Xem mẫu
- UBND TỈNH LÀO CAI
TRƯỜNG CAO ĐẲNG LÀO CAI
GIÁO TRÌNH
MÔN HỌC/MÔ ĐUN: ÂM NHẠC VIỆT NAM
NGÀNH: THANH NHẠC; ORGAN; BIỂU DIỄN NHẠC CỤ TRUYỀN THỐNG
Lưu hành nội bộ
Năm 2017
1
- BỐ BẢN QUYỀN
Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thông tin có thể được phép
dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và tham khảo.
Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh doanh
thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm.
2
- LỜI GIỚI THIỆU
Âm nhạc là một bộ phận không thể thiếu được trong đời sống tinh thần, là công cụ
đấu tranh để tồn tại và phát triển của dân tộc ta. Do những nhu cầu đó mà trong suốt bốn
ngàn năm lịch sử của mình, nhân dân ta đã sáng tạo nên hàng ngàn bài bản ca nhạc, hàng
trăm loại nhạc cụ, nhiều hình thức thể loại tác phẩm, nhiều kiểu dàn nhạc và những thang
âm điệu thức khác nhau, vừa mang những đặc điểm chung của khu vực Đông Nam Á lại
vừa đậm đà bản sắc dân tộc.
Trải qua nhiều thăng trầm lịch sử, nhân dân ta đã nghiêm túc kế thừa và gìn giữ
những tinh hoa văn hóa nghệ thuật truyền thống, bên cạnh đó luôn tích cực đấu tranh
chống lại những thủ đoạn nhằm đồng hóa nó của các thế lực xâm lược từ bên ngoài.
Đồng thời nhân dân ta luôn mở cửa đón nhận, tiếp thu và dân tộc hóa những nhân tố,
hình thức, thủ pháp, phương tiện Âm nhạc du nhập từ bên ngoài mà chúng ta cảm thấy
cần và thích hợp với ta. Từ đó bổ sung và không ngừng đổi mới để làm giàu thêm cho sự
phát triển của nền âm nhạc dân tộc nước ta.
Môn Âm nhạc Việt Nam có một ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với những học
sinh, sinh viên theo học ngành Nghệ thuật, mà nó còn có ý nghĩa quan trọng đối với tất cả
người dân Việt nam. Cuốn giáo trình này trang bị cho học sinh, sinh viên một nền tảng
kiến thức về quá trình hình thành và phát triển của nền Âm nhạc Việt Nam chúng ta, từ
đó các em có thể nắm rõ được những đặc điểm của Âm nhạc Việt Nam, đồng thời biết
chân quý, gìn giữ và phát triển nền Âm nhạc của chúng ta lên một tầm cao mới.
Cuốn giáo trình này được phân chia thành bốn chương, lần lượt đi theo các diễn
trình lịch sử của nền Âm nhạc Việt Nam.
Chương I; Nói khái quát về những đặc điểm như tính nhiều tầng nhiều lớp, tính
chất tâm linh... của Âm nhạc Việt Nam và lịch sử Âm nhạc Việt Nam.
Chương II; Âm nhạc thời đại Hùng Vương, thời đại Bắc thuộc và chống bắc thuộc
trong những buổi đầu dựng nước và giữ nước.
Chương III; Đặc điểm của Âm nhạc Việt Nam trong thời kỳ xây dựng quốc gia
phong kiến độc lập tự chủ và bảo vệ đất nước.
Chương IV; Các thể loại bài bản cũ và mới của nền Âm nhạc Việt Nam từ giữa thế
kỷ XIX đến nay.
Do quá trình tìm hiểu và thu thập tài liệu không được nhiều nên cuốn giáo trình
này không tránh mắc phải những khiếm khuyết, rất mong bạn đọc ủng hộ và chỉnh sửa
thêm để giáo trình được hoàn thiện hơn. Chân thành cảm ơn!
Lào Cai, năm 2019
Người biên soạn
Kiều Đức Thăng
3
- MỤC LỤC
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA ÂM NHẠC VIỆT NAM VÀ
LỊCH SỬ ÂM NHẠC VIỆT NAM .................................................................................9
Bài 1: Khái quát về âm nhạc Việt Nam và lịch sử âm nhạc Việt Nam ...........................9
1. Âm nhạc Việt Nam- Sản phẩm của nền Văn hóa vật chất và tâm linh ................9
2. Âm nhạc Việt Nam một nền Âm nhạc gắn liền với đặc sản địa phương và cuộc
sống lao động của các cư dân trên đất nước Việt Nam ..........................................10
3. Âm nhạc Việt Nam - một nền Âm nhạc ra đời sớm ...........................................10
4. Âm nhạc Việt Nam một nền Âm nhạc đa dân tộc ..............................................10
Bài 2. Âm nhạc Việt Nam có cơ sở là một nền âm nhạc bản địa mang truyền thống
Đông Nam Á ..............................................................................................................12
1. Vài nét về Đông Nam Á và văn hóa Đông Nam Á ............................................12
2. Âm nhạc Việt Nam trong mối liên hệ với truyền thống âm nhạc Đông Nam Á 13
3. Tính nhiều tầng nhiều lớp trong âm nhạc Việt Nam ..........................................13
CHƯƠNG II: ÂM NHẠC VIỆT NAM TRONG BUỔI ĐẦU .....................................14
DỰNG NƯỚC VÀ GIỮ NƯỚC ...................................................................................14
Bài 1: Âm nhạc thời đại Hùng Vương .......................................................................14
1. Bối cảnh chung ...................................................................................................14
2. Sinh hoạt âm nhạc thời kỳ Hùng Vương ............................................................ 14
3. Nhạc khí thời đại Hùng Vương ..........................................................................14
3.1. Nhạc khí thuộc họ màng rung .......................................................................... 15
3.2. Nhạc khí gõ thuộc họ tự thân vang .................................................................. 15
3.3. Nhạc khí hơi ..................................................................................................... 15
4. Một vài nét về âm nhạc phía nam của nước Văn Lang- Âu Lạc ........................15
5. Đặc trưng và ý nghĩa lịch sử của âm nhạc thời đại Hùng Vương ......................15
Bài 2: Âm nhạc thời kỳ bắc thuộc và chông bắc thuộc..............................................17
1. Sự diệt vong của nước Âu Lạc ...........................................................................17
2. Những mưu đồ đồng hóa của phong kiến phương Bắc và cuộc đấu tranh của nhân
dân ta .......................................................................................................................17
3. Những yếu tố mới trong lĩnh vực dân tộc học ....................................................18
4. Sự phát triển giao thông buôn bán và những mối giao lưu với người nước ngoài, sự
du nhập các tôn giáo mới và một số biến đổi trong lĩnh vực kinh tế xã hội...........18
4.1. Sự phát triển giao thông buôn bán và những mối giao lưu với người nước
ngoài ........................................................................................................................ 18
4.2. Sự du nhập các tôn giáo mới ............................................................................ 19
4.3. Một số biến đổi trong lĩnh vực kinh tế xã hội................................................... 19
5. Âm nhạc Phù Nam - Chân Lạp và Lâm Ấp - ChamPa .......................................19
4
- 5.1. Âm nhạc Phù Nam - Chân Lạp......................................................................... 19
5.2. Âm nhạc Lâm Ấp - Chanpa .............................................................................. 20
6. Vị trí của giai đoạn Bắc thuộc và chống Bắc thuộc trong lịch sử Âm nhạc Việt
Nam. ........................................................................................................................20
CHƯƠNG III: ÂM NHẠC TRONG THỜI KỲ XÂY DỰNG QUỐC GIA PHONG KIẾN
ĐỘC LẬP TỰ CHỦ VÀ BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC .......................................................... 21
Bài 1. Âm nhạc thời kỳ đầu xây dựng và củng cố quốc gia phong kiến độc lập, tự chủ
từ thế kỷ X đến thế kỷ XV .........................................................................................21
1. Bối cảnh chung và diễn biến lịch sử ...................................................................21
2. Sự phát triển phong phú của các thể loại ca nhạc dân gian ................................ 22
2.1. Dân ca sinh hoạt và dân ca nghi lễ .................................................................. 22
2.2. Sự phổ biến rộng rãi của âm nhạc phật giáo và đạo giáo ............................... 22
2.3. Các loại hình nghệ thuật sân khấu trên con đường hình thành và phát triển . 22
3. Âm nhạc cung đình ............................................................................................. 22
4. Nhạc khí và tổ chức dàn nhạc thời Lý, Trần ......................................................23
4.1. Những nhạc khí mới ......................................................................................... 23
4.2. Các tổ chức dàn nhạc ....................................................................................... 23
5. Những bước đầu tiếp thu một số yếu tố lý thuyết Âm nhạc Trung Hoa, trên con
đường xây dựng lý thuyết và hệ thống đào tạo Âm nhạc .......................................24
5.1. Khái quát .......................................................................................................... 24
5.2. Những thành tựu âm nhạc thời Hồ ................................................................... 24
Bài 2: Âm nhạc thời Lê .............................................................................................. 25
1. Bối cảnh chung và diễn trình lịch sử ..................................................................25
1.1. Tích cực chính quy hóa nền âm nhạc dân tộc, đặc biệt là âm nhạc cung đình 25
1.2. Bước suy vi của âm nhạc cung đình và sự trỗi dậy của âm nhạc dân gian ..... 25
2. Các tổ chức dàn nhạc và khí nhạc ......................................................................26
2.1. Đường thượng chi nhạc; .................................................................................. 26
2.2. Đường hạ chi nhạc; .......................................................................................... 27
2.3. Thự đồng văn và Thự nhã nhạc ........................................................................ 27
2.4. Ty giáo phường................................................................................................. 27
2.5. Dàn nhạc dùng để đệm cho hát trong cung đình ............................................. 27
3. Các thể loại ca múa múa nhạc và bài bản tiết mục .............................................28
3.1. Các thể loại ca múa .......................................................................................... 28
3.2. Bài bản tiết mục ................................................................................................ 28
4. Hát cửa đình ........................................................................................................28
5. Nghệ thuật sân khấu Chèo, Tuồng bước vào giai đoạn tác giả tác phẩm ...........29
5
- Bài 3: Âm nhạc thời Nguyễn .....................................................................................30
1. Bối cảnh lịch sử và tình chung về âm nhạc ........................................................30
2. Các tổ chức dàn nhạc và nhạc khí ......................................................................30
2.1. Dàn nhạc trong cung đình ................................................................................ 30
2.2. Các dàn nhạc lễ ngoài dân gian....................................................................... 31
3. Một số thể loại ca nhạc và bài bản ......................................................................31
3.1. Các thể loại ca nhạc cung đình ........................................................................ 31
3.2. Các bài bản ca nhạc lễ ngoài dân gian ............................................................ 31
4. Nghệ thuật sân khấu cổ truyền............................................................................32
4.1. Hát Bội ............................................................................................................. 32
4.2. Hát Chèo........................................................................................................... 32
CHƯƠNG IV: ÂM NHẠC VIỆT NAM TỪ GIỮA THẾ KỶ XIX ĐẾN NAY ...........34
Bài 1. Âm nhạc Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX đến 1945. ..........................................34
1. Quá trình phát tán và chuyển hóa của Âm nhạc Cung đình trong dân gian, đồng
thời tiếp tục Việt hóa một số yếu tố Trung Hoa du nhập trong những thế kỷ trước34
1.1. Quá trình phát tán và chuyển hóa của Âm nhạc Cung đình trong dân gian ... 34
1.2. Việt hóa một số yếu tố Trung Hoa.................................................................... 34
2. Ý nghĩa của sự lan tràn và phát triển mạnh mẽ những thể loại ca nhạc và kịch hát
cổ truyền ở phía nam nước ta trong giai đoạn này .................................................35
Bài 2. Ân mhạc Việt Nam giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến cách mạng tháng tám năm
1945. ........................................................................................................................... 37
1. Bối cảnh chung và cuộc thử lửa thứ hai ............................................................. 37
2. Nghệ thuật sân khấu Chèo, Chèo Văn minh và Chèo Cải lương .......................38
2.1. Chèo văn minh .................................................................................................. 38
2.2. Chèo Cải lương ................................................................................................ 39
3. Quá trình hình thành và phát triển của sân khấu Cải lương ............................... 40
3.1. Quá trình hình thành ........................................................................................ 40
3.2. Quá trình phát triển và phân hóa của Cải lương cho tới trước cách mạng
tháng tám ................................................................................................................. 41
3.3. Những đóng góp và ý nghĩa của sự ra đời và phát triển sân khấu Cải lương ở
nửa đầu thế kỷ XX. .................................................................................................. 42
4. Nghệ thuật sân khấu Bài Chòi ...........................................................................43
Bài 3: Phong trào sáng tác mới theo phương pháp Âu tây. Sự ra đời và phát triển của
Âm nhạc cải cách .......................................................................................................45
1. Sự truyền bá của Âm nhạc phương tây vào Việt Nam và phong trào học nhạc Âu
tây............................................................................................................................ 45
2. Phong trào sáng tác mới ra công khai và sự ra đời của Âm nhạc cải cách.........46
6
- 3. Ý nghĩa của sự hình thành Âm nhạc Cải cách ....................................................47
Bài 4. Một số khuynh hướng mới của Âm nhạc cải cách và những bước chuyển biến
của chúng ...................................................................................................................49
1. Khuynh hướng lãng mạn (1938) .........................................................................49
2. Khuynh hướng hùng ca yêu nước .......................................................................49
3. khuynh hướng cách mạng ...................................................................................50
7
- GIÁO TRÌNH MÔN HỌC
Tên môn học: Âm nhạc Việt Nam
Vị trí, tính chất, ý nghĩa và vai trò của môn học:
Vị trí: Âm nhạc Việt Nam là học phần trong khối các môn học cơ sở của chương
trình đào tạo Trung cấp Âm nhạc chuyên nghiệp – Chuyên ngành; Thanh nhạc, Organ,
Nhạc cụ truyền thống. Học phần nghiên cứu những vấn đề cơ bản về lịch sử Âm nhạc
Việt Nam.
Tính chất: Thuộc phần môn học cơ sở trong các môn học chuyên môn ngành
Ý nghĩa và vai trò của môn học; Âm nhạc Việt Nam là môn học quan trọng trong
chương trình đào tạo của các trường Âm nhạc ở Việt nam. Nó giúp cho học sinh, sinh
viên hiểu biết được lịch sử nền âm nhạc dân tộc Việt Nam qua các thời kỳ và những
thành tựu mà cha ông ta đã đạt được.
Mục tiêu của môn học:
Về kiến thức: Trang bị cho học sinh kiến thức về lịc sử Âm nhạc Việt Nam ở các
thời kỳ; Âm nhạcViệt Nam trong buổi đầu giữ nước, Âm nhạc Việt Nam thời kỳ phong
kiến, từ giữa thế kỷ XIX đến nay, một số loại hình dân ca, âm nhạc dân gian, truyền
thống Việt Nam.
Về kỹ năng: Sau khi học xong học phần này, học sinh nắm được các giai đoạn
hình thành và phát triển của nền âm nhạc Việt Nam, nhận biết được một số thể loại Âm
nhạc. Thông qua đó học sinh vận dụng và sử lý các tác phẩm khi học chuyên ngành được
tốt hơn.
Về năng lực tự chủ và trách nhiệm: Trong giờ lên lớp HSSV phải có trách nghiệm
tham gia góp ý kiến xây dựng bài, thái độ học tập nghiêm túc.
8
- CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA ÂM NHẠC VIỆT NAM
VÀ LỊCH SỬ ÂM NHẠC VIỆT NAM
Bài 1: Khái quát về âm nhạc Việt Nam và lịch sử âm nhạc Việt Nam
Mục tiêu
Kiến thức: Đặc điểm, tính chất của nền Âm nhạc Việt Nam và lịch sử Âm nhạc
Việt Nam.
Kỹ năng: Nắm được những đặc điểm, tính chất của nền Âm nhạc Việt Nam và lịch
sử Âm nhạc Việt Nam.
1. Âm nhạc Việt Nam- Sản phẩm của nền Văn hóa vật chất và tâm linh
Cư dân trên đất nước ta có một đời sống tâm linh khá phong phú, từ thủa xa xưa ở
các cư dân đã tồn tại quan niệm vạn vật hữu linh, theo đó thì mọi vật trên thế gian này
đều có hồn, có những vị thần trú ngụ. từ những vật vô tri vô giác của tự nhiên và con
người tạo nên, đến những loài động vật hay hiện tượng tự nhiên, đều tiềm ẩn các thế lực
vô hình.
Con người chết đi không có nghĩa là hoàn toàn biến mất, mà chỉ chuyển từ thế giới
hữu hình sang thế giới vô hình mà thôi. Bởi vậy họ nghĩ rằng có thể cầu xin các các siêu
linh che trở, giúp đỡ trong cuộc sống.
Sự giao tiếp và cầu xin các thế lực siêu linh, vô hình đó được thực hiện thong qua
việc tế lễ, thờ cúng. Chính vì vậy mà ở nước ta đã nảy sinh thờ thần Mặt trời, thần nước,
thành hoàng, các vị anh hùng, ông bà tổ tiên…
Tất cả những hình thức tín ngưỡng tôn giáo đó, đều tạo môi trường quan trọng cho
sự phát sinh và phát triển của Âm nhạc. Trong nhiều cuộc tế lễ, thờ cúng và sinh hoạt tôn
giáo, âm nhạc là một thành tố không thể tách rời.
Bản thân các nhạc khí cũng được con người thần thánh hóa như các sản vật của thần
linh ban cho, thậm chí nó chính là hóa thân của một vị thần nào đó. Vì vậy khi tấu những
nhạc khí này cần phải tuân thủ các quy tắc, tục lệ nhất định. Có những nhạc khí trước khi
đem ra sử dụng phải qua một lễ để xin phép thánh thần…
Mặt khác nhận thức được sức cảm hóa kỳ lạ của Âm nhạc, thể hiện qua những
truyền thuyết về một số nhạc khí, người Việt Nam cũng đã sử dụng Âm nhạc trong các
nghi thức cầu cúng của mình, như một phương tiện ngôn ngữ để giao tiếp và như một lễ
vật để dâng lên thần linh.
Những hình thức xướng tế được đọc lên một cách trang trọng với giọng ngâm nga,
cách điệu và những lối đọc ngâm kinh, được Âm nhạc hóa để trợ giúp cho việc chuyển
tải nội dung các kinh sách được dễ dàng, nhẹ nhàng hơn…nó đều là những phương thức
thể nghiệm sáng tạo những giai điệu Âm nhạc sơ khai.
Chúng khơi nguồn cho sự hình thành tư duy Âm nhạc, đồng thời cũng qua đó mà tư
duy sáng tạo, thẩm mỹ cũng như năng khiếu Âm nhạc của nhân dân ta được rèn luyện và
ngày càng phát triển.
Ngôi đình, mái Chùa, nhà Rông là những nơi thiêng liêng dành cho việc tế lễ, thờ
cúng từ suốt nhiều thế kỷ nay, đồng thời cũng là trung tâm sinh hoạt văn hóa của các
9
- cộng đồng trên đất nước ta. Bởi vậy ở đó có biết bao hình thức diễn xướng dân gian được
ra đời, đặt mầm mống cho các loại hình nghệ thuật của dân tộc, trong đó có Âm nhạc.
Trong nhiều thể loại âm nhạc gắn liền với lễ nghi phong tục, sau phần lễ thức là
phần hát đối nam nữ. Đó là nơi thi thố tài năng, đồng thời là trường rèn luyện khả năng
ứng tác nhanh nhạy về thơ ca và nhiều làn điệu âm nhạc.
2. Âm nhạc Việt Nam một nền Âm nhạc gắn liền với đặc sản địa phương và
cuộc sống lao động của các cư dân trên đất nước Việt Nam
Nhìn chung nước ta nằm ở vùng nhiệt đới gió mùa, thuận lợi cho sự sinh sôi phát
triển của các loài động thực vật, với khoảng 50% diện tích là rừng nên có nhiều loại quả
có vỏ cứng, nhiều loại tre nứa… đó là nguồn nguyên liệu quan trọng cho việc chế tác các
loại nhạc khí, từ nhạc khí hơi như (Sáo, Khèn bầu…). nhạc khí gõ như (Tơ rưng…).
Nhạc khí dây như (đàn Gông, Bro…). Ngoài ra còn những loại nhạc khí bằng đá, Sừng,
da động vật…
Cùng với cuộc sống lao động trên cạn, nhân dân ta đã sáng tạo ra nhiều loại dân ca
đa dạng và phong phú. Đặc biệt gắn với nghề nông là hàng loạt các nghi lễ có liên quan
đến Âm nhạc. Bên cạnh đó còn có nghề đánh bắt cá trên sông, biển… từ đó đã sản sinh ra
những bài dân ca trên sông nước với nhiều thể và nội dung khác nhau.
3. Âm nhạc Việt Nam - một nền Âm nhạc ra đời sớm
Ở vào vị trí có tính chất tiếp xúc giữa nhiều hệ thống địa lý và có lịch sử phát triển
địa chất lâu dài, phức tạp. Việt nam có những điều kiện thiên nhiên phong phú, thuận lợi
cho sự phát triển của loài người. Qua nhiều phát hiện về khảo cổ ở nước ta cho phép dự
đoán Việt nam có thể là một cái nôi của loài người.
Với những dấu vết khảo cổ học tìm được ở Cao Lạng, Thanh Hóa, Đồng Nai…
chúng ta biết chắc là cách đây 25 đến 30 vạn năm trên đất nước chúng ta đã có những bầy
người sinh sống. Trải qua một quá trình phát triển lâu dài, người nguyên thủy trên nước
ta đã tiến triển qua các thời đại; đá giữa, đá mới và các di tích ở hậu kỳ đá mới như văn
hóa Hạ Long, Đồng Hới, Quảng Bình, vùng núi Tây Bắc… nơi nào cũng có dấu vết con
người thuộc hậu kỳ đá mới.
Như vậy thừ thủa xa xưa trên khắp đất nước ta từ Bắc vào Nam, đã có nhiều nhóm
bộ lạc với những nền văn hóa nguyên thủy khác nhau sinh sống. cùng với nền kinh tế săn
bắt hái lượm và đánh cá, nhiều bộ lạc đã sớm bước vào sản xuất nông nghiệp nguyên
thủy, đặc biệt là nghề trồng lúa và có kỹ thuật chế tác đồ đá, đồ gốm khá cao.
Sự hiện diện của con người với trình độ phát triển khá cao trên nước ta, là điều kiện
tiên quyết cho sự ra đời cũng rất sớm của các loại hình văn hóa nghệ thuật, trong đó có
Âm nhạc, của các cư dân cổ trên đất nước Việt Nam, thủy tổ của các thành phần dân tộc
trên nước ta ngày nay.
4. Âm nhạc Việt Nam một nền Âm nhạc đa dân tộc
Âm nhạc Việt Nam - một nền Âm nhạc đa dân tộc
Việt Nam nằm ở ngã ba đường của Châu Á, cho nên ngay từ thời cổ đại ở đây đã
trở thành nơi gặp gỡ, hội tự của nhiều chủng tộc, nhiều luồng văn hóa khác nhau. Trong
quá trình cộng cư, nhiều loại hình nhân chủng mới được nảy sinh, đồng thời nhiều tộc
10
- người ở những vùng khác lại tiếp tục hòa nhập vào đại gia đình các dân tộc Việt Nam, vì
vậy nước ta là một quốc gia đa dân tộc.
Theo thống kê chính thức thì nước ta có 54 thành phần dân tộc, thuộc ba dòng ngữ
hệ đó là; Dòng Nam Á gồm các ngôn ngữ (Việt, Mường, Tày, Thái, Mèo, Dao, Môn-khơ
me…). Dòng Nam Đảo gồm (Gia rai, Ê đê, Chăm…) và dòng Hán Tạng gồm (Hoa, Sán
dìu, Hà nhì, Phù lá…)
Tất cả những điều nói trên đã quyết định tính chất đa dân tộc và tính chất phong
phú, đa dạng của nền Âm nhạc Việt nam nói chung và của một số tộc người ở nước ta nói
riêng. Chẳng hạn chỉ ở người Việt tộc chủ thể, sống ở mọi nơi trên đất nước, cũng đã
hình thành những vùng Âm nhạc với sắc thái địa phương rõ nét.
Đặc điểm này mặt khác cũng đưa ra một vấn đề cần lưu ý trong việc nghiên cứu và
đánh giá đặc điểm của Âm nhạc Việt Nam. Đó là ngoài việc dựa vào các đặc điểm và
hiện tượng Âm nhạc người Việt, còn cần phải xét tới những đặc điểm và hiện tượng Âm
nhạc của các tộc ít người khác, để tránh những đánh giá thiếu bao quát và sai lệch.
11
- Bài 2. Âm nhạc Việt Nam có cơ sở là một nền âm nhạc bản địa mang truyền
thống Đông Nam Á
Kiến thức: Những cơ sở cho biết nền Âm nhạc Việt Nam mang truyền thống Đông
Nam Á.
Kỹ năng: Biết được Âm nhạc Việt Nam là một nền Âm nhạc mang truyền thống
Đông
1. Vài nét về Đông Nam Á và văn hóa Đông Nam Á
Cư dân Đông Nam Á có một nền văn hóa khá cao, nó thể hiện ở việc tạo ra nền
nông nghiệp lúa nước, có một nền văn minh đồng thau rực rỡ… do điều kiện tự nhiên
giống nhau và sự giao lưu, tiếp xúc với các cư dân trong vùng, người Đông Nam Á đã tạo
ra một cộng đồng văn hóa với những nét đặc trưng giống nhau, mang tính truyền thống
của văn hóa Đông Nam Á nói chung.
Cư dân Đông Nam Á đã sáng tạo và truyền bá rộng rãi nghề trồng lúa nước, kết hợp
với chăn nuôi gia súc lớn, cùng với nghề làm vườn, đánh cá, đi biển. Sử dụng rộng rãi
mây tre đan… phổ biến rộng rãi quan niệm vạn vật hữu linh, tục thờ cúng tổ tiên… Chính
nhờ những điều trên mà nền văn hóa Đông Nam Á được các nước phương Tây đánh giá
cao, có thể sánh ngang với các khu vực trên thế giới.
Cũng như văn hóa, Âm nhạc của các cư dân Đông Nam Á về cơ bản có những nét
chung giống nhau. Chúng tạo nên một số đặc trưng có thể phân biệt Âm nhạc Đông Nam
Á với âm nhạc các vùng khác ở Châu Á. Đáng lưu ý nhất trong số đó là những đặc trưng
thể hiện trên các lĩnh vực; nhạc khí, thang âm và phương thức diễn tấu.
Nhạc khí Đông Nam Á nổi bật lên có ba loại nhạc khí cơ bản, có lịch sử lâu đời
như:
Trống đồng, Cồng chiêng; Sự phân bố và sử dụng rộng rãi các loại trống đồng và
một nền văn hóa cồng chiêng. Chúng có thể có quan hệ nguồn gốc với một trong những
sáng tạo cổ xưa của cư dân Đông Nam Á, gắn liền với nền văn minh đồng thau mà đỉnh
cao là nền văn hóa Đông sơn rực rỡ.
Khèn bàu; Việc sáng tạo và phổ biến rộng rãi các loại khèn Bàu với chất liệu là
những đặc sản thiên nhiên địa phương. Khèn bàu Đông Nam Á đã có lịch sử tới 3000 –
4000 năm, với những hình ảnh cụ thể đểlại trên nhiều di vật thuộc nền văn hóa Đông
Sơn.
Nhạc khí gõ; Việc sử dụng phổ biến những dàn nhạc khí gõ có phím định âm, cùng
họ với những loại đàn đá có lịch sử lâu đời.
Về thang âm, cư dân Đông Nam Á sử dụng rộng rãi các thang 5 âm, đặc biệt là
những thang 5 âm chiết từ hai hệ thống đặc sắc;
Hệ thống 7 âm đều trong phạm vi một quãng tám (tức là quãng 8 chia làm 7 phần
bằng nhau).
Hệ thống 5 âm đều trong phạm vi một quãng 8 (tức là quãng 8 chia làm 5 phần bằng
nhau).
Về phương thức hòa tấu; người Đông Nam Á thiên về hòa tấu hơn độc tấu.
12
- 2. Âm nhạc Việt Nam trong mối liên hệ với truyền thống âm nhạc Đông Nam Á
Ở Việt Nam trong âm nhạc các thành phần dân tộc chúng ta thấy có cả ba loại nhạc
khí đặc trưng nói trên.
Thang 7 âm chia đều trong phạm vi một quãng tám được sử dụng trong âm nhạc
một số tộc người ở nước ta như âm nhạc của người Khơme ở Nam Bộ. Người Việt cũng
có sử dụng một số nhạc khí có cấu tạo phím theo hệ thống bảy âm chia đều, điển hình là
cây đàn Đáy cổ truyền. Ngoài ra âm nhạc người Việt còn sử dụng một số thang hỗn hợp,
của nhiều hệ thống khác nhau, trong đó có những âm thuộc bảy âm chia đề.
Phương thức hòa tấu vẫn chiếm một vai trò quan trọng trong sinh hoạt âm nhạc
công cộng, của nhiều thành phần dân tộc trên đất nước ta.
Do hoàn cảnh lịch sử chi phối, âm nhạc của một số tộc người ở Việt Nam, đặc biệt
là âm nhạc của Việt tộc chủ thể, mang những dấu ấn khá rõ nét của ảnh hưởng âm nhạc
Trung Hoa, khiến người nước ngoài khi thoáng nhìn vào âm nhạc Việt, có khuynh hướng
sếp âm nhạc Việt Nam vào truyền thống âm nhạc Đông Á.
Xét trên bình diện âm nhạc chung của các thành phần dân tộc trong đại gia đình Vệt
Nam, với cái nhìn đồng đại cũng như lịch đại, có thể thấy rằng nền tảng cổ truyền âm
nhạc Việt Nam, chính là một nền âm nhạc bản địa mang truyền thống Đông Nam Á, với
đủ những đặc trưng cơ bản nhất của nó.
3. Tính nhiều tầng nhiều lớp trong âm nhạc Việt Nam
Do trình độ phát triển xã hội giữa các cư dân có một độ chênh lớn và do sự kế thừa
liên tục của lịch sử đã dẫn đến sự tồn tại đồng thời của những loại hình âm nhạc thuộc
nhiều trình độ phát triển khác nhau
Tính nhiều tầng ,nhiều lớp trong âm nhạc sẽ tạo ra những thận lợi và khó khăn cho
việc tìm hiểu và nghiên cứu âm nhạc việt nam
Thuận lợi là tạo điều kiện để ta tìm hiểu và nghiên cứu âm nhạc trong lịch sử
Khó khăn do âm nhạc dân gian mang đặc tính phi văn bản nên rất khó xác định về
mặt lịch đại chỉ có thể đưa ra những tiên đoán mang tính tương đối về tính cổ hơn ,hay
mới hơn mà thôi.
13
- CHƯƠNG II: ÂM NHẠC VIỆT NAM TRONG BUỔI ĐẦU
DỰNG NƯỚC VÀ GIỮ NƯỚC
Bài 1: Âm nhạc thời đại Hùng Vương
Kiến thức: Bối cảnh chung về xã hội và sự phát triển của nền Âm nhạc Việt Nam
thời đại Hùng Vương.
Kỹ năng: Nắm được bối cảnh chung về xã hội và sự phát triển của nền Âm nhạc
Việt Nam thời đại Hùng Vương.
1. Bối cảnh chung
Cách đây khoảng bốn nghìn năm, ở vùng đồng bằng và trung du bắc bộ và Bắc
trung bộ, có những nhóm tộc người gần gũi nhau về nguồn gốc, ngôn ngữ và văn hóa
sinh sống thành từng vùng. Đó là tổ tiên của tộc Việt và của các tộc anh em hiện sống ở
các miền thượng du miền Bắc nước ta ngày nay như người Mường, người tày, Thái... họ
dần quy tụ thành một cộng đồng người chặt chẽ để dựng nên một nhà nước đầu tiên trên
vùng đất này, đó là nước Văn lang với thời đại của các Vua Hùng (thời đại Hùng vương).
Thời đại Hùng vương là một khái niệm chỉ toàn bộ thời đại lịch sử kể từ khi xuất
hiện nền văn hóa khảo cổ Phùng nguyên cách đây khoảng bốn ngàn năm cho tới khi nước
Âu Lạc rơi vào tay nước Triệu Đà năm (180-179) trước công nguyên.
Trong quá trình dựng nước cư dân thời đại Hùng Vương đã tạo được cho mình
một nền văn hóa khá cao. Phong cách văn hóa, nghệ thuật của người Văn Lang - Âu Lạc
ngày càng định hình một cách vững chắc và sớm biểu lộ những sắc thái riêng độc đáo.
Hiện vật tiêu biểu cho đỉnh cao văn hóa đó là những trống đồng và những thạp đồng.
2. Sinh hoạt âm nhạc thời kỳ Hùng Vương
Cư dân Văn Lang - Âu Lạc là những người say mê Âm nhạc, yêu nghệ thuật, nó
theo sát họ trong những sinh hoạt hàng ngày, trong lao động và đặc biệt là trong những
nghi thức tế lễ, cầu cúng. Đó là niềm vui, nguồn sức mạnh cổ vũ họ trong lao động và
chiến đấu với thiên nhiên, kẻ thù, là phương tiện giao tiếp với thế giới thần linh trong trí
tưởng tưởng của họ...
Ngoài những hình thức hát đơn lẻ hoặc xướng xô gắn bó với cuộc sống hàng ngày
như ru con, hát khi lên nương làm rẫy, khi đi săn bắn hái lượm hoặc khi đi đánh cá trên
Sông, Biển... trong đó nhộn nhịp hơn cả vẫn là sinh hoạt ca nhạc gắn liền với những ngày
Hội làng và lễ nghi nông nghiệp, những ngày hội lễ nước cầu mưa, hiến tế người cho
thần nước.
Gắn với tín ngưỡng phồn thực là tục hát giao duyên trai gái trên nhà sàn, ở đó Cối,
chày và các vật dụng khác đã khéo được lợi dụng thành những nhạc khí gõ, với những
âm thanh trong đục, cao thấp khác nhau. Những cuộc hòa cồng chiêng náo nhiệt trên sàn
nhà cũng là bộ phận cua nghi thức lễ tiết nông nghiệp để cầu cho sinh sản đông đúc, mùa
màng tốt tươi.
3. Nhạc khí thời đại Hùng Vương
Căn cứ trên những hình ảnh để lại và những hiện vật khảo cổ còn tồn tại tới nay,
cho ta thấy thời đại Hùng Vương đã xuất hiện nhạc khí thuộc gần đủ các họ như; Hơi,
14
- màng rung, tự thân vang và có thể có cả nhạc khí thuộc họ dây, hoặc tiền thân của đàn
dây. Phong phú và đa dạng nhất là các nhạc khí gõ thuộc loại có màng rung và tự thân
vang, sau đó là những nhạc khí hơi.
3.1. Nhạc khí thuộc họ màng rung
3.1.1. Trống da loại lớn; Giống như trống đại trống đình của người Việt. Trống
được đặt trên giá gồm có một hoặc hai người dùng dùi để đánh.
3.1.2. Trống da loại nhỏ; Giống như một số loại trống nhỏ của người Việt, trống
có giá đỡ do một người dùng tay vỗ lên mặt trống.
3.2. Nhạc khí gõ thuộc họ tự thân vang
3.2.1. Trống đồng; Dùng đơn lẻ từ hai đến bốn chiếc, mỗi chiếc do một người
đánh
3.2.2. Cồng chiêng; Thường được sáp xếp thành hai dàn, mỗi dàn từ sáu đến tám
chiếc do một người đánh.
3.2.3. Chuông nhạc; Có hai loại
Loại nhỏ có quả lắc ở trong, thường dùng từng chùm từ hai đến năm chiếc
Loại lớn không có quả lắc ở trong, tạo ra âm thanh bằng cách gõ
3.3. Nhạc khí hơi
3.3.1. Khèn bè; Là loại nhạc khí hơi phổ biến và tiêu biểu nhất. Có hai loại vòi
ngắn và vòi dài, giống như của người H’Mông.
3.3.2. Tù và; Bằng ốc biển hoặc sừng Trâu và có thể có một số loại nhạc khí thổi
khác...
4. Một vài nét về âm nhạc phía nam của nước Văn Lang- Âu Lạc
Từ thời đại đồ đá, trên khắp đất nước ta từ Bắc tới Nam đều có con người sinh
sống. tới thời kỳ đồ đồng thì các tỉnh ở phía Nam nước Văn Lang - Âu Lạc cũng xuất
hiện một nền văn hóa khảo cổkhông kém phần rực rỡ, đó là nền văn hóa Sa huỳnh.
Trong sự gần gũi về văn hóa vật chất nói chung biểu hiện trên các di vật khảo cổ
học , về mặt Âm nhạc cũng có thể có những nét chung tương đồng giữa âm nhạc của cư
dân hai vùng. Nó dược thể hiện qua những hình ảnh để lại trên mặt trống đồng và một số
di vật khác của văn hóa đông sơn. Tuy nhiên trong văn hóa âm nhạc của các cư dân phía
nam của nước Văn Lang - Âu Lạc có một loại nhạc khí đặc sắc, đó là loại đàn gõ bằng
phím định âm mà tiêu biểu là những bộ đàn đá có âm thanh giống như nhạc khí bằng kim
loại.
Đàn đá là một trong những nhạc khí đặc sắc của các tộc người ở các tỉnh phía Nam
nước ta, bên cạnh trống đồng của cư dân Văn Lang - Âu Lạc ở phía Bắc. Nó góp phần
làm phong phú thên cho truyền thống Âm nhạc lâu đời của Việt Nam từ những thời xa
xưa của dân tộc.
5. Đặc trưng và ý nghĩa lịch sử của âm nhạc thời đại Hùng Vương
Sự phát triển phong phú của các nhạc khí gõ so với những loại nhạc khí khác ở
thời đại Hùng vương thể hiện một số đặc điểm Âm nhạc của tổ tiên chúng ta thời xưa
15
- như; Ưa thích tiết tấu và các nhạc khí gõ. Chính từ đây nổi lên vai trò quan trọng có thể là
chủ đạo trong sinh hoạt âm nhạc thời bấy giờ.
Sự có mặt của Khèn bàu cũng cho phép ta dự đoán rằng trong âm nhạc của người
Việt cổ không chỉ có nhạc đơn âm, mà đã xuất hiện hình thức nhạc đa âm ở dạng đơn
giản theo kiểu giai điệu với bè trì tục.
Đây là thời đại mở nước và dựng nước, thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc, còn gọi chung
là thời đại Hùng Vương có một ý nghĩa lịch sử quan trọng, một ảnh hưởng sâu xa đối với
toàn bộ lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung cũng như toàn bộ lịch sử âm nhạc Việt Nam
nói riêng.
Đây chính là cơ sở, nền tảng trong sự phát triển của âm nhạc dân tộc Việt Nam trong
những giai đoạn kế tiếp và nó thể hiện sức bền vững trước mọi thăng trầm của lịch sử dân
tộc, để ngày càng được bổ sung phát triển duy trì cho tới ngày nay. Vai trò quan trọng
của nhạc khí gõ vẫn được giữ lại trong sinh hoạt âm nhạc hiện tại của người việt cũng
như của các tộc khác trên đất nước ta ngày nay.
16
- Bài 2: Âm nhạc thời kỳ bắc thuộc và chông bắc thuộc
Kiến thức: Sự thay đổi về xã hội và những chuyển biến của nền Âm nhạc Việt Nam
thời kỳ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc
Kỹ năng: Nắm được thay đổi về xã hội và những chuyển biến của nền Âm nhạc
Việt Nam thời kỳ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc
1. Sự diệt vong của nước Âu Lạc
Năm 207 trước công nguyên, một quan lại nhà Tần là Triệu Đà, nổi lên cát cứ ở
phía nam Trung Quốc, tựu xưng vương lập lên nước Nam Việt, ít lâu sau khi nhà Hán lên
thay nhà Tần, Triệu Đà lại quy phục nhà Hán. Sau nhiều lần thất bại sau các cuộc tấn
công Âu Lạc, Triệu Đà phải dùng tới mưu mô xảo quyệt, đó là cho con trai sang làm rể
Âu Lạc, nhân đó dò xét tình hình, học phép chế và phá nỏ của người Âu Lạc rồi trốn về
nước.
Vì vậy khoảng năm 179 trước công nguyên chúng đã chiếm được Âu Lạc, từ đây
đất nước ta bước vào một giai đoạn tăm tối.
Sau khi bị sáp nhập vào nước Nam việt của Triệu Đà, năm 111 trước công nguyên
Âu Lạc bị chuyển sang tay nhà Hán, khi mà Nam Việt bị nhà Hán diệt. Thời kỳ bắc thuộc
trong lịch sử nước ta bắt đầu từ đó và kéo dài suốt hơn một nghìn năm.
Trong đêm dài Bắc thuộc, những thời kỳ dành lại được độc lập chỉ là những giai
đoạn ngắn ngủi. Việc xây dựng và phát triển văn hóa nghệ thuật dân tộc, do đó bị vấp
phải những trở lực vô cùng lớn lao.
2. Những mưu đồ đồng hóa của phong kiến phương Bắc và cuộc đấu tranh của
nhân dân ta
Đặt ách đô hộ trên nước ta, các triều đại Trung Hoa, không ngừng tìm mọi cách
đồng hóa dân tộc ta, nhằm xóa bỏ ý thức dân tộc của nhân dân Âu Lạc, hòng biến nước ta
thành một quận huyện của chúng. Hơn một nghìn năm đó là những cuộc thử thách đầu
tiên, dai dẳng và ác liệt đối với sự sống còn của đất nước, cũng như của nền văn hóa nghệ
thuật, trong đó có âm nhạc dân tộc.
Một cuộc đấu tranh bền bỉ đã được tiến hành, nhằm bảo vệ lãnh thổ, giành lại nền
độc lập tự do cho đất nước cũng như bảo vệ những truyền thống, phong tục tập quán
cùng những di sản văn hóa tinh thần của tổ tiên. Cuộc đấu tranh đó đã để lại dấu ấn
không phai mờ, không chỉ ở các đền thờ, miếu thờ các vị anh hùng như: Các vua Hùng,
Thánh gióng, Tản Viên, hai bà Trưng, Triệu Quang Phục… mà nó còn khắc sâu trong ký
ức nhân dân về một dân tộc anh hùng.
Nhờ cuộc đấu tranh bền bỉ nói trên, sau cuộc thử lửa đầu tiên của một nghìn năm
Bắc thuộc, nhân dân ta không bị Hán hóa. Nền văn hóa Đông Sơn dường như bị giải thể,
song ý thức dân tộc cùng với tiếng Việt, những phong tục tập quán riêng và những nét
đặc sắc trong nền văn hóa nghệ thuật tryền thống, từ thời mới dựng nước vẫn được duy
trì và lưu hành mãi về sau.
Bên cạnh sự kiên trì bảo vệ những tinh hoa dân tộc, nhân dân ta còn biết tiếp thu
những cái hay, cái đẹp trong các nền văn hóa khác và luôn thích ứng một cách linh hoạt.
17
- Nhờ vậy nền văn hóa âm nhạc nước ta đã không ngừng phát triển, ngày càng phong phú
trên cơ sở vững chắc của những tinh hoa văn hóa, âm nhạc cổ truyền.
3. Những yếu tố mới trong lĩnh vực dân tộc học
Sự di cư của những cộng đồng tộc người mới tới Bắc Việt Nam.
Những cuộc di cư liên tục của sĩ phu, địa chủ và dân Hán sang giao châu từ cuối đời
đông Hán, nhất là từ cuối thế kỷ thứ II đã tạo điều kiện cho người hán và người Việt sống
lẫn nhau. Do đó nó dẫn tới một quá trình chung hòa và chuyển hóa lẫn nhau của hai
phương thức văn hóa Hán, Việt.
Âm nhạc và những nhạc cụ mà người Hán sử dụng, qua đó cũng dần dần được
truyền sang nước ta, nhạc khí mới xuất hiện đó là cặp chũm chọe.
Trong quá trình cộng cư với người Việt trên đất nước ta, các tộc người này cũng
dần dần gia nhập đại gia đình các dân tộc Việt Nam và làm phong phú thêm cho nền văn
hóa nghệ thuật âm nhạc Việt Nam bằng những bản sắc văn hóa nghệ thuật âm nhạc riêng
của mình.
Quá trình tách riêng của hai cộng đồng tộc người Việt, Mường và những biến đổi
trong ngôn ngữ Việt – Mường.
Trong quá trình sống xen kẽ với người Hán, một bộ phận tộc người Việt cổ có nhiều
tiếp xúc với văn hóa va ngôn ngữ Hán, vì vậy có nhiều điều kiện phát triển kinh tế, xã
hội thuân lợi và nhanh hơn. Tình hình đó đã dẫn tới sự tách ra dần dần của hai khối cộng
đồng tộc người Việt và Mường, từ một khối cộng đồng Việt – Mường chung.
Sự hình thành những thanh điệu chắc chắn có nhiều ảnh hưởng, đến sự phát triển
các giai điệu dân ca người Việt. Dựa vao những nghiên cứu có thể giả định, sự tồn tại của
những kết cấu ba cao độ trong dân ca người Việt. Những kết cấu đó, nó gắn chặt với quy
luật phân bố ba thanh điệu chính trong tiếng Việt, nó đóng vai trò nòng cốt cho sự hình
hình thành các kiểu kết cấu giai điệu phức tạp hơn, ở dân ca người Việt rất lâu về sau.
4. Sự phát triển giao thông buôn bán và những mối giao lưu với người nước
ngoài, sự du nhập các tôn giáo mới và một số biến đổi trong lĩnh vực kinh tế xã hội.
4.1. Sự phát triển giao thông buôn bán và những mối giao lưu với người nước
ngoài
Trong thời kỳ Bắc thuộc việc giao thông thủy bộ, trong đó có đường biển được mở
mang hươn trước. Từ nước ta có đường thủy bộ gắn liền với Trung hoa, rồi từ đó đến
trung Á, Ấn Độ… ở phía nam cũng có những con đường bộ sang Chăm Pa. Trên mặt
biển, đường hàng hải quốc tế qu nước ta trở nên phồn thịnh, các nước phương Nam và
phương Tây, muốn giao thương với Trung hoa đều phải đi theo con đường giao chỉ.
Thuyền buôn các nước đã cập bến nước ta, tại các thị trấn lớn ở nước ta bấy giờ như
Long Biên… đã có nhiều ngoại kiều tới trú ngụ, buôn bán và truyền đạo. Ngoài người
Hán còn có người Hồ, khơ me…
Sự phát triển giao thông buôn bán, đặc biệt là buôn bán với nước ngoài như Trung
Á, đặc biệt là Ấn Độ và các nước Nam Hải, đã tạo điều kiện cho sự nảy nở những mối
tiếp xúc văn hóa với những nước xa hơn.
18
- Sự tiếp xúc đó đã để lại một dấu ấn rõ nét trong một số di vật khảo cổ (tượng đèn)
thuộc thời kỳ này. Nó cũng sẽ để lại dấu ấn khá rõ nét trong âm nhạc nước ta ở thời kỳ
tiếp sau.
4.2. Sự du nhập các tôn giáo mới
Từ đời Hán, đạo Khổng, đạo Lão, đạo Phật dần dần du nhập vào nước ta ngày càng
mạnh. Phật giáo từ Ấn Độ, Trung Quốc truyền sang mang theo những tư tưởng bình
đẳng, bác ái phù hợp với tâm hồn người Việt cổ.
Sự du nhập của Phật giáo và đạo giáo, một mặt tạo nên môi trường cho sự phát triển
và sáng tạo các hình thức hát thờ cúng vốn có trong nhân dân ta, để chuyển tải những nội
dung trong kkinh sách. Mặt khác chúng cũng dần gieo những mầm ca nhạc của mình trên
nước ta để sau này dần hình thành những loại ca nhạc tôn giáo mới, bên cạnh những loại
hình nhạc lễ gắn với các tín ngưỡng dân gian cuẩ nhân dân ta từ xưa.
Đó là những nguồn góp phần làm phong phú thêm những loại hình ca nhạc thờ cúng
của người Việt và một số tộc khác trên đất nước ta sau này.
4.3. Một số biến đổi trong lĩnh vực kinh tế xã hội
Ách thống trị của phong kiến Phương bắc, một mặt kìm hãm tốc độ phát triển của
nền kinh tế nước ta, mặt khác tăng cường ảnh hưởng của mình và tăng cường bóc lột, vơ
vét thành quả lao động của nhân dân ta. Kẻ đô hộ vô hình trung đã tạo nên ít nhiều điều
kiện khách quan cho kinh tế nước ta phát triển.
Trong điều kiện như vậy, bên cạnh những bà ca phản ánh cuộc sống lao động nông
nghiệp, bắt đầu xuất hiện dân dần những bài hát phản ánh cuộc sống, của những người
cùng làm một nghề như ví phường cấy, hát phường vải… Ngoài những bài dân ca nghề
nghiệp nói trên, những trò diễn dân gian mô tả lại sinh hoạt lao động của nhân dân ta,
cũng càng ngày càng phong phú, là ngọn nguồn nảy sinh nghệ thuật sân khấu dân gian
nước ta.
5. Âm nhạc Phù Nam - Chân Lạp và Lâm Ấp - ChamPa
5.1. Âm nhạc Phù Nam - Chân Lạp
Vương quốc Phù nam được thành lập vào đầu thế kỷ I sau công nguyên. Lãnh thổ
của nó bao gồm cả phía nam bán đảo đông dương, từ vùng hạ lưu sông cửu long, vùng
Đồng Tháp Mười và đất đai sát bờ biển Thái Lan. Sau khi tuyên bố lập quốc, lấn dần đất
đai, Phù Nam chiếm đế đô và sáp nhập Phù Nam vào nước Chân Lạp.
Trong những giai đoạn đầu dân Phù Nam – Chân Lạp đã có những mối tiếp xúc và
quan hệ với Ân Độ, Trung Hoa… cư dân Phù Nam – Chân Lạp là những người nói tiếng
Môn – Khơ me, trong đó tộc đa số là người Khơ me. Ngoài những nét bản địa Đông Nam
Á nói chung, nền văn hóa Phù Nam – Chân lạp, còn mang những ảnh hưởng khá sâu đậm
của nền văn hóa và tín ngưỡng Ấn Độ.
Trong những buổi đầu của lịch sử, cơ dân Phù nam – Chân Lạp, đã sáng tạo cho
mình một nền ca nhạc dân gian truyền thống với những bài hát ru, những bài hát điệu
nhạc dùng trong lao động, vui chơi hoặc trong các hội hè và nghi lễ cầu cúng, theo phong
tục tín ngưỡng của họ. Nghệ thuật múa có lẽ cũng đã sớm trở thành một sinh hoạt phổ
cập trong sinh hoạt hội hè, vui chơi của cư dân.
19
- Theo nhưng văn bia còn ghi lại, trong những món quà hiến dâng thần linh có những
vũ nữ, ca nữ, ca nam và nhạc công. Nhạc khí mà họ sử dụng là những đàn dây, nhạc cụ
hơi, nhạc cụ gõ. Số lượng nhạc công trong những cuộc dâng hiến như vậy, có khi lên tới
cả trăm người và dàn nhạc cũng gồm nhiều loại hình với chức năng khác nhau.
5.2. Âm nhạc Lâm Ấp - Chanpa
Vài nét lịch sử
Năm 192 lúc nhà Hán đang suy yếu, một viên chức người huyện Tượng Lâm ở vào
phía Nam tỉnh Thừa Thiên ngày nay, đã lãnh đạo nhân dân nổi lên chiếm vùng đất này,
xưng vương và lập nên nước Lâm Ấp. Vào khoảng thế kỷ thứ VII, tên gọi Chăm Pa xuất
hiện và thay thế cho tên Lâm Ấp.
Cư dân Chăm pa chủ yếu là người Chăm, ngoài một số annhr hưởng của văn hóa
nghệ thuật Trung Hoa, nền văn hóa của họ còn chịu ảnh hưởng đậm nét của văn hóa tín
ngưỡng Ân Độ, ngay từ khi mới lập quốc.
Âm nhạc thời của Champa
Nhờ sớm dành lại được độc lập từ tay bọn phong kiến Trung Hoa, cư dân Champa
có những điều kiện thuận lợi để phát triển nền nghệ thuật âm nhạc của mình từ khá sớm.
Theo những sử liệu ghi lại, chúng ta biết rằng xưa kia người Champa đã sử dụng nhiều
loại nhạc khí khác nhau như; nhạc khí dây, hơi, gõ.
Về ca hát, ngoài những làn điệu dùng trong sinh hoạt và lao động như ở nhiều tộc
người khác, có lẽ ca nhạc dùng trong cầu cúng và lễ nghi phong tục của người Champa,
chiếm một tỉ lệ lớn và là một bộ phận quan trọng trong nền ca nhạc Champa. Tương tự
tình hình hiện nay còn được thấy trong đời sống của người Chăm trên đất nước ta.
6. Vị trí của giai đoạn Bắc thuộc và chống Bắc thuộc trong lịch sử Âm nhạc
Việt Nam.
Trong suốt thời kỳ Bắc thuộc, nhân dân ta một mặt vừa kiên trì bảo tồn những tinh
hoa văn hóa nghệ thuật truyền thống, chống lại sự đồng hóa của phong kiến Trung Hoa,
mặt khác vừa cởi mở đón nhận một số yếu tố văn hóa nghệ thuật Hán và những nước
khác để dần dần dân tộc hóa những yếu tố vay mượn.
Việc phát triển giao lưu văn hóa với các nước trong giai đoạn này, có tác dụng tạo
điều kiện cho sự du nhập mạnh mẽ những yếu tố âm nhạc mới và những nhạc khí có
nguồn gốc nước ngoài.
Nếu những yếu tố cũ và mới được xen kẽ, đan lồng vào nhau là nét đực sắc của văn
hóa Việt Nam thời Bắc thuộc, thì quá trình tiếp thu những yếu tố ngoại sinh trong thời kỳ
này, cũng chính là tiền đề cho sự hình thành những nét nổi bật mới, cho nền văn hóa nghệ
thuật cũng như âm nhạc ở thời đại tiếp sau.
Với khoảng thời gian hơn một nghìn năm, giai đoạn Bắc thuộc và chống Bắc thuộc
như một bước đệm giữa hai giai đoạn trước và sau đó (tức là âm nhạc thời đại Hùng
Vương và âm nhạc thời kỳ Đại Việt). nó dẫn tới những biến chuyển rõ nét mà chúng ta sẽ
thấy trong một bộ phận âm nhạc quan trọng của cư dân Đại Việt, trước hết là âm nhạc
người Việt trong giai đoạn sau.
20
nguon tai.lieu . vn