- Trang Chủ
- Ngân hàng - Tín dụng
- Giải pháp nâng cao khả năng huy động vốn từ nguồn tín dụng cho xây dựng và phát triển nông thôn mới hướng tới tài chính toàn diện
Xem mẫu
- GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG HUY ĐỘNG VỐN TỪ NGUỒN
TÍN DỤNG CHO XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN MỚI
HƯỚNG TỚI TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN
ThS. Cao Anh Tuấn
ThS. Nguyễn Thị Lan Anh
Học viện Tài chính
Tóm tắt
Trong quá trình xây dựng và phát triển nông thôn mới hướng tới tài chính toàn diện thì vấn
đề về vốn đang là một thử thách đối với hộ gia đình, địa phương đã và đang thực hiện chương
trình xây dựng nông thôn mới. Đặc biệt để hướng tới việc cung cấp dịch vụ tài chính phù hợp và
thuận tiện cho mọi cá nhân và tổ chức, đặc biệt đối với người có thu nhập thấp và dễ bị tổn
thương nhằm tăng cường cơ hội tiếp cận tài chính, góp phần tạo cơ hội sinh kế, luân chuyển
dòng vốn đầu tư và tiết kiệm trong xã hội, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thực hiện
chương trình nông thôn mới. Thì ngay cả những địa phương đã đạt chuẩn chương trình nông
thôn mới thì vấn đề huy động vốn cũng cần có những giải pháp phù hợp.
Từ khóa: Huy động vốn, nông thôn mới, tín dụng nông nghiệp…
Tài chính toàn diện được coi là trụ cột quan trọng của tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo
bền vững, góp phần huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội. Đặc biệt trong giai đoạn
chúng ta đang thực hiện lồng các chính sách để xây dựng và phát triển nông thôn mới. Thì khả
năng huy động vốn từ nguồn tín dụng cho xây dựng và phát triển nông thôn mới hướng tới tài
chính toàn diện đang là vấn đề cần được giải quyết sớm trong những năm gần đây, tài chính toàn
diện đã trở thành một vấn đề được quan tâm trên phạm vi toàn cầu với mục tiêu phát triển hệ
thống tài chính phục vụ cho tất cả các thành viên trong xã hội, cung cấp các dịch vụ phù hợp và
thuận tiện với chi phí hợp lý cho mọi cá nhân và doanh nghiệp, qua đó góp phần vào sự phát triển
bền vững của quốc gia.
Tài chính toàn diện (Financial Inclusion) là việc cung cấp dịch vụ tài chính phù hợp và
thuận tiện cho mọi cá nhân và tổ chức, đặc biệt đối vơi người có thu nhập thấp và dễ bị tổn
thương nhằm tăng cường cơ hội tiếp cận tài chính, góp phần tạo cơ hội sinh kế, luân chuyển dòng
vốn đầu tư và tiết kiệm trong xã hội, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Các tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc, Ngân hàng Thế giới, Nhóm các nước G20 đều rất
chú trọng đến việc hỗ trợ và thúc đẩy các quốc gia thực thi các giải pháp để đạt được mục tiêu về
tài chính toàn diện. Đã có 55 nước đưa ra cam kết về thực thi tài chính toàn diện, hơn 30 nước
ban hành hoặc đang xây dựng chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện. Đứng trước xu hướng
chung đó, Việt Nam cần có quan điểm và định hướng như thế nào về tài chính toàn diện? Cùng
với đó là xây dựng các giải pháp gì để đạt được mục tiêu này? Nhất là trong bối cảnh công nghệ
số đang tạo nên những thay đổi nhanh chóng trong các hoạt động kinh tế - xã hội nói chung và
hoạt động tài chính nói riêng, từ đó mang lại nhiều cơ hội để thực thi tài chính toàn diện nhanh
chóng hơn, hiệu quả hơn, với chi phí thấp hơn. Vậy để xây dựng và phát triển nông thôn mới thì
Việt Nam có thể làm gì để sử dụng cơ hội này?
Thực tế cho thấy, việc tiếp cận dịch vụ tài chính ngân hàng, các nguồn vốn tín dụng chủ
yếu phát triển ở các thành phố lớn, đô thị còn ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa tiếp cận dịch
vụ tài chính ngân hàng còn rất hạn chế. Với hơn 70% dân số tập trung tại khu vực nông thôn,
chiếm khoảng 72% lực lượng lao động nhưng tỷ lệ tiếp cận dịch vụ ngân hàng hiện đại là rất hạn
chế. Dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn chiếm tỷ trọng tương đối cao so với tổng dư nợ cho
vay nền kinh tế (chiếm khoảng 28%) nhưng chủ yếu do hệ thống Agribank, Quỹ tín dụng nhân
371
- dân, một số ngân hàng thương mại Nhà nước còn các ngân hàng thương mại cổ phần khác vẫn
còn e ngại. Tổng dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn
chưa đạt đến 25%. Vì vậy Chính phủ cần có chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng điện tử và xác
định vai trò, trách nhiệm của các bên tham gia đối với việc xây dựng nông thôn mới.
Tại Việt Nam, hệ thống các chính sách huy động nguồn lực tài chính cho xây dựng nông thôn
mới (NTM) khá đa dạng. Tuy nhiên, nguồn lực xây dựng NTM thời gian qua chủ yếu vẫn là nguồn
đầu tư công và nguồn tín dụng. Mức độ tham gia của doanh nghiệp (DN), các tổ chức còn ít.
Nguồn lực tài chính xây dựng NTM rất đa dạng, bao gồm: nguồn ngân sách nhà nước
(NSNN), huy động từ cộng đồng, từ khu vực tín dụng và từ các DN. Trong đó, các nước chú
trọng huy động nguồn lực từ cộng đồng theo phương thức "nhà nước và nhân dân cùng làm" và
nguồn lực từ khu vực tín dụng. NSNN đóng vai trò là chất xúc tác, "vốn mồi" để thu hút
các nguồn vốn khác tham gia vào quá trình xây dựng NTM. Tại Việt Nam, thời gian qua, hệ
thống các chính sách huy động nguồn lực tài chính cho xây dựng NTM cũng khá đa dạng, từ các
chính sách hỗ trợ gián tiếp của nhà nước thông qua chính sách tín dụng hay chính sách chi NSNN
trực tiếp hoặc gián tiếp cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất, chính sách ưu đãi
thuế, bảo hiểm... Tuy nhiên, nguồn lực xây dựng NTM thời gian qua chủ yếu vẫn là nguồn đầu tư
công và nguồn tín dụng. Mức độ tham gia của DN, các tổ chức còn ít.
Cụ thể, giai đoạn 2011-2015, cả nước đã huy động được khoảng 851,38 nghìn tỷ đồng,
trong đó NSNN chiếm 31,3%,vốn tín dụng 435 nghìn tỷ đồng, chiếm 51,1%, vốn doanh
nghiệp (DN) chiếm khoảng 5%, nguồn đóng góp của nhân dân chiếm 12,6% . Đặc biệt, trong
giai đoạn 2014-2016, Thủ tướng Chính phủ đã phân bổ thêm 15.000 tỷ đồng từ nguồn trái
phiếu chính phủ.
Năm 2016, huy động cho phát triển NTM khoảng 322,5 nghìn tỷ đồng cho thực hiện
Chương trình NTM. Trong đó, nguồn huy động từ tín dụng đạt cao nhất 78,3%; tiếp đến là nguồn
từ NSNN chỉ khoảng 10% (do cuối năm mới giao kế hoạch vốn); hai nguồn huy động còn lại từ
DN và nhân dân đạt thấp.
Sang năm 2017, tổng nguồn lực huy động cho xây dựng khoảng 269,5 nghìn tỷ đồng, trong
đó nguồn NSNN chiếm khoảng 16%, nguồn huy động từ tín dụng 58,7%, còn lại là nguồn huy
động từ DN, nhân dân và nguồn lực khác. Nguồn huy động vốn đầu tư của DN vào nông nghiệp,
nông thôn còn hạn chế do chính sách ưu đãi đối với DN đầu tư vào nông nghiệp nông thôn còn
chưa đủ hấp dẫn và thực tế hiện cả nước có khoảng 1% tổng số DN đầu tư vào nông nghiệp với
số vốn chiếm khoảng 3% tổng số vốn đầu tư của khu vực DN vào sản xuất kinh doanh. Hơn thế,
chủ yếu là các DN có quy mô nhỏ, số DN có quy mô vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm trên 55%.
Nguồn huy động vốn đầu tư từ nông dân hiện còn ít, do thu nhập của dân còn thấp, và việc
đóng góp xây dựng NTM của người dân theo nguyên tắc tự nguyện, cũng chưa phải là khoản thu
bắt buộc… Để tăng cường huy động nguồn lực cho xây dựng NTM trong thời gian tới, Nhà nước
cần rà soát, hoàn thiện các chính sách thu NSNN theo hướng mở rộng cơ sở thu, tạo nguồn thu
cho ngân sách địa phương có thêm nguồn lực bền vững để xây dựng NTM.Theo đó, cần nghiên
cứu và ban hành Luật Thuế bất động sản theo các nghị quyết của Trung ương và thông lệ
tại nhiều quốc gia. Thu ngân sách từ thuế bất động sản đã trở thành một nguồn thu quan trọng cho
ngân sách địa phương và có xu hướng ngày càng mở rộng.
Tuy còn có sự khác biệt giữa các nhóm nước, song về tổng thể mức độ động viên ngân sách
từ thuế bất động sản của các nước đã có xu hướng tăng dần trong những thập niên vừa qua, từ
mức bình quân 0,77% GDP những năm 1970 lên mức 1,04% GDP những năm 2000. Các quốc
gia có thu nhập càng cao thì mức độ động viên từ thuế bất động sản có xu hướng ngày càng
cao… Đồng thời, cần tiếp tục thực hiện các biện pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất; tạo quỹ đất sạch để thực hiện đấu giá; đẩy mạnh việc thực hiện đấu giá
đất, giảm đối tượng giao đất...
372
- Cùng với đó, Nhà nước đẩy mạnh và thực hiện hiệu quả việc lồng ghép các chương trình,
dự án hỗ trợ có mục tiêu và huy động các nguồn vốn hợp pháp khác để thực hiện Chương trình
NTM; đôn đốc các địa phương đẩy nhanh tiến độ xử lý dứt điểm nợ đọng xây dựng cơ bản thuộc
Chương trình NTM theo nghị quyết của Quốc hội. Đặc biệt, Chính phủ cần rà soát và đánh giá
hiệu quả hoạt động của hệ thống các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách để cơ cấu lại các
quỹ, giảm áp lực chi từ NSNN cho các quỹ. Ngoài ra, chúng ta cần đẩy mạnh thực hiện chính
sách xã hội hóa, cơ chế tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công và cơ chế hợp tác công tư. Để giải
quyết vấn đề này tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn tín dụng
nhằm xây dựng và phát triển nông thôn mới theo hướng tài chính toàn diện như sau:
* Đối với các tổ chức tín dụng:
Một là, các TCTD nên phân bổ nguồn vốn đầu tư tín dụng nông nghiệp một cách hợp lý về
thời hạn, cơ cấu vốn đầu tư cũng như hạn mức vốn cho vay phù hợp với nhu cầu khách hàng và
phù hợp với đặc điểm cụ thể của từng vùng sản xuất, thực hiện phân bổ hạn mức tín dụng đối với
từng ngành để có thể thực hiện mục tiêu chuyển dịch CCKT nông nghiệp theo đúng sự chỉ đạo
của Nhà nước. Hiện nay, để phù hợp với xu hướng chuyển dịch CCKT nông nghiệp, các TCTD
cũng nên lựa chọn ưu tiên cho vay những mặt hàng có tiềm năng thị trường mà nông dân đang
cần vốn, tránh tình trạng cho vay tràn lan, phân tán dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp. Tăng mức cho
vay, thời hạn cho vay, giảm lãi suất cho vay phù hợp với quy luật sinh trưởng của cây trồng, vật
nuôi. Thực hiện phân bổ hạn mức tín dụng đối với từng lĩnh vực nông nghiệp để đảm bảo hoạt
động tín dụng nông nghiệp đang được thực hiện theo đúng mục đích, chủ trương của Nhà nước
và của địa phương về chuyển dịch CCKT nông nghiệp. Đồng thời chú trọng cho vay chương trình
phát triển hạ tầng và kinh tế nông thôn; cho vay lĩnh vực thủy sản, lâm nghiệp, cho vay đầu tư
nghiên cứu công nghệ sinh học tạo ra giống mới; áp dụng công nghệ chế biến, bảo quản nông
sản; hình thành các vùng chuyên canh lúa, vùng cây công nghiệp, cây ăn quả, vùng nuôi trồng và
khai thác thủy hải sản,... theo hướng sản xuất lớn có giá trị kinh tế cao phục vụ nhu cầu tiêu dùng
và xuất khẩu để tạo ra hiệu ứng chuyển dịch CCKT nông nghiệp nhanh và phù hợp với những thế
mạnh của địa phương.
Nguồn vốn các TCTD huy động được chủ yếu dưới dạng ngắn hạn, trong khi đó các dự án
vay vốn đầu tư vào các lĩnh vực trồng cây công nghiệp dài ngày, trồng rừng, chế biến nông lâm
sản, chăn nuôi đại gia súc, đóng tàu công suất lớn lại đòi hỏi vốn lớn và thời gian đầu tư dài. Vì
vậy, các TCTD nên tính toán, cân đối giữa khả năng cung ứng nguồn vốn và khả năng huy động
vốn để tránh tình trạng mất khả năng thanh toán do chênh lệch về kỳ hạn đồng thời tăng năng lực
thẩm định dự án, phương án vay vốn của cán bộ tín dụng để loại bỏ những phương án SXKD có
hiệu quả thấp, khó có khả năng thu hồi vốn vay.
Hai là, các TCTD nên phối hợp với chính quyền địa phương, các phương tiện thông tin đại
chúng để triển khai, phổ biến các chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước đối với khu vực nông
nghiệp đến người dân một cách kịp thời tạo cơ sở cho việc tăng số lượng khách hàng, tăng doanh
số cho vay cũng như mức dư nợ.
Các TCTD trên địa bàn nên phối hợp với chính quyền địa phương các cấp, đặc biệt là cấp
xã phường, các tổ chức hội, đoàn thể và các phương tiện truyền thông tăng cường việc tuyên
truyền, tư vấn cho các cá nhân, DN về mục đích của từng chương trình hỗ trợ vốn vay và bản
chất của nguồn vốn TDNN để nâng cao nhận thức của công chúng về ý nghĩa của loại hình tài trợ
này. Ngoài ra, các cấp chính quyền nên đẩy nhanh việc giao đất lâu dài cho người dân, thực hiện
chính sách dồn điền, đổi thửa để người nông dân có ruộng đất phát triển sản xuất nông nghiệp với
quy mô lớn, tiếp cận nguồn vốn tín dụng dễ dàng hơn.
Ba là, tăng cường thực hiện các chính sách tín dụng hỗ trợ lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn
theo hướng đơn giản hóa thủ tục cho vay, lãi suất linh hoạt, đa dạng hóa hình thức cho vay theo
tổ nhóm. Thời gian qua, phương thức cho vay ủy thác theo tổ, nhóm, hội, đoàn thể đã thể hiện
tính hiệu quả, hầu hết các khoản vay đều thu hồi đầy đủ vốn gốc và lãi vay đúng hạn. Tuy nhiên,
373
- qui mô cho vay không lớn, các khoản vốn vay thông qua hình thức này là những khoản cho vay
nhỏ, lẻ, giá trị thấp chỉ phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng hoặc đầu tư sản xuất qui mô nhỏ, chưa tạo
được tác động mạnh mẽ đến các hoạt động phát triển nông nghiệp mang tính đột phá. Một số NH
như Ngân hàng NN&PTNT, NH CSXH cũng đã giảm dần việc cho vay trực tiếp, dần chuyển
sang cho vay ủy thác qua các tổ chức, đoàn thể. Sự tham gia của các cấp chính quyền địa phương
đã hỗ trợ tích cực cho các NH trong khâu lựa chọn đối tượng cho vay, thu hồi nợ theo định kỳ.
Các NH cũng nên xem xét chính sách trả thù lao xứng đáng cho các tổ chức, đoàn thể đã kết hợp
chặt chẽ với NH trong việc cho vay theo chủ trương, chính sách của Nhà nước đối với lĩnh vực
nông nghiệp, nông thôn.
Các TCTD nên rút ngắn thời gian thẩm định hồ sơ tín dụng, tạo thuận lợi cho khách hàng
trong vay vốn, tiếp tục thực hiện ưu đãi về lãi suất, điều kiện vay vốn, điều kiện trả nợ gốc và lãi,
miễn giảm lãi vay và nợ gốc khi người vay gặp khó khăn khách quan. Hầu hết các chương trình
cho vay lĩnh vực nông nghiệp đều có lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất thị trường với các điều
kiện ưu đãi, đây là ưu điểm của hình thức tài trợ này song vô hình sẽ tạo nên sự ỷ lại, thiếu trách
nhiệm của người vay. Do vậy cũng cần tuyên truyền về mục đích của hình thức tài trợ là nhằm
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người dân để
nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân trong việc sử dụng vốn vay.
Trong các chương trình cho vay đối với các hộ nông dân cần có sự phối kết hợp với các tổ
chức khuyến nông, khuyến ngư, khuyến lâm, các hiệp hội nghề nghiệp để tư vấn cho người vay
về kỹ thuật sản xuất, thông tin thị trường: đầu vào, đầu ra, giá cả. Thường các hộ nông dân không
chỉ thiếu vốn mà còn thiếu cả thông tin, kinh nghiệm, kỹ thuật sản xuất, cách thức sử dụng vốn
sao cho có hiệu quả... Sự hỗ trợ này là hết sức cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay
của các hộ gia đình, hạn chế rủi ro trong việc thu hồi nợ.
Bốn là, tính toán qui mô tín dụng cần thiết cho khu vực nông nghiệp, nông thôn phù hợp
với thực tế.
Để có thể đạt được mục tiêu xây dựng nông thôn mới trong thời gian tới, các TCTD cần dự
báo, xác định rõ nhu cầu về vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn để chuẩn bị nguồn vốn phục vụ cho khu vực này. Tùy thuộc vào mức độ cần thiết phải
hỗ trợ cho các dự án, tính hiệu quả kinh tế cũng như hiệu quả về mặt xã hội mà nó mang lại, nên
kết hợp chặt chẽ giữa hình thức tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và tín dụng ngân hàng
thương mại thông qua hình thức cho vay hợp vốn, xác định tỷ lệ tài trợ của từng nguồn vốn phù
hợp với đối tượng vay, đẩy mạnh khai thác nghiệp vụ bảo lãnh tín dụng. Đồng thời cần căn cứ
vào quy hoạch xây dựng nông thôn mới nói chung, quy hoạch phát triển sản xuất nông, lâm
nghiệp, thủy sản của từng tỉnh trong vùng nói riêng để xây dựng dự án đầu tư vốn cho từng đối
tượng vay, phù hợp với qui hoạch xây dựng nông thôn mới của từng địa bàn.
Năm là, tăng khả năng tiếp cận tín dụng cho DN và nông dân thông qua cho vay theo chuỗi
ngành hàng, lấy DN thu mua, chế biến làm trung tâm. Ngân hàng cung cấp tín dụng ưu đãi cho
các DN kinh doanh trong các ngành hàng có tiềm năng thị trường, có vùng nguyên liệu, có hợp
đồng nông sản với nông dân. DN sử dụng khoản vay để ứng trước vốn, giống, vật tư, thiết bị cho
nông dân có hợp đồng nông sản, đồng thời cần tính tới việc tăng tính linh hoạt về vốn cho nông
dân. Để vốn tín dụng đầu tư hiệu quả, thì phải có quy hoạch từng nhóm ngành, từng vùng sản
xuất cụ thể. Khi có sự liên kết giữa ngân hàng, nông dân và DN thì tín dụng sẽ bền vững, không
cần thế chấp cho khoản vay nhưng vẫn hiệu quả.
Sáu là, các TCTD cần tiếp tục rà soát, chỉnh sửa qui trình tín dụng trình cấp có thẩm quyền
xử lý các khó khăn, vướng mắc liên quan đến cơ chế cho vay nhằm nâng cao chất lượng tín dụng;
đơn giản hóa thủ tục cho vay để tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng được hưởng chính sách
ưu đãi trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn được tiếp cận và hưởng lợi từ chính sách, cơ chế tín
dụng ưu đãi của Nhà nước.
374
- Bảy là, các NH cần tham gia vào việc phát triển mô hình ba nhà (ngân hàng - hộ nông dân -
DN cung ứng dịch vụ đầu vào: thức ăn chăn nuôi, phân bón,..) và mô hình bốn nhà (ngân hàng -
hộ nông dân - DN cung ứng nguyên liệu đầu vào và DN tiêu thụ sản phẩm hàng hóa nông
nghiệp). Theo mô hình này, vốn đầu tư cho khách hàng được thực hiện theo chu trình khép kín:
NH cung ứng vốn cho khách hàng mua các yếu tố đầu vào từ các DN thông qua dịch vụ thanh
toán của NH, hoặc hỗ trợ cho việc bán các sản phẩm đầu ra cho các DN tiêu thụ. Những DN cung
ứng yếu tố đầu vào, DN tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp được ngân hàng cho vay chỉ định hoặc có
các DN này có mối quan hệ thường xuyên lâu dài với ngân hàng. Mô hình này sẽ tăng tính liên
kết chặt chẽ giữa ngân hàng với khách hàng vay vốn cũng như các DN cung ứng yếu tố đầu vào,
DN tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho nông nghiệp. Các NH có thể bám sát chu kỳ hoạt động SXKD
của khách hàng, cung ứng vốn có hiệu quả và thu hồi nợ vay kịp thời. Đây là mô hình hiệu quả đã
được triển khai ở một số địa phương như An Giang, Long An,... Mô hình này tạo điều kiện thúc
đẩy hoạt động sản xuất - kinh doanh lĩnh vực nông nghiệp phát triển đồng thời tạo điều kiện cho
chính các TCTD tăng trưởng tín dụng an toàn và hiệu quả.
* Đối với Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Nhà nước nên ban hành chính sách cấp bù lãi suất kịp thời cho những tổ
chức tín dụng cho vay ưu đãi lĩnh vực nông nghiệp, cần quy định rõ trách nhiệm xử lý của
Chính phủ khi có rủi ro tín dụng xảy ra để các tổ chức tín dụng yên tâm hơn trong việc thực
hiện nhiệm vụ này.
NHNN nên ban hành các chính sách ổn định đối tượng tín dụng và lĩnh vực đầu tư trong
một khoảng thời gian nhất định, ít nhất là 5 năm để tạo điều kiện cho các TCTD thực hiện tốt các
chính sách ưu đãi cũng như tạo tâm lý yên tâm cho các nhà đầu tư, các đối tượng được hưởng
chính sách ưu đãi, tạo động lực thu hút đầu tư cho xây dựng và phát triển nông thôn mới.
Về điều kiện ưu đãi: cần áp dụng chính sách ưu đãi về mức cho vay, về lãi suất hơn cho các
đối tượng tín dụng ở các huyện, xã đặc biệt khó khăn để tạo điều kiện cho các DN ở những vùng
này có cơ hội tiếp cận với nguồn vốn giá rẻ, tăng mức đầu tư để thúc đẩy quá trình xây dựng
nông thôn mới ở những vùng này. Chẳng hạn như nâng mức cho vay đối với các dự án đầu tư vào
các vùng đặc biệt khó khăn từ 70% - 85% mức vốn đầu tư; Xác lập và triển khai chương trình hỗ
trợ vốn cho các khu vực kinh tế tư nhân, nhất là các DN nhỏ và vừa; trong đó, hỗ trợ vốn cho cả
hai loại: đầu tư ban đầu để hình thành DN và bảo lãnh vốn vay cho DN.
NHNN cần tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả tín dụng đối với người nghèo - một bộ
phận không nhỏ góp phần xây dựng nông thôn mới bền vững. Trước hết, các chính sách giảm
nghèo phải thường xuyên được tổ chức rà soát, phù hợp với từng nhóm đối tượng, từng địa bàn,
đầu tư có trọng điểm, ưu tiên vốn cho vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Chính phủ,
NHNN cần nghiên cứu, tăng mức cho vay tối đa cho vay đối với hộ nghèo.
NHNN cần tạo điều kiện để các TCTD đẩy mạnh phát triển mạng lưới tín dụng nông thôn,
tiếp tục dành nguồn vốn tín dụng ưu đãi đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, khuyến khích các
ngân hàng, tổ chức tín dụng cho vay vốn với cơ chế ưu đãi đối với nông nghiệp. Tìm cách đưa tín
dụng trực tiếp đến tay nông dân thông qua hình thức cho vay qua tổ nhóm, lựa chọn ưu tiên với
các mặt hàng có tiềm năng thị trường mà nông dân đang cần vốn đầu tư.
* Đối với hộ gia đình và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn
Trong điều kiện nền kinh tế chưa phát triển, người dân có thu nhập thấp, khả năng tích lũy
vốn rất hạn chế. Hầu hết các hộ gia đình, các DN đều gặp khó khăn về vốn để phát triển kinh tế
và phần lớn đều mong muốn được vay vốn tín dụng. Để các hộ gia đình nông dân và các DN tiếp
cận dễ dàng với được với vốn vay từ phía các TCTD cũng như khắc phục được tình trạng thiếu
vốn thì chính họ cần phải đổi mới theo hướng.
375
- Nâng cao khả năng quản lý tài chính, nâng cao năng lực lập phương án sản xuất - kinh
doanh và dự án đầu tư. Nhu cầu vay vốn của các nông hộ cũng như các DN hoạt động trong lĩnh
vực nông nghiệp, nông thôn rất lớn, tuy nhiên số khách hàng được đáp ứng nhu cầu vay lại hạn
chế. Để có thể huy động được vốn vay từ phía các NHTM, các hộ gia đình, DN cần phải có
những chiến lược kinh doanh cụ thể, trong hoạt động SXKD các DN phải chứng minh được dự
án hoạt động khả thi, lợi ích về mặt kinh tế, chứng minh sự minh bạch về tài chính, kiện toàn bộ
máy kế toán theo hướng nâng cao năng lực lập các báo cáo tài chính và tư vấn cho các nhà quản
lý doanh nghiệp, hoàn chỉnh hệ thống sổ sách kế toán tạo thuận tiện cho các NHTM trong việc
theo dõi hoạt động SXKD, từ đó nhanh chóng đưa ra quyết định cho vay vốn. Đồng thời, nâng
cao chất lượng lập dự án đầu tư và phương án sản xuất kinh doanh của các DN, các hộ gia đình là
rất cần thiết. Dự án đầu tư và phương án sản xuất kinh doanh khả thi, tạo ra hiệu quả cao, có đủ
nguồn thu để trả nợ là bằng chứng thuyết phục các TCTD cho vay. Vì vậy, để đáp ứng được yêu
cầu trong quá trình lập dự án thì các chủ DN, các chủ hộ phải không ngừng tự hoàn thiện, nâng
cao trình độ và cũng rất cần sự tư vấn, trợ giúp từ phía các tổ chức hỗ trợ DN, các TCTD. Các
doanh nghiệp nông nghiệp nên cử cán bộ tham gia các lớp đào tạo các kỹ năng nâng cao năng lực
tài chính và quản lý tài chính hiệu quả trong doanh nghiệp như kỹ năng lập báo cáo tài chính, kỹ
năng phân tích tài chính; kỹ năng sử dụng đòn bẩy tài chính; quản lý dòng tiền hoạt động đầu tư,
kỹ năng lập dự án đầu tư, phương án SXKD...
Xây dựng NTM là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta nhằm phát triển sản xuất nông
nghiệp, nâng cao mức sống của cư dân ở nông thôn. Tài chính toàn diện là đảm bảo sự công bằng
và phát triển bền vững cho các đối tượng khó tiếp cận với các dịch vụ tài chính đặc biệt là tín
dụng. Vì vậy trong quá trình xây dựng nông thôn mới để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho người dân; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phù hợp; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ
chức sản xuất hợp lý, gắn phát triển nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông
thôn với đô thị; xã hội nông thôn dân chủ, bình đẳng, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi
trường sinh thái được bảo vệ; quốc phòng và an ninh, trật tự được giữ vững. Quá trình xây dựng
nông thôn mới ở nước ta đã và đang không ngừng được đẩy mạnh dựa trên phong trào thi đua
“Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”. Mặc dù đã đạt được một số thành công bước đầu,
nhưng thực tế vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, khó khăn nhất là dưới góc độ huy động vốn và các
nguồn lực, nguồn lực tài chính đáp ứng nhu cầu xây dựng đồng thời không ngừng phát triển nông
thôn mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Điền (1997), Công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn các nước châu Á và Việt
Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Lê Quốc Lý (2012), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn - Vấn đề và
giải pháp, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1997), Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn các
nước châu Á và Việt Nam, Hà Nội.
4. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2009), Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn kinh
nghiệm Việt Nam, kinh nghiệm Trung Quốc, Hà Nội. 55. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật
(2011), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn từ lý luận đến thực tiễn ở Việt Nam
hiện nay, Hà Nội.
5. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật (2011), Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991-2011), Hà Nội.
6. Nhà xuất bản Nông nghiệp (2001), Công nghiệp hóa từ nông nghiệp - Lý luận thực tiễn và
triển vọng áp dụng ở Việt Nam, Hà Nội.
376
nguon tai.lieu . vn