Xem mẫu

  1. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƢỜI Ở HUYỆN HỒNG NGỰ, TỈNH ĐỒNG THÁP SV: Nguyễn Ngọc Trai Lớp: ĐHGDCT11 GVHD: Th.S. Đỗ Duy Tú Tóm tắt: Nguồn lực con người là tổng thể những yếu tố thuộc về thể chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ, tri thức, vị thế xã hội… tạo nên năng lực thực tiễn của con người trong phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia, từng địa phương. Trong thời gian qua, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp đã phát huy tốt vai trò của nguồn lực con người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và đạt được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên, trong thực tế việc phát huy vai trò nhân tố con người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của huyện Hồng Ngự vẫn chưa thực sự hiệu quả. Vì vậy, việc khuyến nghị một số giải pháp phát triển nguồn lực con người ở huyện Hồng Ngự là rất cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với sự phát triển của Hồng Ngự trong thời gian tới. Từ khóa: nguồn lực con người, phát triển nguồn lực con người, huyện Hồng Ngự. 1. Đặt vấn đề Ngày nay cùng với quá trình toàn cầu hóa, sự phát triển của khoa học - kỹ thuật, kinh tế tri thức đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của các quốc gia. Xã hội phát triển, hàm lƣợng chất xám trong hàng hóa ngày càng cao, do đó vai trò của ngƣời lao động có trí tuệ ngày càng quan trọng và mang ý nghĩa bƣớc ngoặt trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc, vừa mở ra triển vọng mới cho từng địa phƣơng, trong đó có tỉnh Đồng Tháp. Nằm ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng Tháp đƣợc hợp thành bởi 12 đơn vị hành chính: 2 thành phố, 1 thị xã và 9 huyện. Trong đó, Hồng Ngự là huyện biên giới của tỉnh Đồng Tháp. Trong những năm gần đây, nhờ biết khai thác thế mạnh kinh tế thủy sản nên đời sống của ngƣời dân đƣợc cải thiện, song vẫn còn nhiều khó khăn so với các huyện khác trong tỉnh và cả nƣớc. Tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của huyện còn chậm. Vì vậy, để khai thác có hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh của mình, 171
  2. gần đây, Hồng Ngự đã chú trọng đầu tƣ, khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong phát triển kinh tế - xã hội, và bƣớc đầu đạt đƣợc những thành tựu quan trọng, đáng khích lệ. Tuy nhiên, nhiều tiềm năng to lớn, nhất là tiềm năng con ngƣời của huyện Hồng Ngự vẫn chƣa đƣợc khai thác có hiệu quả và chƣa chuyển hóa thành nội lực cho sự phát triển nhanh và bền vững, chƣa đáp ứng yêu cầu thực tiễn của quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Đồng Tháp nói riêng và của đất nƣớc nói chung. Đây là một trong những nguyên nhân chính cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện. 2. Nội dung 2.1. Khái niệm nguồn lực con ngƣời và phát triển nguồn lực con ngƣời 2.1.1. Khái niệm nguồn lực con người Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những di sản lý luận nhân loại, đồng thời khái quát thành tựu của khoa học tự nhiên, triết học Mác - Lênin đã xem xét con ngƣời trong sự thống nhất biện chứng giữa yếu tố sinh vật và yếu tố xã hội, trong đó mặt xã hội là cơ bản nhất tạo nên bản chất của con ngƣời. Theo quan điểm triết học Mác – Lênin, “bản chất con ngƣời không phải là một cái trừu tƣợng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con ngƣời là tổng hòa những quan hệ xã hội”[6,11]. Điều đó chỉ ra rằng, không có con ngƣời trừu tƣợng mà chỉ có những con ngƣời hiện thực, đang sống, đang hoạt động trong một xã hội nhất định, trong điều kiện lịch sử nhất định. Đồng thời, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, trong quá trình phát triển của đời sống vật chất, của mỗi thời đại kinh tế, các tƣ liệu sản xuất giữ vai trò quan trọng, đặc biệt là các công cụ lao động, cái làm tăng cho sự phát triển của sức lao động ở con ngƣời, của nguồn lực con ngƣời, mà còn là một trong những yếu tố cấu thành nên những quan hệ xã hội trong lao động sản xuất. Trƣớc hết, “nguồn nhân lực” hay “nguồn lực con ngƣời” là những khái niệm đƣợc hình thành trong quá trình xem xét, nghiên cứu con ngƣời với tính cách là nguồn lực cơ bản của phƣơng thức sản xuất, yếu tố chính trong sự thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Khái niệm nguồn lực con ngƣời có phạm vi bao quát. Đó là tổng thể các yếu tố thuộc về 172
  3. thể chất và tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế xã hội... tạo thành năng lực của con ngƣời và của cộng đồng ngƣời. Á. Hiện nay, có nhiều khái niệm sử dụng khá phổ biến dựa trên các quan niệm về vai trò, vị trí con ngƣời trong sự phát triển nhanh, bền vững. Ở nƣớc ta khái niệm này đƣợc sử dụng rộng rãi kể từ đầu thập niên 90 đến nay. Theo đó, nguồn lực con ngƣời không chỉ là lực lƣợng lao động hay nguồn lao động mà là tập hợp các yếu tố, dƣới dạng tổng quát, có thể hiểu “nguồn lực con ngƣời là tổng thể những yếu tố về thể chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ, tri thức, vị thế xã hội…tạo nên năng lực của con ngƣời, của cộng đồng ngƣời có thể sử dụng, phát huy trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc và trong hoạt động xã hội”[1,263]. Với cách hiểu nhƣ vậy, khái niệm nguồn lực con ngƣời có nội dung rộng lớn, nó bao gồm những mặt cơ bản sau: Thứ nhất, lịch sử của loài ngƣời trƣớc hết là lịch sử của lao động sản xuất; Thứ hai, khái niệm “nguồn lực con ngƣời” phản ánh số lƣợng cơ cấu dân cƣ và cơ cấu lao động trong các ngành, các vùng, cơ cấu trong lao động, cơ cấu độ tuổi trong lực lƣợng lao động, cơ cấu nguồn lao động dự trữ; Thứ ba, khái niệm “nguồn lực con ngƣời” chủ yếu phản ánh chất lƣợng dân số, đặc biệt là chất lƣợng của lực lƣợng lao động trong hiện tại và tƣơng lai gần (dƣới dạng tiềm năng), thể hiện qua hàng loạt các yếu tố; Thứ tư, khái niệm nguồn lực con ngƣời còn hàm chứa cả sự liên hệ, tác động lẫn nhau giữa các yếu tố nội tại trong nó, sự phản ánh qua lại giữa nguồn lực con ngƣời với môi trƣờng tự nhiên và môi trƣờng xã hội, giữa nguồn lực con ngƣời với nguồn lực khác; Thứ năm, khái niệm nguồn lực con ngƣời còn chỉ ra rằng con ngƣời đƣợc xem xét với tƣ cách là một nguồn lực, nguồn lực nội tại, cơ bản trong hệ thống các nguồn lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Nhƣ vậy, hầu hết các nhà khoa học khi nghiên cứu về vấn đề con ngƣời, tuy ở nhiều góc độ khác nhau song đều thống nhất khái niệm nguồn nhân lực phản ánh những vấn đề sau: Một là, số lƣợng nhân lực; Hai là, chất lƣợng nguồn lực con ngƣời; Ba là, cơ cấu nhân lực. 2.1.2. Khái niệm phát triển nguồn lực con ngƣời Khái niệm "phát triển nguồn nhân lực". Nếu dịch từ cụm từ tiếng Anh thì phát triển nguồn nhân lực hay phát triển nguồn lực con ngƣời là Human Resouce Development (HRD), còn phát triển con ngƣời nói 173
  4. chung là Human Development Index (HDI) là những khái niệm đƣợc hình thành và phát triển trên thế giới chủ yếu trong thập niên 70. Trong “báo cáo phát triển con ngƣời 1990” của ngân hàng thế giới, vấn đề con ngƣời đã đƣợc đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển và khái niệm này dựa trên cơ sở tiếp cận về mối liên hệ chặt chẽ giữa con ngƣời và phát triển. Theo tƣ tƣởng này thì phát triển con ngƣời là một quá trình mở rộng sự lựa chọn của con ngƣời. Về nguyên lý, những lựa chọn này có thể xác định và thay đổi theo thời gian, nhƣng ở mỗi mức độ phát triển khác nhau, phát triển con ngƣời bao gồm các khía cạnh: thể chất, trí tuệ và tinh thần. Nhƣ vậy, phát triển nguồn lực con ngƣời với nội hàm trên thực chất là đề cập đến vấn đề chất lƣợng nguồn lực con ngƣời và khía cạnh xã hội của nguồn lực con ngƣời của mỗi quốc gia. Do đó phát triển nguồn lực con ngƣời là phát triển con ngƣời cả về thể lực và trí lực, cả về khả năng lao động và tính tích cực chính trị - xã hội, về đạo đức tình cảm và tâm hồn trong sáng tạo nên nguồn lực con ngƣời chất lƣợng cao. 2.2. Thực trạng nguồn lực con ngƣời ở huyện Hồng Ngự - tỉnh Đồng Tháp hiện nay 2.2.1. Về số lượng nguồn lực con người Nguồn lực con ngƣời ở tỉnh Đồng Tháp nói chung và huyện Hồng Ngự nói riêng trong thời gian qua đã tăng lên một cách đáng kể. Điều đó trƣớc hết là do sự gia tăng dân số kể từ khi chúng ta thống nhất đất nƣớc, từ khi Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới. Theo niên giám thống kê 2000 – 2010 của Cục thống kê tỉnh Đồng Tháp, dân số của huyện Hồng Ngự từ 212.750 ngƣời (năm 2000) lên 219.569 ngƣời (năm 2005) và giảm còn 144.065 ngƣời (năm 2010) sự sụt giảm này là do sự phân chia địa giới hành chính giữa thị xã Hồng ngự và huyện Hồng Ngự. Nhƣng về cơ bản dân số của huyện tăng hơn trƣớc; trong đó lao động trong các thành phần kinh tế là 67.160 ngƣời (năm 2010). Năm 2013 dân số của huyện Hồng Ngự đạt 145.356 ngƣời, trong đó lao động nữ chiếm 50,4%, nam chiếm 49,6%; dân số của huyện phần lớn là lao động nông thôn. Tốc độ tăng dân số và lực lƣợng lao động của huyện là tƣơng đối cao và liên tục, đây là nguồn bổ sung tƣơng đối ổn định vào đội ngũ lao động của huyện. Tốc độ gia tăng dân số trung bình trên thực tế qua các 174
  5. năm từ 2000 – 2010 dao động trong khoảng 1.3% - 1.7%. Lực lƣợng lao động tăng bình quân trên hơn 2% năm. Song, trên thực tế thì quy mô nguồn lực lao động của huyện còn hơn mức gia tăng của lực lƣợng lao động, bởi số ngƣời ngoài độ tuổi lao động hàng năm ít tăng và phần lớn vẫn có nhu cầu việc làm là khoảng 15.000 ngƣời (năm 2010). Năm 2011 tốc độ gia tăng lực lƣợng lao động ở huyện Hồng Ngự vẫn ở mức là 2% năm. có gần 150.000 dân, đứng thứ 7 trên toàn tỉnh về dân số, mức tăng dân số vào khoảng 700 ngƣời/năm. Dân số của huyện Hồng Ngự trẻ. Kết quả tổng điều tra dân số và việc làm của huyện Hồng Ngự đến ngày 30/12/2010 cho thấy, dân số chƣa đến độ tuổi lao động là 12,7%, tỷ lệ ngƣời trong độ tuổi lao động có khả năng lao động là 81,7% và ngoài độ tuổi lao động là 4,4%. Số lao động đang làm việc trong các thành phần kinh tế 67.160 ngƣời, gần bằng 50% số dân”. Quy mô dân số đông, lực lƣợng lao động dồi dào, đó đƣợc coi là thế mạnh của huyện Hồng Ngự, là yếu tố cơ bản để mở rộng và phát triển sản xuất. Nhƣng với một địa phƣơng nghèo, chậm phát triển nhƣ huyện Hồng Ngự thì nguồn lao động tăng nhanh lại gây sức ép việc làm rất lớn cho huyện. Theo chúng tôi, thời gian tới huyện Hồng Ngự đã, sẽ và đang còn phải tiếp tục đối mặt với tình trạng thừa lao động, thiếu việc làm. 2.2.2. Về cơ cấu và chất lượng nguồn lực con người Theo số liệu kết quả điều tra lao động việc làm năm 2010 đƣợc công bố ngày 06/09/2011, dân số của huyện là 144.536 ngƣời trong đó chủ yếu là dân nông thôn chiếm gần 100% dân số của huyện; số ngƣời trong độ tuổi lao động là 56,7% (khoảng 80.000 ngƣời), trong đó khoảng 67.000 đang hoạt động trong các ngành kinh tế chiếm 46,5% dân số của huyện. Về cơ bản, huyện đã hoàn thành chƣơng trình xóa mù chữ và phổ cập tiểu học và trung học cơ sở ở 11/11 xã. Phần lớn lao động đều có trình độ từ tiểu học trở lên, tuy nhiên nó vẫn còn thấp so với mặt bằng chung của tỉnh và cả nƣớc. Lực lƣợng lao động đã qua đào tạo của huyện tập trung chủ yếu ở các ngành: công nghiệp chế biến, thủy sản, xây dựng và giáo dục – đào tạo (chiếm 20,4% đội ngũ lao động). Tính đến giữa năm 2011, trong khoảng 67.000 lao động thì đa số có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp và phần lớn hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và lâm nghiệp; trình 175
  6. độ từ sơ cấp hoặc chứng chỉ nghề trở lên chiếm khoảng 20.000 ngƣời, trình độ lao động cao đẳng và đại học chỉ khoảng 3.000 ngƣời. Cơ cấu trình độ đào tạo lao động tính theo tỷ lệ giữa lao động trình độ đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật là 1:1, 48:1; Đây là một cơ cấu bất hợp lý và kéo dài dẫn tới tình trạng thừa thầy, thiếu thợ, kỹ sƣ làm công việc của cán bộ trung cấp kỹ thuật. Về cơ cấu đội ngũ lao động ở các cơ sở sản xuất của huyện, thì công nhân và đội ngũ lao động giản đơn hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm 71%, đội ngũ công nhân đã qua đào tạo kỹ thuật, quản lý, phát minh và đổi mới công nghệ chiếm 29%; trong đó khi so sánh với các huyện khác và các nƣớc phát triển thì tỷ lệ ấy lại ngƣợc lại là 28% và 72%. Có thể nói, cơ cấu trình độ lực lƣợng lao động của huyện, thì tỷ lệ lao động qua đào tạo không chỉ quá thấp mà còn bất hợp lý. Huyện không chỉ thiếu cán bộ trên đại học, đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp mà còn thiếu cả công nhân kỹ thuật lành nghề và thiếu hụt nghiêm trọng hơn cả là chuyên gia đầu ngành. Mặc dù còn nhiều bất cập trong việc nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực, nhƣng trong nhiều năm qua huyện cũng đã cố gắng trong việc cải thiện chất lƣợng nguồn nhân lực ở địa phƣơng. Cụ thể, hiện nay trình độ văn hóa và trình độ khoa học – kỹ thuật của dân số hoạt động kinh tế (những ngƣời từ 15 tuổi trở lên đang làm việc và thất nghiệp, đang tìm việc làm) không ngừng nâng lên. Về trí lực của nguồn lực con ngƣời của huyện Hồng Ngự đƣợc đánh giá là có tƣ chất thông minh, sáng tạo, có khả năng vận dụng và thích ứng nhanh. Đây là ƣu thế nổi trội của nguồn nhân lực của địa phƣơng. Bên cạnh đó, độ tuổi của lực lƣợng lao động ở huyện Hồng Ngự cũng là vấn đề đáng quan tâm. Hiện nay, Hồng Ngự đƣợc coi là địa phƣơng có lực lƣợng lao động trẻ, 45% số ngƣời trong độ tuổi lao động là thanh niên ( từ 16 – 35 tuổi) và hàng năm có khoảng 2500 ngƣời bƣớc vào độ tuổi lao động. Những năm gần đây, tầm vóc và thể lực của ngƣời dân huyện Hồng Ngự từng bƣớc đƣợc cải thiện về chiều cao, cân nặng, tỷ lệ suy dinh dƣỡng và tuổi thọ, song vẫn còn kém hơn nhiều so với các địa phƣơng khác. Tỷ lệ suy dinh dƣỡng của huyện còn khá cao. Theo số liệu thống kê chƣa đầy đủ thì vẫn còn khoảng 60% trẻ nhỏ sinh ra ở huyện bị thiếu máu, chủ yếu do chế độ ăn uống thiếu chất sắt. Hiện nay, trên toàn huyện còn 12% dân cƣ chƣa đƣợc dùng nƣớc sạch trong sinh hoạt hằng ngày. 176
  7. Tình trạng ô nhiễm nguồn nƣớc, đất, không khí, thực phẩm…dẫn đến các căn bệnh truyền nhiễm diễn ra ở nhiều địa bàn của huyện. Về sức khỏe sinh sản ở huyện hiện nay đang đứng trƣớc nhiều khó khăn, thách thức mới, đòi hỏi phải thay đổi cơ bản và mạnh hơn nữa về chất lƣợng dịch vụ và chăm sóc sức khỏe của các trạm y tế xã và đặc biệt là phải có một trung tâm y tế bệnh viện đa khoa huyện. Tỷ lệ phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ bị thiếu năng lƣợng thƣờng xuyên diễn ra khoảng gần 40%, trong đó nam giới là khoảng 25%. Tỷ xuất mẹ chết do các nguyên nhân sinh đẻ và thai nghén ở huyện vẫn còn ở mức 1,42%. Trong thời gian qua, huyện Hồng Ngự đã đạt đƣợc những kết quả đáng khích lệ, thu nhập bình quân đầu ngƣời của huyện đạt gần 20 triệu đồng/năm, huyện đã đạt đƣợc những tiến bộ vƣợt bậc về xóa đói giảm phần lớn bắt nguồn từ tốc độ tăng trƣởng kinh tế của huyện. Tuy nhiên, bên cạnh những dấu hiệu đáng mừng, thì thực trạng phát triển nguồn lực con ngƣời của huyện còn rất nhiều hạn chế, chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, sự nghiệp CNH – HĐH. Do vậy, vấn đề đặt ra là để phát triển nguồn lực con ngƣời, chính quyền địa phƣơng phải giải quyết hàng loạt các vấn đề cấp bách, phải đƣa ra các giải pháp quan trọng, thiết thực. Nhƣ vậy, mới mong đạt đƣợc mục tiêu có nguồn lực con ngƣời chất lƣợng cao đáp ứng đƣợc yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của địa phƣơng. Nhƣ vậy, hiện tại nguồn lực con ngƣời ở huyện Hồng Ngự chƣa đáp ứng đƣợc những yêu cầu mà quá trình CNH, HĐH đòi hỏi. Nhƣng sẽ là siêu hình và không thể nào thực hiện đƣợc nếu cho rằng phải xây dựng xong nguồn lực con ngƣời với mọi tiêu chí cần thiết rồi mới tiến hành CNH, HĐH. Mặc dù trong những năm qua, Hồng Ngự còn nhiều khó khăn nhƣng đội ngũ lao động của huyện ngày càng có trình độ cao hơn, từng bƣớc đáp ứng đƣợc nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn nhân lực trong các ngành kinh tế, giáo dục và y tế…bƣớc đầu có thể đảm đƣơng nhiệm vụ cải thiện và nâng cao chất lƣợng sống của nhân dân. Từ sự phân tích trên, có thể rút ra một số nhận xét bƣớc đầu về nguồn lực con ngƣời ở huyện Hồng Ngự hiện nay nhƣ sau: Một là, dân số của huyện đông, tốc độ tăng dân số tƣơng đối lớn, tạo ra lực lƣơng lao động trẻ và dồi dào, nhu cầu việc làm ngày càng tăng, giá lao động lại rẻ. Đây lại là lợi thế rất quan trọng của nguồn lực con ngƣời địa phƣơng; Hai là, có thể khẳng định, con ngƣời của huyện Hồng Ngự 177
  8. luôn có truyền thống hiếu học, trọng học. Trình độ học vấn ngày càng đƣợc nâng lên và có khả năng tiếp thu nhanh khoa học, công nghệ; Ba là, ngƣời dân của huyện có truyền thống đoàn kết, tinh thần dân tộc cao, có tinh thần hợp tác, cố kết cộng đồng chặt chẽ, đặt lợi ích dân tộc lên trên và trung thành với lợi ích đó. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt mạnh của nguồn lực con ngƣời của huyện nhƣ đã chỉ ra, thì còn những bất cập không nhỏ trong thực trạng nguồn lực con ngƣời của huyện hiện nay: Thứ nhất, chƣa có sự quy hoạch thống nhất, đồng bộ, thể hiện rõ tính tự phát trong việc khai thác và phát triển nguồn lực con ngƣời ở huyện; Thứ hai, cơ cấu lao động của huyện hiện nay chƣa hợp lý, còn nhiều bất cập; Thứ ba, lao động của huyện chủ yếu chƣa qua đào tạo nghề, chuyên môn kỹ thuật. Đây là một điểm yếu của nguồn nhân lực con ngƣời ở địa phƣơng hiện nay; Thứ tư, vấn đề lao động – việc làm – thu nhập đang là một vấn đề bức xúc ở huyện hiện nay. Thêm vào đó, việc khai thác và sử dụng số lao động đã qua đào tạo, có trình độ lại bất hợp lý và kém hiệu quả và hiện tƣợng chảy máu chất xám của huyện vẫn còn xảy ra. Bên cạnh đó, tình trạng xuống cấp về tƣ tƣởng, đạo đức và lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đã làm ảnh hƣởng tiêu cực đến chất lƣợng nguồn lực con ngƣời. Những hạn chế trên bắt nguồn từ những nguyên nhân sau: Thứ nhất, lao động chƣa đƣợc đào tạo bài bản, nhất là ở khu vực nông nghiệp, nông thôn. Thêm vào đó sự bất hợp lý trong cơ cấu lao động đƣợc đào tạo cũng nhƣ phân bố lao động giữa các ngành v.v… Đây là nguyên nhân cơ bản làm yếu đi đáng kể chất lƣợng nguồn lực con ngƣời ở huyện hiện nay; Thứ hai, ngƣời dân huyện Hồng Ngự trong lao động có thói quen dựa vào kinh nghiệm hơn là thực nghiệm khoa học, thích nghi hơn là cải tạo tự nhiên; Thứ ba, do tập quán của sản xuất nông nghiệp theo lối kinh tế tiểu nông; Thứ tƣ, do tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị trƣờng và mở rộng giao lƣu quốc tế, ngƣời dân Hồng Ngự nhất là thế hệ trẻ đã bộc lộ nhƣng xu hƣớng lệch lạc. 2.3. Một số giải pháp cơ bản nhằm khai thác và phát triển nguồn lực con ngƣời ở huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp hiện nay Thứ nhất, khuyến khích học tập, nâng cao trình độ, nhằm tạo ra nguồn lực con người có trình độ kỹ thuật, tay nghề cao trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của huyện. Trong thời gian tới, huyện 178
  9. Hồng Ngự cần có những thay đổi trong chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội của mình theo hƣớng chú trọng nhiều hơn đến nâng cao trình độ cho ngƣời lao động. Do đó, phải xem việc khuyến khích học tập, nâng cao trình độ là yêu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa địa phƣơng. Để nâng cao trình độ của ngƣời lao động, huyện cần chú trọng nâng cao chất lƣợng giáo dục của địa phƣơng. Nhận thức đƣợc điều đó Huyện ủy và Hội đồng nhân dân huyện cần đề ra nhiệm vụ quan trọng hiện nay là xây dựng đƣợc một đội ngũ lao động giỏi, có trình độ cao, đồng thời nâng cao dân trí, đào tạo một nguồn lao động trẻ có trình độ khoa học kỹ thuật, mang phẩm chất của ngƣời lao động công nghiệp. Thứ hai, xây dựng được đội ngũ cán bộ có trình độ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của huyện. Thực tiễn cho thấy một trong những nguyên nhân dẫn đến kinh tế - xã hội của huyện Hồng Ngự trong thời gian qua chƣa thực sự phát triển nhƣ mong muốn là do sự hạn chế, yếu kém của đội ngũ cán bộ, nhất là các cán bộ đứng đầu, những ngƣời kiến tạo cho toàn bộ tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Điều này đòi hỏi thời gian tới, Huyện ủy và Hội đồng nhân dân huyện cần tăng cƣờng hơn nữa công tác đào tạo, bồi dƣỡng về trình độ chuyên môn lẫn nghiệp vụ cho cán bộ chủ chốt, chú trọng việc nâng cao năng lực cán bộ đồng thời không ngừng bồi dƣỡng lý luận, nghiệp vụ tổ chức, lãnh đạo, năng lực đề ra và xây dựng các phƣơng án, kế hoạch về phát triển kinh tế - xã hội. Thứ ba, sử dụng, khai thác hợp lý nguồn lực con người hiện có của huyện. Vấn đề này càng trở nên cấp thiết đối với huyện Hồng Ngự, một địa phƣơng có nền sản xuất nhỏ, lạc hậu. Lực lƣợng lao động thƣờng trực ngày càng đông đảo, lại đang bƣớc vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy, cần thiết phải tạo ra đƣợc nhiều việc làm cho ngƣời lao động, phấn đấu tỷ lệ lao động có việc làm ngày càng tăng là nhiệm vụ thiết yếu và trở thành một biện pháp quan trọng trong chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội ở của huyện Hồng Ngự hiện nay. Thứ tư, cần có chính sách bố trí, đãi ngộ đối với người lao động có trình độ cao của huyện. Đây là vấn đề phức tạp vì nó liên quan đến cả hệ thống chính trị, xã hội. Mặt khác lợi ích có vai trò đặc biệt quan trọng, là khâu nhạy cảm nhất trong toàn bộ chuỗi quy định nhân quả gây nên chuỗi hoạt động và phát huy tốt đa nhất trí lực và thể lực của nguồn lực con ngƣời ở huyện Hồng Ngự. Từ ý nghĩa của việc xác định 179
  10. vai trò, tính chất và đặc điểm của lợi ích, thì việc giải quyết vấn đề lợi ích, trong đó có chính sách tiền lƣơng phải đảm bảo nguyên tắc công bằng xã hội. Bên cạnh đó, có chính sách đãi ngộ thỏa đáng với những ngƣời có cống hiến xuất sắc cho xã hội chứ không chỉ cho sản xuất, nhất là với những ngƣời đã từng cống hiến một đời mình, kể cả xƣơng máu, cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do cho quê hƣơng, cho Tổ quốc. Làm đƣợc những điều trên đây chính là giải quyết đúng đắn vấn đề lợi ích, góp phần quyết định thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa và do đó, tạo động lực quan trọng kích thích tính tích cực của ngƣời lao động trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay của huyện. 3. Kết luận Huyện Hồng Ngự, hiện đang đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, trong đó thách thức về khai thác, phát huy nguồn lực con ngƣời đang đƣợc các cơ quan chức năng của địa phƣơng quan tâm, tìm giải pháp thực hiện. Đây đƣợc xem là khâu đột phá cho sự phát triển của huyện trong hiện tại và trong tƣơng lai. Việc quy hoạch, đào tạo nguồn nhân lực thành công sẽ giúp huyện Hồng Ngự có cơ hội tìm đƣợc lợi thế về nguồn nhân lực trẻ, dồi dào; rút ngắn khoảng cách phát triển của huyện với các địa phƣơng khác trong cả nƣớc. Nhƣ vậy, nguồn nhân lực nói chung và nguồn lực con ngƣời luôn đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp, địa phƣơng. Chính vì vậy, huyện Hồng Ngự coi nhiệm vụ phát triển nguồn lực con ngƣời là nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Để đạt đƣợc mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, huyện Hồng Ngự cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp nhằm phát triển và nâng cao chất lƣợng nguồn lực con ngƣời mà trƣớc hết là khuyến khích học tập, nâng cao trình độ, nhằm tạo ra nguồn lực con ngƣời có trình độ kỹ thuật, tay nghề cao trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của huyện; xây huyện; có chính sách thu hút, bố trí, đãi ngộ thỏa đáng đối với ngƣời lao động có trình độ nhằm tạo động lực kích thích tính tích cực của họ trong quá trình công nghiệp hóa, hiên đại hóa của huyện. Với xu thế phát triển của đất nƣớc và sự quyết tâm thực hiện các giải pháp nêu trên, huyện Hồng Ngự sẽ thoát khỏi một 180
  11. huyện nghèo và phát triển kinh tế - xã hội xứng đáng với tiềm năng sẵn có, đồng thời góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc, thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Tài liệu tham khảo [1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb, Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [2]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Giáo trình Triết học, Nxb, Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [3]. Phạm Minh Hạc (chủ biên, 1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb, Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [4]. Trần Văn Tùng - Lê Ái Lâm (1996), Phát triển nguồn nhân lực - kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội. [5]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội. [6]. C. Mác, Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb, Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [7]. http://hongngu.dongthap.gov.vn. 181
nguon tai.lieu . vn