- Trang Chủ
- Chính trị học
- Giá trị của tài nguyên biển, đảo trong sự phát triển kinh tế Đàng Trong thế kỉ XVI – XVIII
Xem mẫu
- TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 5(30) - Thaùng 7/2015
Giá trị của tài nguyên biển, đảo trong sự phát triển
kinh tế Đàng Trong thế kỉ XVI – XVIII
Marine resources for economical development of
the Dang Trong from XVI –XVIII centuries
TS. Trần Thị Thái Hà
Trường Đại học Sài Gòn
Ph.D. Tran Thi Thai Ha
Sai Gon University
Tóm tắt
Vùng đất Đàng Trong (Cochinchina) do các chúa Nguyễn mở mang khai phá trong hơn hai thế kỉ đã
không ngừng phát triển, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, quốc phòng. Sự nhanh nhậy của các
chúa Nguyễn trong cách thức ứng xử với những biến đổi của tình hình khu vực, trong sử dụng và tận
dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên – trong đó có tài nguyên biển, đảo để thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát
triển là yếu tố then chốt đem đến thành công cho chính quyền họ Nguyễn trong sự nghiệp cát cứ và phát
triển vùng đất phía Nam. Bài viết phân tích những giá trị của tài nguyên biển, đảo đối với sự phát triển
của kinh tế Đàng Trong thế kỉ XVI – XVIII.
Từ khóa: Đàng Trong, tài nguyên biển, cảng thị, hàng hóa, đô thị Hội An, cửa biển, yến sào,
buôn bán…
Abstract
The Dang Trong (Cochinchina) explored and expanded by the Nguyen lords for more than two centuries
has not stopped growing, especially in the field of economy, politics, and defense. The prompt and
sensible of the Nguyen Lords in dealing with the change of the regional situation, the use and utilize
natural resources - including maritime resources, to promote commodity economy development is a key
factor to bring success to the Nguyễn Dynasty in lording over the southern lands. Based on these
sources, the article analyzes the value of maritime resources for economic development Cochinchina in
centuries XVI - XVIII.
Keywords: Dang Trong, Cochinchina, maritime resources, port, commodities, Hoi An urban, seaport,
nests and trade…
1. Đặt vấn đề Nguyễn đã thi hành hàng loạt các chính
Đàng Trong là vùng đất phương Nam, sách phát triển kinh tế năng động, tích cực,
do các vị chúa Nguyễn, khởi đầu từ hiệu quả. Nhờ vậy, Đàng Trong đã phát
Nguyễn Hoàng mở mang, khai phá và phát triển nhanh chóng, xây dựng được chính
triển. Tồn tại hơn 2 thế kỉ, với 9 đời chúa quyền tự chủ vững vàng, bảo vệ độc lập
trị vì, trong suốt thời gian đó, các chúa dân tộc đồng thời giữ được thế chủ động
18
- trong quan hệ đối ngoại với các nước trong bán đảo; có nhiều cửa sông, tạo thành các
khu vực và phương Tây. vịnh sâu và kín gió. Dọc theo bờ biển, thư
Có thể nói rằng, một trong những điều tịch cổ cho biết có hàng loạt các cửa biển,
làm nên thành công của các chúa Nguyễn là tuyến đường giao thông, trao đổi buôn
trong công cuộc cai trị vùng đất phía Nam bán chủ yếu của thời đó giữa miền duyên
là đã sớm nhận ra tiềm năng và lợi thế của hải với miền núi; giữa miền biển, hải đảo
tài nguyên thiên nhiên nơi đây. Đất, biển, với lục địa. Theo ghi chép của nhà sư
trời là không gian lưu giữ, sinh tồn của Thích Đại Sán từng đến Đàng Trong thời
nhiều nguồn lợi kinh tế lớn cả về trữ lượng kì này cho biết, cho đến cuối thế kỉ XVII,
và giá trị. Sự cởi mở và nhậy bén trong tư giao thông ở Đàng Trong chủ yếu sử dụng
duy là nhân tố quan trọng khiến các chúa đường biển do điều kiện địa hình bị kẹp
Nguyễn có thể khai thác và tận dụng được giữa núi và biển: “các phủ đều không có
nguồn tài nguyên thiên nhiên to lớn này để đường lối thông nhau, mỗi phủ đều do một
đẩy nhanh quá trình đột khởi, hưng thịnh cửa biển đi vào, nếu đi từ phủ này sang phủ
cho kinh tế Đàng Trong vào các thế kỉ XVI khác tất do đường biển” (9;230).
– XVIII, góp phần củng cố vững chắc cơ Cho đến thế kỉ XIX, tác giả của Lịch
đồ thống trị của dòng họ. triều hiến chương loại chí vẫn có những
2. Những hoạt động khai thác cảm nhận như vậy: “đất này (phủ Gia Định
tài nguyên biển đảo phát triển các ngành - tg) nhiều khe suối, đường thủy như mắc
kinh tế Đàng Trong thế kỷ XVI-XVIII cửi, không thể đi đường bộ được. Người
Việt Nam có đường bờ biển dài giàu chở thuyền lớn, người thường chở
3260km, tính trung bình cứ vào khoảng thuyền nhỏ để đi ra các vụng biển” (3;202).
100km2 lại có 1km bờ biển. Không những Có thể kể tên các cửa biển lớn như Cửa
thế, Việt Nam còn có hải phận và vùng khai Việt, Cửa Tư Dung, Cửa Eo mà vị trí của
thác kinh tế biển là 200 hải lí, tương ứng nó, như Phan Huy Chú mô tả: “đất này tiếp
với chiều rộng của thềm lục địa ở đáy biển, liền các dân Man, trao đổi hàng hóa, nguồn
đến độ sâu 200m. Hàng loạt các đảo và lợi và sản vật thường được thừa thãi”
quần đảo gần bờ, xa bờ hay ở giữa biển (3;189). Đó còn là các cửa như Bố Chính,
Đông đều nối với đất liền thông qua thềm Di Luân, Nhật Lệ, Minh Linh, Thuận An,
lục địa. Một vùng biển giàu tiềm năng như Tư Hiền, Điện Dương, Tam Thanh, Sa
vậy cho phép đất nước ta phát triển tổng Huỳnh, Cu Đê, Đà Nẵng, Đại Chiêm, Đại
hợp kinh tế biển với các ngành du lịch, giao Áp thuộc xứ Quảng Nam… Trong số này,
thông vận tải, đánh bắt và khai thác thủy có những cửa biển do vị trí xung yếu của
sản… Từ thế kỉ XVI – XVII, khu vực đồng nó mà chính quyền chúa Nguyễn rồi sau là
bằng sông Hồng đã không còn là trung tâm nhà Nguyễn thời Gia Long đều đặt đồn bảo
kinh tế duy nhất của đất nước. Một vùng tại đây để phòng giữ, canh gác như cửa
kinh tế trù phú, đầy triển vọng đã hình Minh Linh, Đại Chiêm, Đại Áp, Đà Nẵng
thành ở khu vực miền Trung ngày nay với (8;435-437). Như vậy, rõ ràng các cửa biển
sự đa dạng về ngành nghề, trong đó nổi lên là điểm đầu – cuối của tuyến thủy trình từ
vai trò của những hoạt động khai thác biển vào lục địa, đảm trách vai trò cầu nối
nguồn tài nguyên từ biển, đảo. Cụ thể: giao thương, giao thông giữa vùng biển,
Thứ nhất, Giao thông và thương mại: ven biển với miền thượng du và ngược lại.
Đàng Trong có đường bờ biển dài, Bên cạnh đó, các cửa biển này do vị trí của
khúc khuỷu với nhiều mũi, vũng, vịnh và mình mà còn có ý nghĩa vô cùng quan
19
- trọng về mặt an ninh quốc phòng, bảo vệ địa Đông Nam châu Á có quan hệ thương
vùng biển cũng như ngăn ngừa bất kì sự mại với Nhật Bản (5;85). Không những
xâm nhập nào vào đất liền từ phía biển. thế, sự thịnh đạt của hệ thống thương cảng
Từ Đà Nẵng đến Quy Nhơn có các Đàng Trong còn có sức hấp dẫn lớn, thu
vịnh nước sâu như vịnh Đà Nẵng, vịnh hút nhiều dòng thiên di và cư dân khu vực
Dung Quất, vịnh Nước Ngọt hay vịnh Quy mang hàng hóa đến các cảng thị để trao
Nhơn, thuận lợi cho việc hình thành các đổi, buôn bán. Điều này có thể thấy rất rõ
đô thị cảng ven biển - nơi diễn ra các hội qua sự hiện diện của đông đảo cộng đồng
chợ, các thương vụ với thương nhân nước người Hoa và người Nhật ở đô thị Hội An.
ngoài hay thương nhân đến từ nhiều địa Các thương nhân, giáo sĩ phương Tây
phương lân cận, đồng thời ghi dấu sự nhộn có dịp đi qua hay đến Đàng Trong thời kì
nhịp vào ra của tàu thuyền buôn bán, vận này có nhiều ghi chép và đưa ra những
tải. Đặc biệt, vùng biển này có các cảng nhận xét khách quan về hệ thống cảng thị
nước sâu, do đó mà có thể đón các tàu ven biển thuộc vương quốc các chúa
thuyền ngoại quốc có trọng tải lớn, trên hải Nguyễn. Trong ghi chép của họ thì Đàng
trình quốc tế từ Ấn Độ Dương lên bắc Thái Trong là một vùng đất giàu có, trù phú với
Bình Dương, từ bán đảo Đông Dương đến rất nhiều sản vật quý hiếm. Do nằm ở trung
các quần đảo của châu Đại Dương vào neo điểm của một trong những tuyến chính của
đậu. Có thể nói, các cảng thị của Đàng hệ thống giao thương châu Á nên các
Trong ở vị trí khống chế một ngã tư đường thương cảng nổi tiếng ở Đàng Trong thời
biển trọng yếu. Trong thời đại mà quan hệ kì này như Thanh Hà (Huế), Hội An
hải thương phát triển sôi động từ sau các (Quảng Nam), Nước Mặn (Bình Định) đều
cuộc phát kiến địa lí lớn thì vị trí này lại có vị trí quan trọng.
càng có giá trị đặc biệt. Bên cạnh các bạn Giáo sĩ người Ý là C. Borri, đến Đàng
hàng truyền thống thì sang giai đoạn thế kỉ Trong năm 1618 – 1621 cho biết: vùng
XVI – XVIII, trong nền ngoại thương của duyên hải Đàng Trong “chỉ trong khoảng
Đại Việt ở khu vực phía nam đã xuất hiện hơn 100 dặm một chút mà người ta đếm
thêm nhiều nhân tố mới. được hơn 60 hải cảng, tất cả đều thuận tiện
Phủ biên tạp lục của Lê Qúy Đôn cho để cập bến và lên đất liền. Là vì ở ven bờ
biết, vào thế kỉ XVII – XVIII, các cảng của có rất nhiều nhánh biển lớn. Hải cảng đẹp
Đàng Trong luôn là điểm đến của các nhất, nơi tất cả những người ngoại quốc
thuyền buôn từ Trung Quốc, Nhật Bản, đều tới và cũng là nơi có hội chợ danh
Xiêm La, Lữ Tống (Luzon), Cựu Cảng tiếng chính là hải cảng thuộc tỉnh Quảng
(Phillipin), Mã Cao (Bồ Đào Nha), Hà Lan… Nam” (2;91).
Các tàu, thuyền buôn quốc tế không chỉ Tại cảng thị Hội An, theo mô tả của
đến thu mua hàng hóa mà còn đem theo C. Borri là nơi tập trung nhiều thương lái
nhiều thương phẩm đáp ứng nhu cầu của nước ngoài, trong đó, “người Tàu và người
thị trường Đàng Trong và toàn khu vực nói Nhật là những người làm thương mại chính
chung (4;291). Số thương thuyền của Nhật yếu ở xứ Đàng Trong tại một chợ phiên
Bản đến buôn bán với Đàng Trong vào đầu họp hàng năm ở một hải cảng và kéo dài
thế kỉ XVII thậm chí còn vượt xa số tới chừng bốn tháng. Người Nhật chở trên
thương thuyền tới buôn bán với Xiêm và thuyền của họ lượng hàng giá trị bằng bốn
Cao Miên. Vương quốc của họ Nguyễn hay năm triệu bạc, còn người Tàu chở
được đặt ở đầu danh sách các nước ở lục trong tàu họ gọi là “somes” (thuyền mành)
20
- rất nhiều thứ lụa mịn và nhiều thứ hàng phía Nam. Không có thương mại, Đàng
hóa khác của xứ họ. Chúa thu được lợi Trong khó có thể tồn tại nổi cho dù tài
nhuận lớn trong việc buôn bán này bằng nguyên thiên nhiên có phong phú và dồi
thuế hàng hóa và thuế hải khẩu ngài đặt ra dào đến đâu, vì những khó khăn mà Đàng
và cả nước đều kiếm được nhiều mối lợi Trong phải đương đầu trong thời điểm đó.
không thể tính hết (2;90). Bên cạnh đó, một số hòn đảo lớn và
Đại Nam nhất thống chí chép rõ: nhỏ ở ngoài khơi thuộc Đàng Trong, nhờ
“Chợ Hội An tục gọi là phố Hội An, phía sở hữu những bãi cát vàng bằng phẳng,
Nam gần sông Cái, trên bờ hai bên phố rộng rãi, lại có suối nước ngọt nên còn là
ngói liên tiếp chừng 2 dặm, bến sông nơi trú ẩn lí tưởng cho các thuyền buôn đi
thuyền ghe tấp nập đi lại như mắc cửi, có biển gặp gió bão hay cho dân chúng trong
nhiều khách buôn người Thanh trú ngụ, đất liền mỗi khi có giặc dã, cướp bóc.
buôn bán hàng hóa phương Bắc, có đình, Thứ hai, khai thác các nguồn lợi
chợ và hội quán, buôn bán tấp nập, làm nơi hải sản
đô hội lớn xưa nay. Lại ở phía Nam sông là - Cá, tôm các loại, mắm: Do điều kiện
đầm Trà Nhiêu, chỗ thuyền buôn các nước môi trường tự nhiên vừa có sông, có biển,
dừng đậu”(8;439). có đất đai trù phú tốt tươi mà cư dân vùng
Như vậy, trên thực tế, hệ thống cảng đồng bằng duyên hải miền Trung ngay từ
thị ven biển của Đàng Trong, mà đặc biệt rất sớm đã không chỉ chú trọng lĩnh vực
là Hội An đã trở thành nơi điều phối, trung nông nghiệp mà còn hướng các hoạt động
chuyển hàng hóa của hệ thống giao thương sinh kế của mình ra biển; họ là những
khu vực Đông Á. Cùng với các chợ địa người giỏi nghề đi biển, khai thác hải sản.
phương (như chợ Thế Lại huyện Kim Trà, Đàng Trong là vùng biển sâu, giàu có và
chợ Đại Phúc huyện Lệ Thủy, Chợ Thuận phong phú về nguồn lợi hải sản: cá, tôm,
huyện Vũ Xương và Hải Lăng, chợ Đan hải sâm, ngọc trai, đồi mồi…
Lương huyện Đan Điền…), các thành - với Đặc biệt, đánh bắt cá được coi như
vai trò là trung tâm hành chính, chính trị, hoạt động chủ đạo của cư dân ven biển
quân sự của vùng (như thành Ninh Viễn, miền Trung. C. Borri cho rằng “Ngành ngư
thành Hóa, thành Thuận…)(1;91-92), các nghiệp cũng rất thịnh vượng và cá ở đây có
làng nghề vùng ven đô thì các đô thị cảng ở hương vị tuyệt diệu, rất đặc biệt. Xứ này
Đàng Trong thời kì này đã tạo thành một chạy dọc bờ biển nên có rất nhiều thuyền
mạng lưới sản xuất, phân phối, lưu thông, đánh cá và rất nhiều thuyền tải cá đi khắp
buôn bán với thị trường trong nước và xứ, từng đoàn người chuyển cá từ biển tới
nước ngoài mà trung tâm quan trọng nhất tận miền núi, có thể nói trong một ngày 24
là đô thị cảng Hội An. Hội An thực sự là tiếng thì ít ra họ dùng 20 tiếng để làm việc
biểu đạt rõ rệt nhất cho sức mạnh kinh tế này”, và: “không ở đâu nghề cá và cá có
của chính quyền Đàng Trong ở cả hai lĩnh thể so sánh với Đàng Trong”. Để lí giải cho
vực: ngoại thương và nội thương (7;15). thực tế phát triển nghề cá ở Đàng Trong,
Có thể thấy rõ một thực tế, đó là chính C. Borri cho rằng sở dĩ người người Đàng
thương nghiệp mà đặc biệt là ngoại thương Trong chuyên chú việc đánh cá là vì họ “ăn
qua đường biển đã làm cho Đàng Trong chỉ cá nhiều hơn ăn thịt”, lại “rất ham thứ nước
trong vòng ít thập niên trở nên giàu có và sốt làm bằng cá ướp muối” (nước mắm –
đủ mạnh để có thể duy trì được sự độc lập tg). Thậm chí, nhà nào cũng dự trữ một
của mình đối với phía Bắc và mở rộng về lượng lớn đựng đầy trong chum, vại như
21
- tại nhiều nơi ở châu Âu người ta dự trữ dành riêng để phục vụ cho tầng lớp thượng
rượu” (2;29-30). Nổi tiếng hơn cả và được lưu của Đàng Trong.
ưa chuộng có “mắm muối thì làng Diêm - Yến sào: Ở gần bờ có các nhóm đảo
Trường huyện Tư Vinh ngon nhất, ở cửa Cù Lao Chàm, đảo Lý Sơn, Cù Lao Cỏ với
Roòn là thứ nhì” (1;37). Ngoài cá, tôm thì nhiều đảo nhỏ nối sát nhau như hòn Lao,
vùng biển Đàng Trong còn vô cùng phong hòn Tai, hòn Dài, hòn Lá, hòn Mồ… có
phú các loại hải sản khác như: Hàu sản vách đá dựng đứng thích hợp cho chim yến
xuất từ ven biển Hải Vân và cửa biển Tư làm tổ. Về đặc tính sinh hoạt của loài chim
Khách, tại làng Viễn Tuy, huyện Khang này, ngay từ thế kỉ XVII, khi đặt chân đến
Lộc cồn hàu cũng nhiều. Sò thì bờ cát ven Đàng Trong thì C. Borri đã lưu ý đến và
biển, mà vùng Tân Chu huyện Tư Vinh mô tả: “xứ này có một thứ chim be bé
nhiều nhất. Loài ngao thì từ cửa Roòn cho giống như chim én, nó làm tổ ở các cồn đá
tới cửa Tư Khách đâu đâu cũng có… Tôm và hốc đá sóng biển vỗ vào. Con vật nhỏ
hùm đánh bắt ở cửa Roòn châu Bố Chính, này dùng mỏ lấy bọt biển và với chất toát
cá vược, cá heo có ở cửa biển huyện Tư ra từ dạ dày để làm tổ”…Và, yến sào nhiều
Vinh và ở đảo Cồn Cỏ châu Minh Linh. Sò đến nỗi “người ta chất đầy mười chiếc
Cửu khổng thu được ở đảo Thủy Cần, Lệ thuyền nhỏ những tổ yến nhặt ở dọc các
Thủy…, cá hồng là sản vật của cửa biển Tư hốc núi đá, trong khoảng chưa đầy nửa
Vinh; cá nheo, cá cháy đánh bắt ở cửa biển dặm” (2;31). Sách Lịch triều hiến chương
Tư Khách, Khang Lộc; cá bống và cá tống loại chí của Phan Huy Chú cũng chép: trên
công đều từ biển cả…”(1;37-38). các sườn đảo Hoàng Sa ở phía Đông Bắc
Các sản vật từ biển mà người dân đánh xã An Vĩnh, huyện Bình Dương thuộc phủ
bắt, chế biến như vây, bóng cá, tôm cá khô, Tư Nghĩa xưa cũng có vô số yến sào
dầu cá, mắm ướp… không những trở thành (3;197). Trong các sản vật từ biển, đảo
các mặt hàng chủ yếu được trao đổi ở các trước kia thì tổ yến là loại thực phẩm cao
chợ, các cảng thị ven biển mà còn được cấp, bổ dưỡng, chúa độc quyền sử dụng
chuyên chở lên miền Thượng (Trường Sơn hay làm đồ cống phẩm cho vua Tàu. Căn
– Tây Nguyên) để đổi lấy thóc, gạo, gà, cứ vào màu sắc, kích thước, khối lượng
trâu, sáp ong, vỏ cây dó, vải, khăn tay của người ta phân yến thành các loại yến huyết,
người Man (3;189); hay bán cho thương lái yến hồng, quan, thiên, bài, địa, vụn…
nước ngoài… Thuế mắm từ các làng xã ven Trong đó yến huyết có giá trị cao nhất,
biển có nghề đánh cá cũng là một trong được coi như một loại thần dược.
những nguồn thu quan trọng của chính Vào thế kỉ XVIII, giá yến là 200 quan
quyền chúa Nguyễn. 1 tạ, so với ngà voi là 40 quan và sừng tê là
- Hải sâm: Trên các đảo của Đàng 500 quan (7;11). Ở phủ Thăng Hoa, phủ
Trong, đặc biệt là vùng Hoàng Sa có nhiều Quy Nhơn, trên các đảo ở cửa biển Tân
hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, giải, ba ba, được Quan, Thời Phú, Nước Ngọt, Nước Mặn
khai thác qua nhiều thế hệ. Lê Quý Đôn đều có nhiều yến sào. Phủ biên tạp lục ghi
cho biết: “có hải sâm, tục gọi là con đột rõ: “xã Thanh Châu, phủ Thăng Hoa dinh
đột, bơi lội ở bên bãi, lấy về dùng vôi xát Quảng Nam có nghề lấy yến sào”(4;290).
qua, bỏ ruột phơi khô, lúc ăn thì ngâm Đầu tiên dân làng Thanh Châu khai thác
nước, cua đồng cạo sạch đi, nấu với tôm và yến một cách tự phát, dần dần sau này các
thịt lợn, ngon lắm”(4;154). Cùng với yến chính quyền phong kiến đã lập “đội Thanh
sào, hải sâm là thứ hải sản quý giá, thường Châu” để quản lí các yến hộ. Nghề yến trở
22
- thành nghề cổ truyền của cư dân Thanh - Muối: Do vùng biển Đàng Trong
Châu, tồn tại cho đến ngày nay. thuộc khu vực có độ mặn khá cao, từ
Là một sản vật quý nên chính quyền 28-34% (12), lại nhiều ngày nắng (10;127),
Đàng Trong thực thi chế độ kiểm soát rất tạo nên một nền nhiệt độ cao, tăng dần từ
chặt chẽ từ việc khai thác, chế biến đến sử phía Bắc xuống phía Nam nên khu vực ven
dụng tổ yến. Người dân sở tại thu lượm biển của Đàng Trong có điều kiện thuận lợi
hay khai thác được tổ yến đều nộp cho để sản xuất muối, cung cấp lượng muối cần
quan sở tại để chuyển dâng lên chúa thì thiết cho việc làm mắm, ướp cá cũng như
được miễn thuế thân. “Hàng năm cứ tháng phục vụ nhu cầu muối ăn của đồng bào
2 thì nộp 120 tổ yến non, mỗi người khai miền xuôi và vùng cao. Phủ biên tạp lục
thác yến hạng tráng nộp 2kg yến sào hoặc cho biết: “Ven biển xứ Thuận Hóa có
bằng tiền 2 quan, hạng dân nộp 1kg 8 lạng, ruộng muối, đều tùy lò hiện có, theo lệ thu
hạng lão và hạng đinh mỗi người nộp 1kg, thuế diêm điền”(4;155). Phan Huy Chú
cả xã nộp lễ thường tân đinh đán 1500 tổ trong Lịch triều hiến chương loại chí cũng
(4;290). Nhìn chung chỉ có chúa và giới chép rằng: “Cửa Di Luân ở châu Bố Chính,
quan lại quý tộc mới có thể sử dụng yến … có sản ra muối ăn rất ngon”(3;193). Khu
sào cùng các loại hàng hóa quý hiếm khác. vực Sa Huỳnh thuộc Quảng Ngãi ngày nay
Thương gia nước ngoài như Nhật Bản, đã và đang là đồng muối có chất lượng tốt,
Trung Quốc muốn có được những sản vật khả năng khai thác lớn.
quý đó thường phải trao đổi bằng bạc nén. Ngoài ra còn phải kể đến hoạt động
- Đồi mồi: Theo ghi chép của thư tịch khai thác hóa vật từ tàu đắm dưới lòng
cổ thì ở các phủ Tư Nghĩa, Thăng Hoa, biển khơi, khu vực xung quanh các đảo và
Hoài Nhân… đều có đồi mồi. Trong các bãi đá, bãi san hô ngầm. Những vật dụng
vụng biển ở Cù Lao Chàm hay trên đảo tìm thấy được đánh giá cao là các loại vũ
Hoàng Sa thường có thứ đồi mồi rất lớn, khí. Nếu chúng còn ở tình trạng tốt thì tiếp
gọi là hải ba, mai mỏng, có thể ghép làm tục được sử dụng, hoặc có thể tái chế bởi lẽ
các đồ vật; trứng nó như đầu ngón tay cái Đàng Trong khá khan hiếm về quặng kim
(3;197). Theo dân gian, đồi mồi còn được loại, nhất là đồng, sắt trong khi chính
dùng làm vị thuốc chữa các chứng bệnh quyền chúa Nguyễn thường xuyên có nhu
như động kinh, mụn nhọt và đậu mùa. cầu đúc súng và đúc tiền.
- Xà cừ: là sản vật được khai thác Như vậy, rõ ràng các nguồn lợi trực
nhiều nhất, rất sẵn ở Cù Lao Chàm, bán tiếp từ tài nguyên biển, đảo đã đem lại giá
đảo Sơn Trà cho đến Hoàng Sa. Lê Quý trị kinh tế lớn; phần lớn trong đó trở thành
Đôn cho biết: Xà cừ sản ở Quảng Nam. các mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao, đóng
Người xứ Thuận Hóa hay dùng để trang vai trò khá quan trọng trong sự duy trì
sức khay vuông, hộp tròn, hòm mũ, chuôi lượng thương lái ngoại quốc đến Đàng
kiếm. Ở Chiêm thành và Cao miên, khay Trong và điều tất yếu là kéo theo sự phát
hộp trang sức bằng xà cừ thì khảm lẫn các triển của nền ngoại thương khu vực này
thủy tinh, nhỏ, xanh biếc rực rỡ”(4;155). trong suốt các thế kỉ XVI-XVIII.
Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương Thứ ba, Biển và nghề đi biển đã
loại chí cũng có những mô tả về loại sản kích thích một số ngành nghề thủ công
vật này trên đảo Hoàng Sa: “có thứ ốc gọi phát triển
là ốc xà cừ, có thể khảm vào các đồ - Đóng tàu thuyền: Trên thực tế khó
vật”(3;197). có thể hình dung có một thời đại thương
23
- mại thịnh đạt ở Đàng Trong mà không có và tàu thuyền ở Việt Nam thời Nguyễn, vào
vai trò tích cực của nghề đóng thuyền, làm năm 1729, chúa Nguyễn cho lập “đội Mộc
mộc. Thời các chúa Nguyễn, nghề đóng than” gồm 195 người chuyên khai thác gỗ
thuyền được chú trọng phát triển, trước tiên đóng thuyền đem về nộp cho phủ chúa
để phục vụ nhu cầu đi lại của phủ chúa và (10;14). Những người này được miễn thuế
bộ máy nhà nước ở Đàng Trong, trong điều thân và miễn lao dịch, nhưng hàng năm
kiện mà đường bộ chưa phát triển, chủ yếu phải tìm kiếm cho đủ số gỗ mà giao nộp
dùng đường thủy qua hệ thống các sông theo định mức.
thông với cửa biển. Yếu tố tiếp theo kích - Nghề đóng ghe bầu: Do có thể khai
thích sự thịnh đạt của nghề này là nhu cầu thác được một số loại gỗ quý đặc biệt là gỗ
xây dựng lực lượng thủy binh mạnh chiến sao mà làng mộc Kim Bồng (Hội An)
đấu với thủy binh của họ Trịnh ở Đàng chuyên đóng ghe bầu trở nên nổi tiếng.
Ngoài (theo đường biển tiến vào) và do yêu Ghe bầu Kim Bồng cung cấp cho nhiều
cầu phòng thủ bờ biển, xác lập chủ quyền vùng thuộc xứ Đàng Trong, và như vậy
và khai thác hải vật, tìm kiếm hóa vật ở ghe bầu cũng trở thành một loại sản phẩm
những hòn đảo và quần đảo nằm trong hàng hóa, nghề đóng ghe bầu có điều kiện
quyền kiểm soát của chính quyền các chúa để phát triển hơn trước (6;8).
Nguyễn như Hoàng Sa, Trường Sa, Côn - Nghề đan, dệt cói: Xã Phú Trạch về
Lôn… Cuối cùng, do nhu cầu giao thương huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong xứ
bằng đường thủy giữa các vùng thuộc Thuận Hóa xưa có nghề dệt cói làm chiếu,
Đàng Trong, giao thương giữa Đàng Trong đan cói làm buồm cho tàu thuyền (3;190).
với các nước trong khu vực đã khiến các Kinh tế hàng hóa khởi sắc đã kéo theo sự
chúa Nguyễn tập trung ưu tiên phát triển phát triển của hàng loạt các ngành nghề thủ
ngành đóng thuyền trên tất cả các phương công, trong đó có nghề đan dệt các sản
diện: kĩ thuật, số lượng và chủng loại tàu phẩm từ cói. Bên cạnh mặt hàng truyền
thuyền (10;11-12). thống là chiếc chiếu với kích cỡ và hoa văn
Ngành đóng thuyền ở Đàng Trong phong phú, không thua kém sản phẩm của
thuộc độc quyền của nhà nước, do các chúa thợ thủ công làng Quảng Lãm vùng Kinh
Nguyễn đích thân kiểm soát, chỉ đạo. Một Bắc thì người dân Phú Trạch còn đan cói
nhà buôn người Anh có mặt ở Đàng Trong thành những cánh buồm, bộ phận không
năm 1792-1793 đã miêu tả rằng: “Nhà vua thể thiếu của tàu thuyền đi biển.
là người quản đốc các cảng biển, trong 3. Kết luận
công việc đóng thuyền thì không có một Sự phong phú tài nguyên biển, đảo (cá,
cái đinh nào được đóng xuống mà lại tôm, mắm, muối, hải sâm, đồi mồi, xà cừ,
không có sự tham vấn ban đầu của chúa” yến sào…) của Đàng Trong đã thu hút một
(6;50-51). Nhờ có các biện pháp tích cực lượng lớn các thương nhân trong nước và
mà chúa Nguyễn đã xây dựng được một nước ngoài vượt biển đến buôn bán trong
đội thuyền hùng hậu, đảm bảo cho các nhu các thế kỉ XVI – XVIII. Hoạt động trao đổi
cầu giao thông, thương mại và quốc phòng. thương mại sôi động của khu vực Đàng
- Nghề khai thác gỗ: Để phục vụ việc Trong với các thị trường trong nước và
đóng tàu thuyền, chúa Nguyễn đã huy động nước ngoài qua hệ thống cảng thị, chợ,
một lượng nhân lực lớn để tìm kiếm, khai bến… trong một chừng mực nhất định đã
thác các loại gỗ tốt làm nguyên liệu đóng kéo theo sự phát triển của các ngành như
thuyền. Theo tác giả của Nghề đóng thuyền nông nghiệp trồng trọt, thủ công nghiệp
24
- (trong đó đặc biệt là các nghề thủ công bổ sử, mà còn là bài học kinh nghiệm quý báu
trợ cho nghề đi biển và khai thác biển như cho chúng ta hôm nay trong việc hoạch
làm mộc, đóng ghe thuyền…). Tài liệu định phát triển kinh tế biển và giữ gìn toàn
nước ngoài và các thư tịch cổ của Việt Nam vẹn phần lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc.
đều khẳng định một thực tế không thể phủ
nhận, đó là vào các thế kỉ XVI- XVIII, TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đàng Trong là một vùng đất rộng lớn với
1. Dương Văn An (2001), Ô châu cận lục, Bản
nền kinh tế hàng hóa khá phát triển, nhiều hiệu đính và dịch chú của Trần Đại Vinh và
phố cảng ra đời, khách thương vào ra tấp Hoàng Văn Phúc, Nxb Thuận Hóa, Huế.
nập. Đây là một thay đổi căn bản và đầy ấn 2. C. Borri (2014), Xứ Đàng Trong năm 1621,
tượng trong lịch sử Việt Nam nói chung, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.
lịch sử kinh tế hàng hóa của đất nước ta 3. Phan Huy Chú (2006), Lịch triều hiến chương
loại chí, Tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
thời kì tiền tư bản nói riêng. Có thể khẳng 4. [4]. Lê Quý Đôn (2007), Phủ biên tạp lục,
định rằng, nguồn lợi phong phú do biển, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
đảo đem lại trong bối cảnh lịch sử thế kỉ 5. Li Tana (1999), Xứ Đàng Trong. Lịch sử kinh
XVI-XVIII từ hoạt động giao thông vận tải tế - xã hội Việt Nam thế kỉ XVII – XVIII.
cho đến cung cấp các loại sản vật quý Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
6. J.Barrow (2011), Một chuyến du hành đến xứ
hiếm… đã góp phần tạo dựng Đàng Trong Nam Hà (1792-1793), Nxb Thế Giới, HN
thành một vùng kinh tế thứ hai của đất 7. Nguyễn Văn Kim (2011), “Các nguồn hàng
nước với hạt nhân là đô thị Hội An, bên và thương phẩm của Đàng Trong”, Tạp chí
cạnh khu vực châu thổ sông Hồng với đô Nghiên cứu lịch sử, số 4 (420).
thị Thăng Long – Kẻ Chợ đã xuất hiện từ 8. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam
nhất thống chí, tập II, Nxb Thuận Hóa
các giai đoạn trước. Nói cách khác, đô thị 9. Thích Đại Sán (1963), Hải ngoại kỉ sự, Ủy
cảng Hội An là biểu hiện rõ rệt nhất sự ban phiên dịch sử liệu VN, VĐH Huế.
thịnh vượng của Đàng Trong thế kỉ XVI - 10. Trần Đức Anh Sơn (2014), Ngành đóng
XVIII. Hơn thế, trên nền tảng kinh tế phát thuyền và tàu thuyền ở Việt Nam thời Nguyễn,
triển, họ Nguyễn đã thành công trong công Nxb Văn hóa – Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh.
11. Lê Thông (2006), Địa lí ba vùng kinh tế trọng
cuộc xây dựng chính quyền độc lập, từng điểm ở Việt Nam, Nxb Giáo dục, HN
bước khai phá và nắm quyền quản lí phần 12. website:http://bachkhoatrithuc.vn/encyclopedi
lãnh thổ phía Nam của đất nước. Giá trị của a/1793-02633470714073281250/Hoa-hoc-va-
tài nguyên biển, đảo cùng vai trò của nó bien/Do-muoi-o-Bien-Dong.
trong quá khứ không chỉ là câu chuyện lịch
Ngày nhận bài: 11/5/2015 Biên tập xong: 15/7/2015 Duyệt đăng: 20/7/2015
25
nguon tai.lieu . vn