về hậu quả của tệ nạn xã hội và dạy cho em   những kỹ năng sống ngăn chặn bị lôi cuốn vào các tệ nạn xã hội. Theo Sheafor và Hoejsi (2003), để  thực hiện vai trò này nhân viên xã hội có ba chức   năng: Thứ nhất là chức năng dạy những kỹ năng sống, ví dụ như dạy đối tượng kỹ năng giải   quyết xung đột, quản lý tiền, điều chỉnh với môi trường cuộc sống mới, kỹ  năng phòng vệ  bản thân như nói “không” với tệ nạn xã hội... Thứ  hai là chức nưng thúc đẩy sự  thay đổi hành vi của đối tượng. Nhân viên xã hội  thúc đẩy sự thay đổi hành vi của đối tượng thông qua việc huấn luyện đối tượng qua sắm vai,   mô phỏng hành vi tốt và thực hiện hành vi tốt. Ví dụ như dạy đối tượng là trẻ em có hành vi   giao tiếp hiệu quả với cha, mẹ hoặc thành viên khác trong gia đình. Thứ  ba là chức năng ngăn ngừa. Nhân viên xã hội thực hiện chức năng này thông qua   việc cung cấp, trao đổi kiến thức, tài liệu liên quan giúp đối tượng nâng cao nhận thức, hiểu  rõ vấn đề  và nguyên nhân của vấn đề, từ  đó đối tượng có thể  ngăn ngừa được vấn đề  nảy  sinh. Ví dụ  như  cung cấp kiến thức và tài liệu về  quyền trẻ  em cho đối tượng là trẻ  em có   nguy cơ xâm hại để em đó hiểu em có quyền được bảo vệ an toàn và tránh bị xâm hại. 3.2. Vai trò, chức năng của nhà tham vấn Trong quá trình hỗ  trợ  cá nhân, dịch vụ  được nhân viên xã hội cung cấp nhiều nhất cho đối  tượng là tham vấn. Vì vậy, vai trò tham vấn của nhân viên xã hội trong giúp đỡ  cá nhân đối   tượng là rất quan trọng. Mục đích của tham vấn là giúp cho đối tượng nâng cao chức năng xã  hội thông qua việc để họ hiểu hơn về những cảm xúc, chỉnh sửa hành vi và học cách ứng phó  với tình huống có vấn đề. Chức năng của nhân viên xã hội trong vai trò của nhà tham vấn là đánh giá và chẩn đoán về  tâm lý xã hội; cung cấp dịch vụ  chăm sóc  ổn định cho đối tượng; Giúp đối tượng trị  liệu và  đánh giá quá trình quá trình tham vấn. Để có thể đánh giá và chẩn đoán tâm lý xã hội của đối tượng, nhân viên xã hội phải có được   sự thấu cảm và tâm tư  tình cảm, hiểu được năng lực và nguồn lực của đối tượng. Bên cạnh  đó, trong quá trình tham vấn, nhân viên xã hội thường xuyên động viên, khích lệ  đối tượng   thay đổi tích cực. Sau quá trình tham vấn, nhân viên xã hội đánh giá sự tiến bộ của đối tượng,   kết quả của quá trình giúp đỡ. 18
  19. 3.3. Vai trò, chức năng của người kết nối Nhân viên xã hội thực hiện vai trò, chức năng bằng việc là người kết nối đối tượng   với các dịch vụ và nguồn lực phù hợp. Nhân viên xã hội sẽ thực hiện ba chức năng cụ thể sau: ­ Đánh giá tình hình đối tượng: đây là hoạt động nhân viên xã hội phải đánh giá chính  xác các nhu cầu và khả  năng của đối tượng.  ­ Đánh giá nguồn lực: nhân viên xã hội tìm kiếm và đánh giá các nguồn lực sẵn có liên   quan đến những nhu cầu của đối tượng. Ví dụ nếu một trong những khó khăn của đối tượng   được đánh giá là khó khăn về tài chính, nhân viên xã hội tìm kiếm cơ hội hỗ trợ về tài chính   cho đối tượng. ­ Chuyển giao/kết nối: nhân viên xã hội liên lạc, chắp nối nguồn lực, tìm kiếm được  với nhu cầu của đối tượng. Đôi khi nhân viên xã hội phải điều chỉnh cả hai bên có nhu cầu và  bên đáp ứng nhu cầu đảm bảo phù hợp và hài hoà với lợi ích của cả hai bên. 3.4. Vai trò, chức năng của người biện hộ Vai trò và chức năng của người biện hộ (hay còn được gọi là vận động chính sách) là   việc nhân viên xã hội đứng trên quan điểm của đối tượng đảm bảo quyền lợi của đối tượng   tiếp cận với nguồn lực và dịch vụ do chính sách xã hội quy định. Vai trò, chức năng của người   biện hộ được thể hiện ở cả bên trong và bên ngoài cơ quan để có được nguồn lực đầy đủ và  phù hợp đáp  ứng nhu cầu của đối tượng.  Ở  cấp độ  vĩ mô, khi người cán bộ xã hội làm việc  với các tổ chức, cộng đồng, chính phủ, vai trò biện hộ của họ là để thay đổi chính sách và luật  pháp. Những thay đổi này nhằm cải thiện các điều kiện xã hội để đáp ứng các nhu cầu của cá  nhân đối tượng dễ  bị  tổn thương và thúc đẩy công bằng xã hội. Người cán bộ  xã hộ  có thể  thể hiện vai trò biện hộ ở cấp vi mô hơn cho cá nhân đối tượng. Ví dụ vai trò của người biện  hộ giúp đỡ cho cá nhân trẻ bị tổn thương được thực hiện ở 6 khía cạnh sau: ­ Cung cấp cho trẻ thông tin, sự ủng hộ, sự tham khảo cho việc thực hiện những dịch   vụ thích hợp. ­ Đại diện cho trẻ trước các nhà cung cấp dịch vụ. ­ Thực hiện các vấn đề của trẻ liên quan đến các cơ quan và các quan chức chính phủ. ­ Thúc đẩy các cam kết, thúc đẩy sự bình đẳng và công bằng của hệ thống các cơ quan   liên quan đến việc chăm sóc và bảo vệ trẻ. ­ Đại diện giải quyết các vấn đề  của trẻ  khi liên quan đến các  cơ  quan pháp luật và  điều tra. ­ Thực hiện các quan tâm khác với tư cách là người đại diện của trẻ. 3.5. Vai trò, chức năng của người quản lý Nhân viên xã hội thực hiện vai trò này nhằm giúp cá nhân được giúp đỡ tiếp tục nhận   được các dịch vụ  hỗ trợ thông qua việc kết nối và điều phối sử dụng các nguồn lực. Đây là   quá trình quản lý từ  đầu cho đến khi kết thúc/chuyển giao cá nhân đối tượng. Nhân viên xã   19
  20. hội thực hiện chức năng quản lý ca thông qua nhiều hoạt động được Sheafor và Hoejsi (2003)   đưa ra như sau: ­ Thu thập thông tin và đánh giá tình hình đối tượng, xác định nhu cầu của đối tượng; ­ Xây dựng kế hoạch ca đáp ứng nhu cầu của đối tượng; ­ Xác định các chương trình và nguồn cung cấp dịch vụ, thu xếp và điều phối các dịch   vụ cho đối tượng; ­ Điều hành hiệu quả kế hoạch ca và điều chỉnh kế hoạch phù hợp nhu cầu đối tượng   và tình hình thực tế; ­ Là người liên lạc và trung gian giữa các đối tượng và các nguồn lực; ­ Biện hộ của đối tượng tiếp cận được dịch vụ phù hợp. 4. Các yếu tố cấu thành công tác xã hội cá nhân 4.1. Đối tượng Đối tượng là cá nhân hoặc gia đình có vấn đề, họ đang cần sự giúp đỡ bởi nhiều lý do  khác nhau: ­ Đối tượng có những quan tâm, mong muốn, những nhu cầu không được đáp ứng và sự  suy  giảm chức năng xã hội. ­ Đối tượng ở đây là con người­ vừa là sản phẩm tự nhiên và xã hội, vừa là thực thể sinh vật   chứa đựng đầy đủ các yếu tố sinh hoá, tâm lý xã hội , văn hoá và tinh thần tôn giáo riêng của   họ. Họ  có những kinh nghiệm, mối quan hệ  xã hội, cách nhận thức đánh giá bản thân và   người khác, cách đối phó với những vấn đề và tình huống khác nhau. ­ Đối tượng đến với nhân viên xã hội hoặc cơ quan xã hội để tìm sự giúp đỡ  cho chính mình   hoặc cũng có thể là cho người khác. Họ có thể nhận thức được hoặc không nhận thức được  tình trạng cần giúp đỡ của chính họ ­ Đối tượng có thể là những người: + Cần sự hỗ trợ, giúp đỡ cho chính bản thân họ + Cần sự hỗ trợ, giúp đỡ cho cá nhân khác + Không tìm sự giúp đỡ nhưng họ lại có thể cản trở hoặc đe doạ chức năng xã hội của người   khác + Tìm sự giúp đỡ nhưng không phải cho mục đích phù hợp Vì mục đích của công tác xã hội là giúp cá nhân và gia đình hoạt động hiệu quả hơn trong các   mối quan hệ tâm lý xã hội nên nhân viên xã hội cần phải có những hiểu biết cơ bản về hành   vi con người. Con người là sản phẩm của tự  nhiên và giáo dưỡng và luôn luôn trên đà thay   đổi, bị  thúc đẩy bởi những nhu cầu cơ  bản, các hoạt động cá nhân phải chịu những  ảnh   hưởng sinh lý, tâm lý, văn hoá­ xã hội. Cho nên nhân viên xã hội cần tìm hiểu hành vi quá khứ  và dự  báo hành vi tương lai của đối tượng, tìm hiểu và giúp họ  tạo động lực, phát huy khả  năng sẵn có và tiềm tàng của đối tượng để chính đối tượng là người phải hành động để  giải   quyết vấn đề của mình và trong khả năng của mình. Nhân viên xã hội phải biết tìm hiểu, thảo  20
nguon tai.lieu . vn