Xem mẫu

  1. GIÁO DỤC TỪ XA – GIẢI PHÁP CHIẾN LƯỢC TRONG XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP TS. Nguyễn Hồng Sơn PCT Hội Khuyến học Việt Nam Tóm tắt Luật Giáo dục 2019 quy định: “Phát triển hệ thống giáo dục mở, xây dựng xã hội học tập nhằm tạo cơ hội để mọi người được tiếp cận giáo dục, được học tập ở mọi trình độ, mọi hình thức, học tập suốt đời”. (khoản 3, Điều 4) 1. Đặt vấn đề Luật Giáo dục 2019 quy định: “Phát triển hệ thống giáo dục mở, xây dựng xã hội học tập nhằm tạo cơ hội để mọi người được tiếp cận giáo dục, được học tập ở mọi trình độ, mọi hình thức, học tập suốt đời”. (khoản 3, Điều 4) Một trong các giải pháp thúc đẩy hình thành hệ thống giáo dục mở, xây dựng xã hội học tập là đẩy mạnh hình thức giáo dục từ xa - GDTXa (hay đào tạo từ xa, học từ xa, học trực tuyến…). Tại khoản 2, Điều 43 Luật Giáo dục 2019 quy định rõ các Hình thức thực hiện chương trình giáo dục thường xuyên bao gồm: a) Vừa làm vừa học; b) Học từ xa; c) Tự học, tự học có hướng dẫn; d) Hình thức học khác theo nhu cầu của người học. Như vậy có thể thấy, giáo dục từ xa và việc học từ xa không chỉ là vấn đề của một trường, một cơ sở giáo dục nào đó, không chỉ vì phải ứng phó với đại dịch Covid- 19 mà ta phải chuyển việc học tập trung sang học trực tuyến… mà GDTXa là xương sống của học tập suốt đời, một giải pháp quan trọng của xây dựng xã hội học tập và là bước đi tất yếu của một nền giáo dục mở, được luật pháp quy định và có lẽ GDTXa chính là một trong các định hướng chiến lược phát triển giáo dục bền vững giai đoạn 2021-2030. Coi GDTXa là Giải pháp chiến lược vì nó: 1. Kích thích khả năng TỰ HỌC của mỗi người; nó khơi dậy cái tôi – cá nhân hóa việc học; tạo điều kiện để mọi người có thể và mong muốn tiếp nhận tri thức, rèn kỹ năng để trở thành Công dân học tập… 294
  2. 2. Nó là giải pháp bền vững vì GDTXa luôn có thể tiến hành được trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, thời gian, khoảng cách vùng miền… 3. Nó là giải pháp linh hoạt: vì có thể đến với mọi người dân một cách linh hoạt, cơ động, nhanh nhất (phủ diện rộng, ra toàn xã hội hay mang tính xã hội hóa cao độ). Ở đây, có thể nói đến khả năng thích ứng: GDTXa không đặt vấn đề về chất lượng đầu vào của người học; có nghĩa là dù anh là ai, ngành nghề gì, lứa tuổi nào, trình độ ban đầu đến đâu… thì vẫn có thể học tập theo phương thức GDTXa Tóm lại nó phù hợp với đặc trưng của xã hội học tập. Đó là: “XHHT là một xã hội trong đó mọi cá nhân đều phải học tập thường xuyên, liên tục, học tập suốt đời và biết tận dụng triệt để các cơ hội học tập do xã hội mang lại. Do đó, học tập phải trở thành nhu cầu tự thân, là trách nhiệm của mỗi công dân, mỗi gia đình, dòng họ, cộng đồng dân cư, của các ban ngành, các đoàn thể và trách nhiệm của toàn xã hội.” (theo UNESCO). Dĩ nhiên, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 đang chưa biết bao giờ mới kết thúc, chúng ta chắc còn phải dành nhiều công sức, thời gian chống dịch, thì GDTXa cần phải được nhìn nhận, đánh giá đúng về thế mạnh, hiệu quả của phương thức này. Đẩy mạnh phát triển GDTXa cũng chính là giải pháp tốt để tiếp tục xây dựng các mô hình học tập theo hướng nâng cao chất lượng trong giai đoạn sắp tới, khi mà chúng ta không thể làm việc và học tập theo kiểu tập trung truyền thống; đó chính là cách mà toàn xã hội đang cùng với ngành giáo dục thực hiện mục tiêu kép, vừa chống dịch theo chỉ đạo của Chính phủ nhưng vẫn triển khai xây dựng xã hội học tập hiệu quả - đảm bảo nhiệm vụ trọng tâm của các cơ sở giáo dục vẫn không bị gián đoạn, sao nhãng. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Đặc điểm, hình thức GDTXa Khi bàn về GDTXa, có rất nhiều thuật ngữ liên quan và có nghĩa tương tự. Ở một số nước, người ta sử dụng các khái niệm như GDTXa (Distance education), đào tạo mở (Open learning), đào tạo lấy người học làm trung tâm (Student - centred learning), đào tạo trực tuyến (E-learning, M-learning, U-learning hay online-learning) ... để phân biệt phương pháp sư phạm mới này với phương pháp giảng dạy truyền thống trực tiếp, tập trung - phương pháp “phấn bảng - trò chuyện”, “mặt giáp mặt” (face to face). Theo Giáo sư Sonja Ruehl - Trường ĐH Tổng hợp Luân Đôn thì về cơ bản, GDTXa được thực hiện thông qua các phương pháp và phương tiện thông tin chứ không phải thông qua sự tiếp xúc trực tiếp giữa người dạy và người học. Đặc điểm 295
  3. phân biệt của các phương pháp GDTXa là tính tương hỗ, thể hiện ở sự tác động qua lại giữa người học và tài liệu học tập. Đây là một phương pháp sư phạm mà trong đó quá trình và ý thức học tập tự giác cao của học viên được nhấn mạnh. Các nội dung, phương pháp, phương tiện phục vụ giảng dạy và học tập được thiết kế để phù hợp với quá trình tự học đó. Mục tiêu hàng đầu của chương trình đào tạo này là hướng dẫn, giúp đỡ học viên bổ sung, nâng cao kiến thức để trở thành những người có tri thức, các nhà kinh tế, nhà khoa học có suy nghĩ độc lập, có kỹ năng phân tích và lập luận tốt. Ngoài ra, họ còn phải nắm được những kỹ năng viết, kỹ năng trình bày các bài viết, các công trình nghiên cứu một cách rõ ràng, dễ hiểu, chặt chẽ và có sức thuyết phục cao. Ở Việt Nam, GDTXa được hiểu là một quá trình giáo dục, trong đó phần lớn có sự giãn cách giữa người dạy và người học về mặt không gian và thời gian. Người học theo hình thức GDTXa chủ yếu là tự học, tự nghiên cứu qua học liệu như giáo trình in, băng hình, băng tiếng, CD-ROM, giáo trình điện tử, đa phương tiện...; bằng việc sử dụng các phương tiện nghe-nhìn cá nhân, phát thanh, truyền hình và mạng tin học - viễn thông do các cơ sở giáo dục phối hợp với các cơ quan truyền thông tổ chức và trợ giúp. GDTXa đòi hỏi người học phải tự lực, tự giác, kiên trì và quyết tâm cao mới có thể hoàn thành chương trình học tập của mình. GDTXa được tiến hành theo nhiều phương thức. Nếu như trong khoảng 25-30 năm về trước, khi mà Internet còn chưa được phổ biến rộng rãi, các trường đại học tiến hành GDTXa bằng cách phân phát cho học viên một hệ thống giáo trình, băng tiếng và băng hình để học viên tự nghiên cứu, tự học… thì hiện nay, khi công nghệ thông tin phát triển, dữ liệu kiến thức không còn được lưu giữ theo lối truyền thống như trên nữa mà thay vào đó là dữ liệu điện tử, theo kiểu dữ liệu lớn (big data), học liệu mở. Thông qua mạng Internet toàn cầu, thậm chí là áp dụng công nghệ kết nối vạn vật (internet of things), chỉ cần ngồi trước màn hình, học viên có thể tiếp thu các bài học có đủ cả âm thanh và hình ảnh sống động, trao đổi bài học với đồng nghiệp, bạn bè, thầy cô… trực tuyến và từ xa tiện lợi hơn trước rất nhiều thông qua dịch vụ thư điện tử (E-mail), diễn đàn (Forum, chat zoom…), hay nhóm tin (Newsgroup, Zalo…) trên mạng. Chính Internet và công nghệ phần mềm của xã hội số 4.0 đã giúp tạo ra các lớp học ảo không cần có sự hiện diện đồng thời của cả giáo viên và học viên mà người học vẫn đảm bảo hoàn thành được chương trình đào tạo. Có học thì phải có thi. Nhờ các dịch vụ (apps) trên Internet, giáo viên cũng có thể tổ chức thi qua mạng dưới nhiều hình thức: Thi trắc nghiệm, thi tự luận hay vấn đáp gọn nhẹ và đơn giản. Tuy nhiên, hình thức thi trắc nghiệm hiện đang được ưa chuộng 296
  4. hơn cả vì đây là hình thức thi đảm bảo tính chính xác, nhanh chóng và khoa học. Giáo viên không còn phải lo trộn đề thi như trước kia mà chỉ cần xây dựng các câu hỏi của từng chủ đề môn học, đưa vào cơ sở dữ liệu "Ngân hàng câu hỏi", từ đó máy tính sẽ tự động trộn đề thi (có phần mềm chuyên dụng làm thi, áp dụng công nghệ thông minh AI và Blockchain) theo các yêu cầu của giáo viên về chủ đề thi, mức độ khó của câu hỏi. Đối với học viên, thi trắc nghiệm đảm bảo tính công bằng, vì đây là đề thi ngẫu nhiên và có thể bao quát hết kiến thức cần trang bị cho họ (và cũng rất tiện lợi vì họ không phải lo đến trường thi và tuân thủ các quy định ngặt nghèo khác). Trong bối cảnh dịch Covid-19 thì mô hình GDTXa và thi cũng “từ xa” - qua mạng (Thi trực tuyến, online) quả là giải pháp hữu hiệu để vừa thực hiện quy định về phòng chống dịch hiệu quả vừa đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ chính trị của ngành giáo dục. 2.2. Các lợi ích của GDTXa - GDTXa góp phần thực hiện bình đẳng trong giáo dục, tạo cơ hội cho nhiều người được học, học thường xuyên, học suốt đời… nhờ khắc phục được khó khăn về khoảng cách địa lý giữa người học với các cơ sở giáo dục, trung tâm văn hoá; hơn thế nữa, kinh phí (học phí) của GDTXa cũng thấp hơn GD chính quy … nên “nhà nghèo” cũng có thể theo học bình thường; - GDTXa đặt người học vào vị trí trung tâm của quá trình đào tạo, giúp họ phát huy tối đa tính chủ động, tư duy sáng tạo trong học tập. Đây là yếu tố quyết định chất lượng và hiệu quả của quá trình giáo dục; tức là thúc đẩy và thức tỉnh mạnh mẽ khả năng, kỹ năng “tự đọc, tự học, tự suy nghĩ, tự quyết định” của mỗi cá nhân; - GDTXa là GD tiết kiệm: Do học viên không nhất thiết phải đến trường, không phải đầu tư cho việc đi lại, ăn, ở tại nơi học, nên chi phí cho đào tạo giảm đáng kể đối với người học. Nhà trường bớt được phần chi phí xây dựng trường, lớp học, giảm được đội ngũ cán bộ trung gian, nhân viên và giảng viên tham gia trực tiếp vào quá trình đào tạo; - Các cơ sở đào tạo từ xa tập hợp được các nhà khoa học, giảng viên có trình độ học vấn cao, giàu kinh nghiệm (vì cũng theo hình thức hợp lực từ xa, không khoảng cách) để biên soạn nội dung, chương trình và thiết kế học liệu. Vì vậy, nội dung, chương trình, học liệu GDTXa hội tụ được các nguồn tri thức tinh hoa, phong phú, đa dạng; 297
  5. - GDTXa góp phần làm thay đổi phương thức đào tạo, đem lại một công cụ, một phương pháp giảng dạy và học tập mới mẻ và hiện đại, nhiều tính năng. Nó giúp phổ biến những kiến thức mới nhất, nhanh nhất đến từng người học; giúp nhà trường có khả năng thích ứng tốt với sự thay đổi môi trường giáo dục, với các điều kiện thực tế của người học; và đặc biệt là thích ứng với các điều kiện biến đổi thất thường của khí hậu, thời tiết, của các đợt thiên tai, đại dịch (như dịch Covid-19 hiện nay); - GDTXa sẽ giúp mở rộng các quan hệ hợp tác đào tạo và tạo một vị thế mới cho Nhà trường (tạo sự gắn kết giữa các khoa, tổ bộ môn, giữa các cơ sở GD trong nước, đặc biệt mở rộng hợp tác quốc tế trong GD). Hơn nữa, khi GDTXa được xã hội chấp nhận rộng rãi, các trường sẽ có nhiều thuận lợi trong việc phát triển các chương trình đào tạo sang các lĩnh vực khác chưa được chú ý trước đây. - Hình thức học từ xa bổ trợ rất hữu hiệu cho giáo dục truyền thống (dạy-học trực tiếp, mặt-giáp-mặt). Ngoài yếu tố đẩy mạnh áp dụng CNTT, số hóa cơ sở giáo dục… thì cũng có những vấn đề không dễ để truyền đạt công khai, mặt giáp mặt,… khi đó GDTXa sẽ là thế mạnh để thoát khỏi các tình huống bài giảng cần sự tế nhị khi truyền thông, hoặc các vấn đề về giới, các mối quan hệ xã hội nhạy cảm… Tuy nhiên, về mặt khoa học – công nghệ, để phát triển GDTXa đảm bảo đúng công nghệ, chất lượng và hiệu quả cần có sự đầu tư ban đầu ở mức độ cần thiết để xây dựng cơ sở vật chất, công nghệ thông tin, xây dựng nội dung, chương trình, biên soạn tài liệu hướng dẫn tự học, thiết kế và sản xuất học liệu. Vì đầu tư ban đầu khá lớn, nên số lượng người theo học phải đông, đạt tới “ngưỡng sinh lợi” thì GDTXa mới thực sự mang lại hiệu quả kinh tế. Đồng thời cũng phải sàng lọc mạnh trong quá trình đào tạo mới đảm bảo chất lượng giáo dục – như ta đã biết đó là GD hình tháp (mở đầu vào, siết chặt đầu ra). 2.3. Những hạn chế, yếu kém của GDTXa ở Việt Nam và nguyên nhân 2.3.1. Những hạn chế, yếu kém Căn cứ vào công nghệ giáo dục từ xa của các nước trong khu vực và trên thế giới và so với yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực hiện nay, có thể khẳng định rằng, giáo dục từ xa ở Việt Nam trong thời gian qua còn nhiều mặt hạn chế, yếu kém, cụ thể là: 2.3.1.1. Công nghệ học liệu Cho đến nay, học liệu chủ yếu là tài liệu in kết hợp sử dụng một số CD-ROM, băng tiếng, băng hình (học liệu mở - đa phương tiện còn khá ít). So sánh với kinh nghiệm của quốc tế, hầu hết các loại học liệu do các trường biên soạn chưa thật sự phù 298
  6. hợp với công nghệ đào tạo từ xa. Một số môn học còn dùng chung tài liệu với hệ đào tạo chính quy và đào tạo tại chức. Chưa có sự phối hợp giữa các trường trong việc xây dựng chương trình, biên soạn giáo trình và thiết kế học liệu, mỗi nơi làm một kiểu dẫn đến chất lượng và hiệu quả thấp. Ở từng trường chưa tập hợp được đội ngũ giáo viên, giảng viên giỏi, các nhà khoa học, các chuyên gia trên nhiều lĩnh vực để tổ chức xây dựng chương trình, biên soạn tài liệu dùng chung cho một số môn học, đặc biệt là giáo trình, học liệu tự học cho các môn khoa học tự nhiên, kỹ thuật-công nghệ, xây dựng các lớp học “ảo”, các bài thực hành, thí nghiệm “ảo”, dẫn đến thời gian học trực tiếp còn nhiều. Việc sử dụng thiết bị nghe-nhìn và công nghệ hiện đại để triển khai các chương trình giáo dục từ xa chưa được các trường chú trọng đúng mức. Sự phối hợp với đài phát thanh, truyền hình trung ương, địa phương và các cơ quan truyền thông trong việc sản xuất và chuyển tải các chương trình GDTXa chưa thường xuyên và hiệu quả chưa cao. 2.3.1.2. Vấn đề đầu tư Chưa có chính sách đầu tư từ Ngân sách Nhà nước cho loại hình GDTXa. Phần lớn các trường đang tự chủ, lấy thu bù chi cho các hoạt động đào tạo từ xa, hoặc tranh thủ nguồn tài trợ từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Như vậy, GDTXa là loại hình đào tạo khai thác tốt khả năng thu hút nguồn vốn từ chủ trương “xã hội hóa” trong giáo dục và đào tạo. 2.3.1.3. Tổ chức và quản lý quá trình đào tạo Cho đến nay, một số trường và một số cơ sở tiếp nhận giáo dục từ xa ở địa phương chưa có tổ chức hợp lý, đủ mạnh; chưa có quy trình và biện pháp quản lý đào tạo từ xa chặt chẽ. Các cơ sở tiếp nhận chương trình GDTXa ở địa phương của một số trường phần lớn là do cán bộ của các Sở Giáo dục và Đào tạo kiêm nhiệm, không có bộ máy chuyên trách, địa điểm thuê mượn, không ổn định. Một số trường còn đặt trung tâm từ xa vệ tinh ở các Trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện hoặc các đơn vị khác (không theo đúng quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo). Điều này dẫn đến tình trạng mở lớp phân tán, môi trường sư phạm không đảm bảo, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy-học, khả năng quản lý đào tạo và hỗ trợ đào tạo bị hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả GDTXa (dẫn đến hệ quả là xã hội coi thường, đánh giá thấp hoặc không công nhận kết quả đào tạo của loại hình này). 299
  7. 2.3.1.4. Quy trình thi, kiểm tra, đánh giá còn khá lạc hậu Công tác tổ chức thi, kiểm tra, đánh giá thường được tiến hành theo phương pháp tự luận và tổ chức tại các trạm tiếp nhận chương trình GDTXa ở địa phương. Vì vậy, có nơi, có lúc chưa bảo đảm tính nghiêm túc, khách quan. Trong điều kiện thực tế hiện nay khi cơ sở vật chất còn thiếu thốn, công nghệ đào tạo chưa được cải tiến đáng kể, với phương thức xét tuyển đầu vào (không thi tuyển sinh) và với quy trình thi, kiểm tra, thi tốt nghiệp còn lạc hậu, chủ yếu kiểm tra theo hình thức tự luận, chưa áp dụng được công nghệ kiểm tra, thi, đánh giá theo phương pháp trắc nghiệm khách quan và phần lớn các kỳ thi được tổ chức tại địa phương, thì tỷ lệ tốt nghiệp chỉ khoảng 50%-60% mới phù hợp với yêu cầu về chất lượng đào tạo. 2.3.1.5. Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ và phương pháp sư phạm về GDTXa cho đội ngũ CBQL, GV Phần lớn các trường sử dụng đội ngũ giáo viên dạy hệ chính quy chưa có nghiệp vụ và phương pháp sư phạm GDTXa tham gia biên soạn học liệu và giảng dạy cho học viên học từ xa, đã ảnh hưởng lớn đến chất lượng biên soạn chương trình, thiết kế học liệu dành riêng cho GDTXa cũng như việc giảng dạy qua phương tiện kỹ thuật và hướng dẫn học tập cho học viên. Các trường sư phạm chưa quan tâm đến việc mở chuyên ngành đào tạo giáo viên trong lĩnh vực GDTXa (ở đây liên quan đến Chuyên ngành giáo dục người lớn, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập). Đã đến lúc phải quan tâm đặc biệt đến GDTXa và GD người lớn: đó là tính mở, tính đa dạng, linh hoạt trong tổ chức hoạt động giáo dục, song cũng rất cần sự chuyên nghiệp, đào tạo nhân lực cho lĩnh vực này một cách bài bản. 2.3.2. Nguyên nhân chính của những tồn tại (1). Các cơ sở đào tạo từ xa chưa chủ động cải tiến công nghệ đào tạo, đặc biệt là chưa chú trọng đầu tư xây dựng học liệu nghe-nhìn, học liệu điện tử và sử dụng thiết bị công nghệ thông tin để chuyển tải các chương trình đào tạo từ xa. Các cơ sở tiếp nhận chương trình giáo dục từ xa ở địa phương chưa được trang bị đầy đủ học liệu, phương tiện hỗ trợ cho người học, đặc biệt là hỗ trợ cho thí nghiệm, thực hành, thi cử. (2). Công tác xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên về chuyên môn, nghiệp vụ và phương pháp sư phạm về GDTXa, đặc biệt là phương pháp dạy - học “có khoảng cách” và thông qua phương tiện kỹ thuật hiện đại… chưa được quan tâm đúng mức. 300
  8. (3). Chưa có sự phối hợp, liên kết giữa các cơ sở GDTXa (đặc biệt trong việc chia sẻ nguồn học liệu mở, cùng hỗ trợ và phát triển công nghệ đào tạo). (4). Phần đông học viên GDTXa không có khả năng trang bị điều kiện để tự học tại nhà, chưa có thói quen, chưa rèn luyện phương pháp tự học, trình độ đầu vào thấp, phải vừa học, vừa làm, dễ bị chi phối bởi điều kiện công tác và hoàn cảnh gia đình. (5). Công tác quản lý từ Trung ương đến cơ sở còn nhiều bất cập. Thiếu hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chặt chẽ để quản lý điều hành các hoạt động GDTXa. (Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập). Thiếu chế tài để xử lý các trường hợp vi phạm quy chế. (6). Chưa có chính sách đầu tư thích đáng từ các nguồn khác nhau: Ngân sách nhà nước tại Trung ương và địa phương, các nguồn tài trợ khác… và cuối cùng là thiếu cơ chế, căn cứ pháp lý: chưa có Luật Giáo dục suốt đời? 2.4. Đề xuất giải pháp nhằm triển khai GDTXa một cách hiệu quả Giải pháp đầu tiên và quan trọng nhất vẫn là tuyên truyền, làm cho mọi người, mọi cấp, ngành hiểu rõ lợi ích của GDTXa, nhất là trong bối cảnh hiện nay: “sống chung” với dịch Covid-19 và thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia. a) Trước tiên và đầu tiên là Chính phủ cần sớm đề xuất đưa vào chương trình xây dựng Luật, Nghị định của Quốc hội khóa XV: đó là xây dựng dự án Luật Giáo dục suốt đời của Việt Nam (xong trong giai đoạn 2021-2025). b) Hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ sở giáo dục từ xa hiện có, nhất là Trường Đại học Mở Hà Nội và Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh để tập trung đầu tư, nâng cao năng lực đào tạo từ xa. Đẩy mạnh áp dụng hình thức GDTXa cho tất cả các cấp học và loại hình đào tạo (nên từ THCS trở lên); đồng thời tổ chức lại các cơ sở thực hiện chưa đúng mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ giáo dục từ xa. c) Chỉ đạo, tổ chức phối hợp chặt chẽ dưới nhiều hình thức giữa các trường, các tổ chức khoa học và công nghệ và các nhà khoa học để nghiên cứu, thiết kế học liệu dùng chung cho các nhà trường. Xây dựng Kho học liệu mở dùng chung trong Hệ thống dữ liệu quốc gia nói chung. d) Áp dụng rộng rãi phương thức giáo dục từ xa để thực hiện không chỉ các chương trình giáo dục thường xuyên mà cho cả các chương trình giáo dục chính quy khác. 301
  9. e) Tuyên truyền nâng cao nhận thức xã hội về giáo dục từ xa gắn với đẩy mạnh học tập suốt đời, khuyến học, khuyến tài, xây dựng XHHT… hình thành phong trào học tập (tự học tập) sôi nổi, rộng khắp trong các tầng lớp nhân dân. Tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng để mọi người, mọi tổ chức hiểu biết về đặc điểm, lợi ích và hiệu quả của phương thức giáo dục từ xa, từ đó tự nguyện tham gia vào sự nghiệp phát triển giáo dục từ xa. f) Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về giáo dục từ xa. - Mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục từ xa để học hỏi kinh nghiệm, nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới phù hợp với điều kiện Việt Nam, thu hút các nguồn đầu tư của nước ngoài cho các cơ sở giáo dục từ xa. - Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, tổ chức quốc tế và các nhà đầu tư tài trợ, đóng góp về kinh nghiệm sản xuất học liệu, đào tạo cán bộ, ứng dụng các công nghệ tiên tiến để xây dựng hệ thống GDTXa ở Việt Nam. 2.5. Đề xuất nhiệm vụ nghiên cứu cho các chuyên gia về KHGD 1. Nghiên cứu lý luận: Khẳng định GDTXa là xu thế tất yếu trong phát triển giáo dục bền vững, nó phù hợp với bước tiến của xã hội hiện đại. Trong nhất thời thì nó là giải pháp tình thế (chẳng hạn để đối phó với đại dịch Covid-19); Còn về lâu dài, mang tính chiến lược thì GDTXa chính là một trong các giải pháp xây dựng nền giáo dục mở, xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập; đồng thời cũng là cách để thúc đẩy chuyển đổi số trong giáo dục, góp phần vào chương trình chuyển đổi số quốc gia. 2. Nghiên cứu đề xuất cơ sở để xây dựng dự án Luật giáo dục suốt đời. 3. Xây dựng Quy trình kiểm tra, đánh giá, công nhận kết quả học tập suốt đời của mọi người dân. 4. Xây dựng Quy chế vận hành của GDTXa theo hướng thúc đẩy nền giáo dục mở, xây dựng xã hội học tập. 5. Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn cho mô hình “Công dân học tập”. 3. Kết luận Sắp tới, hình thức GDTXa cần được nghiêm túc xem xét, phát triển mạnh mẽ cả về mặt quan điểm lý luận và triển khai thực tế, vì: Tự học là nền tảng đạo đức, năng 302
  10. lực công dân, tạo đường dẫn cho GDTXa, là phương thức xương sống của học tập suốt đời; đó cũng là tiền đề, cơ sở cho việc hình thành mô hình công dân học tập, và CDHT lại là hạt nhân tạo nên các mô hình học tập trong một xã hội học tập giai đoạn 2021- 2030, góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế tri thức – trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0, một xu thế phát triển tất yếu của các quốc gia trong thế kỷ 21 mà Việt Nam không thể đứng ngoài cuộc. Có nghĩa là, việc phát triển GDTXa về cả quy mô và chất lượng là trách nhiệm của Nhà nước, của Ngành giáo dục và của toàn thể cộng đồng. Phát triển nhanh GDTXa sẽ tạo ra hiệu quả to lớn cả về kinh tế và xã hội. Trong điều kiện cụ thể hiện nay của nước ta, việc phát triển hình thức đào tạo này có thể coi là một trong những biện pháp hữu hiệu để thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo, triển khai Luật Giáo dục 2019, đồng thời thực hiện chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo về đa dạng hoá ngành nghề và hình thức đào tạo, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục… và chắc chắn nếu chúng ta có được hệ thống GDTXa phát triển, hiện đại thì đại dịch Covid-19 hôm nay hay sẽ còn thứ “DỊCH BỆNH” gì khác đi nữa thì cũng sẽ là “vô hại” đối với toàn ngành giáo dục nếu chúng ta biết cách thích ứng an toàn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luật Giáo dục 2019; 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2021: Báo cáo tổng kết Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012-2020”; 3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2021: Báo cáo tổng kết Đề án “Phát triển đào tạo từ xa giai đoạn 2015-2020”; 4. Hội Khuyến học Việt Nam, 2020: Báo cáo tổng kết Đề án “Đẩy mạnh phong trào HTSĐ trong gia đình, dòng họ, cộng đồng đến năm 2020”; 5. Các bản tin thường kỳ của UNESCO; Thông tin trên Internet… 303
nguon tai.lieu . vn