Xem mẫu

  1. VĂN HÓA TRUNG - CẬN ĐẠI GIÁ TRỊ NHÂN VĂN TRONG HUẤN DÂN ĐẠI CÁO CỦA LÊ THÁNH TÔNG HOÀNG VĂN THẢO Tóm tắt Dưới thời vua Lê Thánh Tông, Nho giáo đã có chỗ đứng vững chắc trong đời sống chính trị và dần lan tỏa trong đời sống xã hội. Với chủ trương lấy các giá trị đạo đức của Nho giáo như “Tam cương, ngũ thường”, “Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa”,... làm cở sở để xây dựng một đường lối trị nước thân dân mang đậm tính nhân văn, Lê Thánh Tông đã ban hành Huấn dân đại cáo nhằm đưa các giá trị đạo đức Nho giáo thấm sâu hơn nữa vào đời sống tinh thần của người dân ở các làng quê. Từ khóa: Giá trị nhân văn, Huấn dân đại cáo, Lê Thánh Tông, Nho giáo Abstract Under the reign of King Le Thanh Tong, Confucianism had a firm position in political life and gradually spread in social life. With the policy of taking the moral values of Confucianism such as “Three rules, five virtues”, “Loyal, Filial piety, Humanity, Righteousness”,... as a basis to build a way to govern the country and treat people which is full of humanity, Le Thanh Tong issued the People Training - great proclamation (Huấn dân đại cáo) to make the Confucian moral values endosmosis more deeply into the spiritual life of the people in every village. Keywords: Human values, People training - great proclamation, Le Thanh Tong, Confucianism N ho giáo ra đời ở Trung Quốc vào Dưới thời vua Lê Thánh Tông (1442 - 1497), thế kỷ VI TCN và đã được du nhập nhà nước Đại Việt đạt được sự phát triển cực vào Việt Nam từ hàng ngàn năm thịnh về mọi mặt từ kinh tế, chính trị, quân sự lịch sử trước. Trải qua quá trình du nhập và cho đến văn hóa, giáo dục thi cử. Cùng với sự phát triển lâu dài, đến thế kỷ XV, nó đã có vị ảnh hưởng mạnh mẽ của Nho giáo trong đời trí quan trọng trong kiến trúc thượng tầng của sống chính trị, Lê Thánh Tông đã ban hành xã hội phong kiến Việt Nam, đồng thời cũng Huấn dân đại cáo nhằm đưa các giá trị đạo đức chi phối mạnh mẽ đến tư tưởng và đời sống Nho giáo thấm sâu hơn nữa vào đời sống tinh tinh thần của nhân dân. Sự ảnh hưởng của thần của người dân ở làng quê. Trải qua 500 nó không chỉ ở lĩnh vực chính trị và giới hạn năm lịch sử, tinh thần của Huấn dân đại cáo trong giai cấp quý tộc mà nó còn đi sâu vào đời vẫn có những giá trị to lớn đối với công cuộc sống sinh hoạt thường ngày của người dân từ xây dựng, giáo dục giá trị nhân văn cho con thành thị cho đến thôn dã. Những giá trị đạo người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. đức căn bản của Nho giáo như “Tam cương, 1. Quá trình ảnh hưởng của Nho giáo đến ngũ thường”, “Tam tòng, tứ đức”, “Trung, Hiếu, nông thôn Việt Nam Nhân, Nghĩa”,... được đưa vào giáo dục trong Nho giáo du nhập vào Việt Nam từ khoảng các gia đình và được coi là chuẩn mực đạo đức cuối thế kỷ thứ II TCN gắn liền với sự xâm lược để đánh giá về nhân cách một con người. của nhà Hán từ phương Bắc. Lúc này, Nho Số 30 (Tháng 12 - 2019) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 35
  2. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU giáo đã trở thành hệ tư tưởng chính thống và Đến thế kỷ X, phong trào đấu tranh chống giữ vai trò thống trị tuyệt đối trong kiến trúc Bắc thuộc của dân tộc đã giành thắng lợi. Nhu thượng tầng của nhà Hán. cầu cấp thiết của giai cấp phong kiến Việt Khi mới du nhập vào nước ta, Nho giáo là vũ Nam lúc này là củng cố và xây dựng nền độc khí tinh thần của quân xâm lược để đồng hóa lập tự chủ non trẻ của dân tộc. Trước yêu cầu nhân dân ta nên nó gặp rất nhiều khó khăn khách quan đó, Nho giáo đã có những đóng trong quá trình tiếp cận với đời sống tinh thần góp đáng kể trong việc xây dựng nhà nước người Việt. Hơn nữa, để xây dựng được chế độ phong kiến tập quyền trung ương. Thông qua quân chủ chuyên chế tập quyền trung ương, giáo dục thi cử, từ thế kỷ XII trở đi, Nho giáo nhà Hán đã đẩy những quan hệ cơ bản trong dần dần có được vị trí trong kiến trúc thượng xã hội như: Vua - tôi, cha - con, chồng - vợ,... tầng của xã hội. Dưới các triều Lý - Trần, triều lên mức tuyệt đối, một chiều; đẩy những yếu đình và tầng lớp nho sĩ cũng đã tìm mọi cách tố đạo đức của Nho giáo như “Trung”, “Hiếu” mở rộng sự ảnh hưởng và đưa Nho giáo về với lên mức cực đoan, khắc nghiệt; đưa ra các đời sống sinh hoạt hàng ngày ở làng quê. Tuy phạm trù “Tam tòng”, “Tứ đức” để ràng buộc vậy, phải đến nửa cuối thời Trần (thế kỷ XIV) và hạ thấp vai trò của phụ nữ, đẩy tư tưởng trở về sau, khi Phật giáo bắt đầu mất dần vai “trọng nam khinh nữ” lên cao. Trong khi đó, xã trò thống trị trong kiến trúc thượng tầng thì hội Việt Nam ở những thế kỷ II - I TCN vẫn còn Nho giáo mới có cơ hội và điều kiện để khẳng chịu ảnh hưởng sâu sắc của hình thái công xã định vị thế của mình. Đặc biệt, khi nhà Lê được nguyên thủy, dấu ấn của chế độ mẫu hệ vẫn thành lập ở thế kỷ XV đã lấy Nho giáo làm hệ tư ảnh hưởng rất sâu đậm trong đời sống tinh tưởng chính thống, đưa Nho giáo lên vị trí độc thần của nhân dân, đặc biệt là ở nông thôn tôn trong kiến trúc thượng tầng xã hội, mở ra và đời sống dân gian. Chính vì thế, tư tưởng giai đoạn phát triển cực thịnh của Nho giáo ở “trọng nam, khinh nữ”, tính khắc nghiệt cực Việt Nam. đoan trong các quan hệ xã hội của Hán Nho là một trở ngại vô cùng lớn để nó có thể hòa Từ sự xác lập vị thế trong kiến trúc thượng nhập với đời sống tinh thần vốn có của người tầng, Nho giáo bắt đầu thâm nhập mạnh hơn Việt. Trong khi đó, Phật giáo với tinh thần “từ về làng quê, nhằm tạo ra một xã hội với sự bi hỷ xả”, mềm dẻo, khoan dung cũng được du thống trị và ảnh hưởng tuyệt đối của nó. Giáo nhập vào nước ta. Nó đã nhanh chóng thích dục thi cử của Nho giáo đã hoàn thiện và phổ nghi, hòa nhập và trở thành một thành tố biến từ trung ương đến địa phương. Triều đình quan trọng trong đời sống tinh thần của người nhà Lê rất coi trọng việc phổ biến Nho học Việt, đặc biệt là ở tầng lớp dưới, ở các làng quê. về làng xã nên hàng năm đều in sách phát Với những trở ngại như vậy nên suốt nghìn miễn phí đến tận các phủ, huyện. Trong đó, năm Bắc thuộc, sự ảnh hưởng của Nho giáo ở Lê Thánh Tông là người rất chú trọng đến việc nước ta mới chỉ dừng lại ở các trung tâm chính chuyển tải tư tưởng và giáo lý Nho giáo xuống trị, các đô thị lớn và ở tầng lớp quý tộc thống đến tận cơ sở xã thôn, gia đình, đến các giai trị mà chưa ảnh hưởng đến vùng nông thôn. tầng xã hội. Năm 1461, tức chỉ hơn một năm Mặc dù số lượng nho sĩ người Việt cũng đông sau khi lên ngôi, ông đã cho ban bố Huấn dân dần lên, sự học hành Nho học được khuyến đại cáo (bao gồm 24 điều cốt yếu) để giảng khích và đã có những nho sĩ người Việt thành dạy, tuyên truyền trong nhân dân. Việc ban danh như Lý Cầm, Lý Tiến, Khương Công Phụ, hành Huấn dân đại cáo là một trong những Khương Công Phục,... nhưng đó chỉ là những dấu ấn quan trọng nhất đánh dấu sự thâm trường hợp cá biệt chứ không phải phổ biến nhập của Nho giáo trong đời sống văn hóa trong xã hội Việt Nam thời kỳ này. nông thôn Việt Nam. 36 Số 30 (Tháng 12 - 2019)
  3. VĂN HÓA TRUNG - CẬN ĐẠI 2. Những giá trị nhân văn trong Huấn dân hình thành cho con người đức hiếu, đễ - là nền đại cáo tảng của các phẩm chất đạo đức khác. Một Theo Thiên Nam dư hạ tập [7], Huấn dân đại người con bất hiếu sẽ không thể trở thành một cáo có tất cả 24 điều giáo huấn. Trong đó, điều tôi trung, cho nên Hiếu, Đễ là gốc của Trung. 1 và 2 quy định trách nhiệm của cha mẹ trong Tiếp tục quan điểm đề cao đạo đức cá nhân việc dạy dỗ con cái, trách nhiệm của gia trưởng của Nho giáo truyền thống, đến giai đoạn đối với gia đình; điều 3 quy định về quan hệ vợ Tống Nho, các nhà nho (tiêu biểu là Trình Di, chồng; điều 4 quy định quan hệ anh em trong Trình Hạo, Chu Hy,...) đã phát triển quan điểm gia đình; điều 5 đề cập đến các mối quan hệ với này lên mức cao nhất, coi đạo đức như là một họ hàng làng xóm; điều 6, 7, 8, 9, 10 quy định quy luật của trời đất và được gọi là “thiên lý”. đạo lý và bổn phận của người phụ nữ; điều 11, Từ năm 1407 đến 1427, khi nhà Minh tiến 12 quy định nhiệm vụ và bổn phận của kẻ sĩ; hành Bắc thuộc lần thứ hai ở nước ta, quân điều 13 quy định bổn phận, trách nhiệm của xâm lược đã quyết tâm hủy diệt nền văn minh quân, dân; điều 14 quy định trách nhiệm của mà người Việt đã xây dựng được trong 5 thế kỷ người buôn bán; điều 15 quy định việc cưới gả, độc lập tự chủ trước đó. Chúng đẩy mạnh hơn tế tự; điều 16 quy định về tục chèo hát, hội hè; nữa việc truyền bá các học thuyết từ phương điều 17 quy định việc hàng quán, nhà trọ; điều Bắc xuống nước ta, Tống Nho vì thế cũng đã 18 quy định về giữ thuần phong mỹ tục; điều được đưa vào đời sống tinh thần của người 19 quy định việc giảng giải cáo dụ; điều 20 Việt. Khi khởi nghĩa thành công, xây dựng triều quy định việc tố giác, trừng trị bọn hào cường đại độc lập năm 1428, nhà Lê đã lấy Nho giáo xâm chiếm ruộng đất, ức hiếp nhân dân; điều làm hệ tư tưởng độc tôn. Lúc này, Nho giáo 21 cấm các vương hầu và nhà đại thần cho nô Việt Nam ở thế kỷ XV đã có thêm sắc thái của tỳ đưa đồ đút lót; điều 22 khuyên các quan Tống Nho với đặc trưng là đề cao luân thường giữ chức trách chăn dân; điều 23 khuyên xã đạo lý. trưởng, thôn trưởng, phường trưởng siêng Cũng vì những nguyên nhân lịch sử đó, dưới năng dạy bảo dân; điều 24 khuyên dân Man triều Lê, những phạm trù như “Cương thường”, Lạo kính giữ luân thường. “Trung”, “Hiếu”, “Nhân, “Nghĩa”,... được đề cao Như vậy, có thể thấy 24 điều giáo huấn hơn bao giờ hết. Mở đầu cho khuynh hướng của Lê Thánh Tông tập trung chủ yếu vào việc này, Nguyễn Trãi - đại công thần của nhà Lê đã khuyên răn con người giữ gìn đạo đức, khuôn từng viết: “Chữ học ngày xưa quên hết dạng/ phép theo tinh thần mà Nho học truyền thống Chẳng quên có một chữ cương thường” (Quốc đã đặt ra với phương châm: “Tu thân, tề gia, trị âm thi tập). quốc, bình thiên hạ”. Huấn dân đại cáo bàn đến Tiếp tục đường lối đó, trong tư tưởng của hai nội dung cơ bản: Thứ nhất, bàn đến các mình, Lê Thánh Tông cũng đặc biệt đề cao vấn mối quan hệ căn bản trong xã hội, đó là quan đề giáo dục, rèn luyện đạo đức Nho giáo cho hệ cha con, vợ chồng, anh em, làng xóm (bạn con người. Ông cho rằng “Người ta sở dĩ khác bè). Thứ hai, đề cập đến việc giữ gìn, bảo vệ, giống cầm thú là vì có lễ làm khuôn phép giữ gìn” phát huy thuần phong mỹ tục của dân tộc. [3, tr.652]. Chính vì vậy, khi xem xét quan hệ Trong Nho giáo truyền thống, khi bàn đến cha con, trước hết ông đã chỉ ra trách nhiệm và vấn đề đạo đức thì gia đình và các mối quan hệ nghĩa vụ của bậc làm cha, làm mẹ trong việc trong gia đình được các nhà nho đặc biệt coi nuôi dạy, làm gương cho con cháu. Ngay ở trọng. Họ coi đây là những quan hệ cốt lõi của những điều đầu tiên trong Huấn thị, Lê Thánh xã hội, sẽ quyết định sự hình thành nhân cách Tông đã viết: “Cha mẹ dạy con phải có phép tắc, con người, quyết định đến các quan hệ khác trai gái đều có nghề nghiệp, không được rượu trong xã hội. Từ các quan hệ trong gia đình sẽ chè, cờ bạc, tập nghề hát xướng để hại phong Số 30 (Tháng 12 - 2019) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 37
  4. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU tục” (Điều 1), hơn nữa, “Người gia trưởng tự ông dành riêng các điều 6, 7, 8, 9, 10 để quy mình phải giữ lễ phép để cho cả nhà bắt chước, định trách nhiệm và nghĩa vụ của vợ đối với nếu con em làm càn thì bắt tội người gia trưởng” chồng và gia đình nhà chồng. Chẳng hạn, Điều (Điều 2) [2, tr.258]. Như vậy, trong quan hệ này, 8 viết: “Người đàn bà góa chồng, đối với các con bậc làm cha mẹ phải chịu trách nhiệm trước vợ cả hoặc vợ lẽ, nàng hầu, nên có lòng thương hết đối với con cháu. Cha mẹ phải định hướng, xót, không được mưu mô để chiếm đoạt gia tài giáo dục con cháu đi theo con đường chính làm của riêng mình” [2, tr.258], hoặc Điều 9 quy đạo và tránh xa những việc xấu. Nếu con cái định: “Đàn bà góa chồng, chưa có con cái, phải ở phạm lỗi thì trách nhiệm trước hết thuộc về nhà chồng để giữ đủ tang lễ, không được chuyển sự dạy dỗ không nghiêm của cha mẹ. Vì vậy, vận của cải mang về nhà mình” [2, tr.259]. ông yêu cầu người chủ gia đình phải là tấm Mặc dù chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng gương, luôn trau dồi, rèn luyện, giữ Nhân, Lễ Nho giáo, nhưng cũng giống như Nguyễn Trãi, để con em trong nhà noi theo. Sự hưng vong Nho giáo trong con người Lê Thánh Tông cũng hay suy tàn của một gia đình, một gia tộc, hay không còn đơn thuần là Hán Nho hay Tống rộng hơn là của một quốc gia phụ thuộc vào Nho mà đã có sự biến đổi phù hợp với khuynh đức hạnh của người đứng đầu. Ở đây, Lê Thánh hướng tư tưởng của dân tộc. Trong quá trình Tông đã khẳng định vai trò quan trọng của gia xâm nhập và tồn tại lâu dài ở nước ta, dưới đình trong việc giáo dục đạo đức cho con cái. ảnh hưởng và sự giao thoa với các tư tưởng Điều này phản ánh tinh thần cơ bản trong tư truyền thống bản địa, với khuynh hướng ôn tưởng “Tu thân, tề gia” của Nho học. hòa, mềm dẻo của Phật giáo, Nho giáo đã Khi bàn đến quan hệ vợ chồng, Lê Thánh có những biến đổi nhất định để phù hợp với Tông cũng đứng trên tinh thần Nho giáo mà khuynh hướng tư tưởng và tinh thần nhân văn chỉ ra rằng: “Làm đàn bà thì phải theo chồng, của dân tộc Việt Nam. Tinh thần nhân văn đó không được cậy cha mẹ mình phú quý mà khinh đã được thể hiện ngay trong đường lối cứu nhà chồng, nếu không như thế thì bắt tội đến nước của Nguyễn Trãi khi ông viết “Việc nhân cha mẹ” [2, tr.259]. Xuất phát từ cơ sở sản xuất nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt trước lo trừ kinh tế nông nghiệp nhỏ (tiểu nông) đã tạo ra bạo” [6], hay thể hiện ở việc tha chết cho toàn chế độ gia trưởng với tư tưởng về tôn ti trật tự thể hàng binh của nhà Minh, cấp lương thảo đẳng cấp dựa trên quan hệ hôn nhân, huyết cho về nước... Tiếp nối tinh thần nhân văn đó, thống, Nho giáo đã đưa ra các phạm trù Hiếu, khi bàn về quan hệ chồng vợ, mặc dù đứng Đễ, Tiết, Hạnh,... để củng cố quyền uy của trên lập trường Nho giáo để xem xét nhưng Lê người gia trưởng và tôn ti, trật tự trong gia Thánh Tông không tuyệt đối hóa mối quan hệ đình. Từ đó dẫn đến sự bất bình đẳng trong này cũng như không tuyệt đối hóa vai trò của quan hệ sở hữu, quan hệ phân phối sản phẩm người chồng. Ông đã kết hợp với tinh thần coi và quan hệ phân công lao động, làm cho tư trọng vai trò người phụ nữ trong truyền thống tưởng “trọng nam khinh nữ” có điều kiện phát của dân tộc, đã dành cho người phụ nữ một vị triển, xuất hiện các phạm trù “Tam cương, ngũ trí nhất định trong xã hội. Vị trí đó của người thường” và đặc biệt là “Tam tòng, tứ đức”. Do phụ nữ được ông pháp điển hóa, dùng pháp vậy, quan hệ chồng vợ cũng mang tính tuyệt luật để bảo vệ. Điều này được thể hiện trong đối một chiều, “Phu xướng, phụ tùy”. Trong Quốc triều hình luật với các điều khoản bảo quan hệ này, Lê Thánh Tông cũng khẳng định vệ và bênh vực quyền lợi phụ nữ như: “Phàm vị thế quyết định của người chồng, người cha. chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại (vợ Theo ông, người phụ nữ sau khi đã lập gia đình được trình với quan sở tại và quan xã làm chứng) phải có trách nhiệm với nhà chồng, với con cái, thì mất vợ. Nếu vợ đã có con thì hạn một năm. thậm chí với cả con cái của thê thiếp của chồng. Vì việc quan đi xa thì không theo luật này. Nếu Lê Thánh Tông rất chú trọng quan hệ này nên đã bỏ vợ mà lại ngăn cản người khác lấy vợ của 38 Số 30 (Tháng 12 - 2019)
  5. VĂN HÓA TRUNG - CẬN ĐẠI mình thì phải tội biếm” (Điều 308) [4, tr.127]. đạo đức Nho giáo, ngoài việc giáo dục khuyên Hoặc: “Con gái hứa gả chồng mà chưa thành răn ra, ông cũng chủ trương dùng luật pháp để hôn nếu người con trai bị ác tật hay phạm tội bảo vệ thuần phong mỹ tục của dân tộc, ai vi hoặc phá tán gia sản thì cho phép người con gái phạm sẽ dùng chế tài để xử phạt. Chính vì vậy, kêu quan mà trả lại đồ lễ. Nếu người con gái bị trong Quốc triều hình luật, nhà vua đã đưa ra ác tật hay phạm tội thì không phải trả lại đồ lễ, những quy định chặt chẽ và những hình phạt trái luật bị phạt 80 trượng” (Điều 322) [4, tr.130]. nghiêm khắc để bảo vệ thuần phong mỹ tục, Với tinh thần nhân văn đó, trong Điều 3 của bảo vệ lễ giáo phong kiến. Trong những tội bị Huấn điều, Lê Thánh Tông viết: “Vợ chồng cần quy vào “thập ác” có cả những tội chống lại kiệm làm ăn, ân nghĩa trọn vẹn, duy chỉ có khi đạo lý gia đình, sẽ bị điều chỉnh theo hệ thống nào người vợ phạm tội thất xuất thì mới được bỏ, hình phạt ngũ hình (suy, trượng, đồ, lưu, tử). chứ không được khiên ái cẩu dung làm hại đến Cụ thể: “Lăng mạ ông bà, cha mẹ thì xử tội lưu phong hóa” [2, tr.258]. Do vậy, khi phụ nữ đã châu ngoài, đánh thì xử đi lưu châu xa, đánh bị phạm lỗi, ông cũng khuyên răn: “Đàn bà có lỗi thương thì xử tội giảo...” (Điều 475) [4, tr.182]; “Gian dâm với vợ kế, vợ lẽ của ông cha, với mẹ mà cha mẹ và chồng đã trừng trị thì nên phải sửa nuôi, mẹ kế, bác gái, thím, cô, dì, chị em gái của mình đổi lối, không được tự tiện trốn đi, làm hư con cháu, con gái của anh em đều xử tội chém...” mất nết đàn bà” [2, tr.258]. (Điều 406) [4, tr.158]. Bên cạnh đó, pháp luật Như vậy, có thể thấy, Lê Thánh Tông đã cũng quy định và khuyến khích nhân dân xem xét các quan hệ cơ bản này dưới góc nhìn nuôi dưỡng tình thương yêu đồng loại, đồng hai chiều, mềm dẻo. Trong các quan hệ đó, cả tộc, đồng bào, phát huy nét đẹp truyền thống hai bên đều có trách nhiệm và nghĩa vụ để của dân tộc như những quy định tại Điều 294: xây dựng một gia đình hòa hợp, vững mạnh. “Trong kinh thành hay phường ngõ và làng xóm Ông chủ trương lấy tinh thần đạo đức của Nho có kẻ đau ốm mà không ai nuôi nấng, nằm ở giáo để giáo dục nhân dân, tạo nên một xã hội đường xá, cầu, điếm, chùa, quán thì xã quan ở đó ổn định, hòa hợp, trong đó, cha mẹ có trách phải dựng lều lên mà giữ gìn săn sóc, và cho họ nhiệm với con cái, chồng vợ có ân nghĩa với cơm cháo thuốc men, cốt sao cứu cho họ sống, nhau, anh em thân yêu, láng giềng làng xóm không được bỏ mặc cho họ rên rỉ khốn khổ...” [4, hòa thuận. Nếu làm cho các quan hệ đó đi vào tr.122]), hay Điều 295: “Những người góa vợ, trật tự, có trên dưới, nền nếp thì sẽ tạo ra một góa chồng, mồ côi và người tàn tật nặng, nghèo gia đình gia giáo, vững mạnh, sẽ góp phần tạo khổ không có người thân thích để nương tựa, ra những làng quê gắn kết, tương thân tương không thể tự mình mưu sống được, quan sở tại ái, tạo cơ sở để đưa quốc gia phát triển hưng phải thu nuôi họ, mà lại bỏ rơi họ thì bị xử đánh thịnh, vững mạnh. 50 roi, biếm một tư. Nếu họ được chu cấp cơm áo Ngoài việc tập trung giải quyết các mối mà quan lại ăn bớt đi thì phải khép vào tội như quan hệ cơ bản trong gia đình theo tinh thần người giữ kho ăn trộm của công” [4, tr.123]. Nho giáo, trong Huấn dân đại cáo, Lê Thánh Việc bảo vệ, nuôi dưỡng thuần phong mỹ Tông còn khuyến khích nhân dân bảo vệ, nuôi tục phải được thực hiện trong toàn cõi, không dưỡng thuần phong mỹ tục của dân tộc. Huấn phân biệt thành thị hay nông thôn, vùng núi, điều quy định: “Chỗ dân gian có mở trường du hí biên ải hay đồng bằng. Chính vì vậy, Lê Thánh hoặc cúng tế, thì con trai, con gái đến xem không Tông cũng không quên nhắc nhở: “Các dân được đứng lẫn lộn, để khỏi thói dâm ô” (Điều mường mán ở ngoài bờ cõi nên giữ lời di huấn, 16) [2, tr.259]; “Phủ huyện phải lập bia ở các nơi không được trái đạo luân thường như cha, anh, sở tại để cấm con trai con gái không được cùng chú, bác đã chết thì con em không được chiếm tắm một bến, để cho có phân biệt” (Điều 18) [2, lấy những thê thiếp (của họ), nếu mà trái phép tr.259]. Cũng giống như khi bảo vệ các giá trị thì sẽ trị tội rất nặng” [2, tr.260]. Số 30 (Tháng 12 - 2019) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 39
  6. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU Có thể thấy, những thuần phong mỹ tục vẫn luôn song hành cùng người Việt trong được Lê Thánh Tông đưa vào Huấn dân đại cáo cuộc sống thường ngày. Vì thế, chúng ta cần để giảng dạy cho nhân dân chính là những giá “gạn đục khơi trong”, gạt bỏ những yếu tố bảo trị nhân văn truyền thống có từ ngàn đời của thủ, lạc hậu, gìn giữ và phát huy những giá trị dân tộc ta như: Lòng yêu thương con người; truyền thống, nhân văn tốt đẹp, bởi như học tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, lá giả Trần Trọng Kim đã viết trong lời tựa tác lành đùm lá rách; giữ gìn trật tự trên dưới; phẩm Nho giáo: “Một cái nhà cổ rất đẹp, lâu quan hệ chuẩn mực... Đó cũng chính là những ngày không ai sửa sang, để đến nỗi bị cơn gió giá trị nhân văn làm nên bản sắc của dân tộc bão đánh đổ bẹp xuống. Những người xưa nay Việt Nam, những giá trị nhân văn đó đã và vẫn ở cái nhà ấy ngơ ngác không biết làm thế đang được chúng ta gìn giữ và trao truyền cho nào. Dẫu có muốn dựng lại cũng không dựng các thế hệ mai sau. được vì người không có mà của cũng không. Vả Kết luận thời thế đã xoay vần, cuộc đời biến đổi, người Trong Huấn dân đại cáo, hệ tư tưởng và trong nước đang háo hức về sự bỏ cũ theo mới, những triết lý của Nho giáo có ảnh hưởng không ai nghĩ gì đến cái nhà cổ ấy nữa. Song cái lớn và được thể hiện khá đậm nét. Tuy nhiên, nhà cổ ấy tự nó là một bảo vật vô giá, không lẽ những yếu tố Nho giáo đó đã được chọn lựa để đổ nát đi mà không tìm cách giữ lấy di tích” và áp dụng phù hợp với điều kiện của xã hội [1, tr.7]. Việt Nam đương thời. Bên cạnh đó, những giá H.V.T trị truyền thống, phong tục tập quán luôn là (TS., Khoa Gia đình và Công tác xã hội, những yếu tố quan trọng, có tính nền tảng Trường ĐHVHHN) cũng rất được đề cao. Với tinh thần mềm dẻo mang tính chất giáo dục, khuyên nhủ, lại được diễn đạt bằng chữ Nôm với cách viết giản dị, gần gũi với đời sống nhân dân thôn dã nên Tài liệu tham khảo Huấn dân đại cáo đã có sức lan tỏa và ảnh 1. Trần Trọng Kim (1992), Nho giáo, Nxb. Tp. hưởng rất lớn đến đời sống tinh thần của nhân Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh. dân. Nó góp phần hình thành nên những gia 2. Trần Trọng Kim (1971), Việt Nam sử lược, đình người Việt Nam với lối sống gắn kết, tôn Nxb. Bộ Giáo dục - Trung tâm học liệu. ti, trật tự; góp phần tạo nên những con người 3. Ngô Sĩ Liên (2009), Đại Việt sử ký toàn thư, với những phẩm chất “Hiếu”, “Trung”, sống có Nxb. Văn học, Hà Nội. trách nhiệm, tình nghĩa với gia đình, xã hội. Song mặt khác, nó cũng góp phần làm gia 4. Quốc triều hình luật (1995), Nxb. Tp. Hồ Chí tăng những yếu tố tiêu cực như tác phong gia Minh, Tp. Hồ Chí Minh. trưởng, tư tưởng bảo thủ, sự phục tùng mê 5. Nguyễn Tài Thư (chủ biên) (1993), Lịch sử tư muội, tâm lý trọng nam khinh nữ, chủ nghĩa tưởng Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. gia đình vị kỷ... 6. Nguyễn Trãi, Đại cáo bình Ngô, Ngô Tất Tố dịch. Ngày nay, với xu thế hội nhập quốc tế, theo quy luật khách quan của xã hội và lịch sử, có 7. Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận (1483), Thiên những tư tưởng trong Huấn dân đại cáo đã Nam dư hạ tập, Tư liệu Viện Nghiên cứu Hán Nôm. không còn phù hợp với sự thay đổi của thời cuộc. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn là một quốc gia Ngày nhận bài: 9 - 12 - 2019 mang bản sắc văn hóa Á Đông, các giá trị đạo Ngày phản biện, đánh giá: 16 - 12 - 2019 đức truyền thống như Nhân, Lễ, Hiếu đễ, tư tưởng đề cao gia đình, làng xóm, dòng tộc,... Ngày chấp nhận đăng: 27 - 12 - 2019 40 Số 30 (Tháng 12 - 2019)
nguon tai.lieu . vn