Xem mẫu

  1. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” GIÀ HÓA DÂN SỐ: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỚI CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ CHÍNH SÁCH HƢU TRÍ ThS. Nguyễn Thị Hồng Khoa Xã hội học Trƣờng Đại học KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM Email: hongnguyen@hcmussh.edu.vn Tóm tắt: Già hóa dân số hiện nay đang là vấn đề mang tính quốc tế. Già hóa dân số tác động tới mọi mặt của đời sống kinh tế và xã hội. Nó đặt ra những thách thức lớn, có tác động lâu dài cho đất nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội như tăng trưởng kinh tế, đầu tư, tích lũy, lao động. chăm sóc y tế, an sinh xã hội, thiết kế hạ tầng,…và đặc biệt là công tác an sinh xã hội và chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi63. Các chính sách về bảo hiểm xã hội (BHXH) và chính sách hưu trí có tác động và ảnh hưởng đến quá trình già hóa dân số. Việt Nam là một quốc gia có thu nhập trung bình thấp nhưng lại nằm trong các quốc gia có tốc độ già hóa nhanh nhất thế giới. Việc tiếp tục nghiên cứu xây dựng và điều chỉnh chính sách, đặc biệt là chính sách an sinh xã hội nói chung và chính sách BHXH, chính sách hưu trí nói riêng đang đặt ra những yêu cầu mang tính thách thức không chỉ với ngành BHXH mà cho toàn hệ thống chính trị. Già hóa dân số cũng là thách thức đối với hệ thống y tế Việt Nam như: gia tăng các bệnh mãn tính, chi phí y tế tăng cao vì chi phí y tế cho người cao tuổi cao gấp 7-10 lần người trẻ; khả năng cung cấp dịch vụ y tế cho người cao tuổi còn nhiều hạn chế; thiếu nhân lực được đào tạo - thiếu đội ngũ y bác sỹ được đào tạo chuyên về chăm sóc người cao tuổi tại hệ thống Khoa Lão ở các bệnh viện tại Việt Nam; thiếu người chăm sóc tại gia đình và cộng đồng,…đó là những vấn đề đang gây nhức nhối cho xã hội và cũng là điều mà tác giả bài viết muốn làm rõ thêm. Từ khóa: già hóa dân số, chính sách bảo hiểm xã hội, chính sách hưu trí. 1. Đặt vấn đề Hiện nay trên thế giới có gần 7 tỷ ngƣời và 1/9 trong số này là ngƣời từ 60 tuổi trở lên. Theo số liệu dự báo của Quỹ Dân số Liên hợp quốc, đến năm 2050 dân số thế giới sẽ đạt 9,2 tỷ ngƣời và tỷ lệ ngƣời từ 60 tuổi trở lên sẽ chiếm 1/5, nghĩa là cứ 5 ngƣời thì có 1 ngƣời cao tuổi (NCT)64. 63 Bài phát biểu khai mạc Hội thảo của bà Nguyễn Thị Minh - Thứ trƣởng, Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam tại Hội thảo chia sẻ kinh nghiệm BHXH bền vững trong bối cảnh già hóa dân số do BHXH Việt Nam tổ chức tại Hà Nội tháng 2/2018. 64 Bài phát biểu khai mạc Hội thảo của bà Nguyễn Thị Minh - Thứ trƣởng, Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam tại Hội thảo chia sẻ kinh nghiệm BHXH bền vững trong bối cảnh già hóa dân số do BHXH Việt Nam tổ chức tại Hà Nội tháng 2/2018. 111
  2. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” Theo các chuyên gia nhân khẩu học của Tổ chức Dân số Liên Hợp quốc, tại Việt Nam, nhóm NCT từ 60 tuổi trở lên chiếm 10,2% dân số. Theo GS. TS. Bùi Thế Cƣờng, “quá trình già hóa của Việt Nam bắt đầu từ giai đoạn năm 2000-2005” và năm 2017 Việt Nam chính thức bƣớc vào giai đoạn dân số già. Nhận thức rõ những thách thức này, trong thời gian qua Chính phủ Việt Nam đã ban hành Luật Ngƣời cao tuổi, chƣơng trình hành động quốc gia về Ngƣời cao tuổi và nhiều chính sách khác, với những điều chỉnh phù hợp trong bối cảnh kinh tế - xã hội cụ thể của đất nƣớc, đặc biệt là các chính sách an sinh xã hội cho NCT tại Việt Nam nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu vật chất và tinh thần cho NCT. Trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã có những chính sách ƣu đãi đối với ngƣời cao tuổi, đặc biệt là những chính sách về vật chất và tinh thần nhƣ: chính sách bảo trợ xã hội, giảm giá vé, giá dịch vụ khi sử dụng một số dịch vụ và chính sách chúc thọ mừng thọ,… Về chính sách bảo trợ xã hội, đối với NCT từ 60 - dƣới 80 tuổi thuộc hộ gia đình nghèo không có ngƣời phụng dƣỡng, hoặc có ngƣời phụng dƣỡng nhƣng ngƣời này đang ở chế độ trợ cấp xã hội hàng tháng thì đƣợc hƣởng mức trợ cấp 180 nghìn đồng/ngƣời/tháng. Đối với NCT từ 80 tuổi trở lên thuộc hộ gia đình nghèo không có ngƣời phụng dƣỡng, hoặc có phụng dƣỡng nhƣng ngƣời này đang hƣởng chế độ trợ cấp xã hội hàng tháng, thì đƣợc hƣởng mức trợ cấp 270 nghìn đồng/ngƣời/tháng. Đối với NCT đƣợc nhận nuôi dƣỡng trong các cơ sở bảo trợ xã hội quy định tại khoản 2 điều 18 Luật ngƣời cao tuổi, thì đƣợc hƣởng mức trợ cấp 360 nghìn đồng/ngƣời/tháng. Đối với NCT đủ điều kiện tiếp nhận vào sống trong các cơ sở bảo trợ xã hội nhƣng có ngƣời nhận chăm sóc tại cộng đồng theo quy định tại mục 4 điều 19 Luật NCT, thì đƣợc hƣởng mức trợ cấp 360 nghìn đồng/ngƣời/tháng. Ngoài mức trợ cấp trên, khi NCT qua đời, còn đƣợc nhà nƣớc hỗ trợ chi phí mai táng 3 triệu đồng theo quy định tại mục 4 điều 18, 19 của Luật NCT. Đối với chính sách giảm giá vé, giá dịch vụ, theo Nghị định 06/2011 ban hành ngày 14/1/2011 về hƣớng dẫn thi hành một số điều của Luật NCT, thì NCT còn đƣợc giảm giá vé dịch vụ, tham quan di tích văn hóa lịch sử, bảo tàng, danh lam thắng cảnh, tập luyện thể dục thể thao tại các cơ sở có bán vé, đƣợc giảm ít nhất từ 15% đến 20%. Tuy nhiên, những thách thức trong công tác này vẫn cần đƣợc nghiên cứu và tiếp tục điều chỉnh. Hiện nay một bộ phận lớn dân cƣ sống ở nông thôn (65,7%) là nông dân và làm nông nghiệp; đời sống NCT còn khó khăn: 70% NCT không có tích lũy vật chất; 2,3% gặp khó khăn, thiếu thốn và 18% sống trong hộ nghèo. Trên 70% NCT vẫn tự lao động kiếm sống cùng với sự hỗ trợ của con cháu và gia đình, chỉ có hơn 25,5% NCT sống bằng lƣơng hƣu hay trợ cấp xã hội. NCT Việt Nam chủ yếu sống với con, cháu chiếm 72,3%; nữ giới chiếm tỷ lệ cao hơn trong nhóm NCT65. Bên cạnh đó, thực tế hiện nay ở một số vùng nông thôn, đa số thanh niên đi xuất khẩu lao động hoặc di cƣ đến các thành phố lớn, để lại nông thôn chỉ còn ngƣời cao tuổi và trẻ em. 65 Bài phát biểu khai mạc Hội thảo của bà Nguyễn Thị Minh - Thứ trƣởng, Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam tại Hội thảo chia sẻ kinh nghiệm BHXH bền vững trong bối cảnh già hóa dân số do BHXH Việt Nam tổ chức tại Hà Nội tháng 2/2018. 112
  3. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” Vì vậy, các chính sách BHXH và chính sách hƣu trí có liên quan đến vấn đề già hóa dân số, đặc biệt trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu thêm những vấn đề này ở các phần sau của bài viết. 2. Khái niệm già hóa dân số Theo các chuyên gia dân số và kinh tế, già hóa dân số là một trong những xu hƣớng có ý nghĩa nhất của thế kỷ 21, có tác động đến toàn bộ các khía cạnh của đời sống xã hội của thế giới và từng quốc gia. Dân số già, điều đó có nghĩa là tuổi thọ dân cƣ tăng lên và đó là hệ quả tích cực của phát triển kinh tế, chăm sóc y tế và phúc lợi xã hội. Theo thống kê, hiện nay trên thế giới có gần 7 tỷ ngƣời và 1/9 trong số này là ngƣời từ 60 tuổi trở lên. Theo dự báo, đến năm 2050 dân số thế giới đạt 9,2 tỷ ngƣời và tỷ lệ ngƣời từ 60 tuổi trở lên sẽ là 1/5, nghĩa là cứ 5 ngƣời thì có một ngƣời cao tuổi66. Vậy, thế nào là dân số già và già hóa dân số? Khái niệm già hóa dân số chỉ quá trình già của dân số, khi trong cơ cấu dân số số ngƣời cao tuổi chiếm tỷ lệ ngày càng tăng lên. Tuy nhiên, tỷ lệ ngƣời cao tuổi trong tổng dân số đến “ngƣỡng” nào thì dân số đƣợc coi là già hóa, hiện vẫn có sự khác biệt. Theo một số tác giả, khi trong tổng dân số, số ngƣời từ 65 tuổi trở lên chiếm từ 7% đến 9,9% thì dân số đó đƣợc coi là bƣớc vào quá trình “già hóa” (Cowgill và Holmes, 1970). Một số tác giả và tổ chức quốc tế lại cho rằng khi tỷ lệ ngƣời từ 60 tuổi trở lên chiếm 10% trong tổng dân số thì dân số đó đƣợc coi là “già hóa” (Dƣơng Quốc Trọng, 2011). Còn khái niệm dân số già là khi trong quy mô dân số, tỷ lệ ngƣời từ 65 tuổi trở lên chiếm từ 10% - 19,9% (Cowgill) hoặc 14% (Dƣơng Quốc Trọng, 2011). Ngoài ra, còn có khái niệm dân số “rất già” và “siêu già”. Để chỉ mức độ già của dân số, còn có khái niệm tuổi thọ trung bình của dân số. Hiện nay có khoảng 33 nƣớc có tuổi thọ trung bình của dân số trên 80 tuổi (trong khi 5 năm trƣớc đó, chỉ có 19 nƣớc đạt đƣợc tuổi thọ này). Nhƣ vậy, có thể thấy rõ dù tỷ lệ có khác nhau, nhƣng “già hóa” là chỉ “quá trình”, còn “dân số già” là “một đặc điểm về “già” của một quần thể dân cƣ” (theo GS. TS. Bùi Thế Cƣờng). Quá trình chuyển từ già hóa dân số sang dân số già ở các nƣớc khá khác nhau; chẳng hạn ở Pháp kéo dài 115 năm, ở Thụy Điển quá trình này dài 85 năm, Hoa Kỳ 70 năm, Nhật Bản 26 năm… Mặt khác, tuổi để tính dân số già hóa hoặc già thƣờng là 60 hoặc 65 tuổi trở lên. Ở Hàn Quốc, năm 2010 tỷ lệ ngƣời từ 65 tuổi trở lên chiếm 11% dân số, năm 2016 tỷ lệ này là 18,1%, nhƣng đến năm 2030 đã tăng lên 24,3%, 2040 tăng lên 32,5%. Nhƣ vậy, năm 2016 Hàn Quốc đã bắt đầu trở thành quốc gia “già”. Theo Liên hợp quốc, già hóa dân số đang diễn ra ở tất cả các châu lục và các quốc gia trên toàn thế giới với tốc độ khác nhau. Già hóa dân số đang tăng nhanh ở các nƣớc đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Chẳng hạn, để tỷ lệ ngƣời già trong tổng số dân của Hàn Quốc tăng từ 7% lên 14% chỉ mất có 18 năm, ở Nhật Bản mất 24 năm, thì ở Thụy Điển mất 85 năm, ở Hoa kỳ mất 73 năm… Tƣơng tự nhƣ vậy, để tỷ lệ ngƣời già tăng từ 14% - 20% Hàn 66 PGS TS Mạc Văn Tiến, “Già hóa dân số và những thách thức của nhân loại”. 113
  4. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” Quốc chỉ mất có 8 năm, Nhật Bản là 12 năm, thì ở Thụy Điển mất 39 năm và Hoa Kỳ mất 21 năm. Dân số Việt Nam đã già chƣa? Chúng ta đã vào giai đoạn già hóa chƣa? Đây là câu hỏi rất đáng quan tâm, vì liên quan đến rất nhiều chính sách kinh tế-xã hội trong đó có chính sách an sinh xã hội và BHXH. Theo tổng điều tra dân số 1/4/2009, tỷ lệ ngƣời từ 60 tuổi trở lên trong dân số Việt nam là 8,67%, còn tỷ lệ ngƣời từ 65 tuổi trở lên là 6,4%. Chiếu theo các quy ƣớc Quốc tế nêu trên thì nƣớc ta vẫn thuộc nhóm nƣớc dân số trẻ hay chƣa “già hóa”. Tuy nhiên, theo thống kê tại thời điểm 1/4/2010, số ngƣời từ 60 tuổi trở lên trong dân số nƣớc ta đã chiếm 9,4%. Nhƣ vậy, chỉ qua một năm, tỷ lệ ngƣời cao tuổi Việt Nam đã tăng 0,7%, trong khi ba thập kỷ trƣớc đó (1979 - 2009) chỉ tăng có 0,06%. Tức là một năm vừa qua tỷ lệ tăng đã hơn gấp 10 lần so với giai đoạn trƣớc đây (Dƣơng Quốc Trọng, 2011). Với tốc độ này, dân số Việt Nam sớm bƣớc vào giai đoạn già hóa nhanh hơn so với dự báo. Và năm 2017, Việt Nam chính thức bƣớc vào giai đoạn “già hoá dân số” (theo dự báo của Tổng cục Dân số). Tuy nhiên, nếu với tốc độ gia tăng tƣơng tự nhƣ năm 2010 thì đến 1/4/2011, tỷ lệ ngƣời từ 60 tuổi trở lên đã là 10,1%, ngƣời từ 65 tuổi trở lên đã là 7,2% và nhƣ vậy, dù theo tiêu chí nào, chúng ta cũng đã bƣớc vào giai đoạn “già hoá dân số” ngay từ năm 2011, sớm hơn 6 năm so với dự báo trƣớc đây. Hơn nữa, quá trình chuyển từ già hóa dân số sang dân số già ở nƣớc ta cũng diễn ra nhanh hơn nhiều so với các nƣớc trong khu vực. Theo dự báo của Tổng cục Dân số, để chuyển từ dân số trẻ sang dân số già ở nƣớc ta chỉ mất khoảng 20 năm, thậm chí theo Dƣơng Quốc Trọng, chỉ khoảng 17 đến 18 năm (trong khi đó Philippin mất khoảng 40 năm, Malaysia khoảng 26 năm). Theo dự báo, đến năm 2035 trong cơ cấu dân số nƣớc ta, tỷ lệ trẻ em (dƣới 15 tuổi) và ngƣời già (từ 60 tuổi trở lên) là 1/1, nghĩa là cứ có 1 trẻ em thì có 1 ngƣời già và đến năm 2049, tỷ lệ này là 1/1,41, nghĩa là cứ có 1 trẻ em thì có 1,41 ngƣời già67. Bên cạnh việc đƣợc coi là thành tựu của quá trình phát triển, già hóa dân số cũng tạo ra thách thức về mặt kinh tế, xã hội và văn hóa ở các cấp độ cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã hội trên toàn thế giới. Thách thức lớn nhất là thay đổi cơ cấu lao động, tỷ lệ ngƣời ở độ tuổi cao (từ 45-60 tuổi) sẽ tăng lên và tỷ lệ gia nhập thị trƣờng lao động sẽ có xu hƣớng giảm đi và nhƣ vậy, để đáp ứng nhu cầu nhân lực cho nền kinh tế, các nƣớc phải sử dụng lao động già hơn (đồng nghĩa với việc tăng tuổi nghỉ hƣu để có thêm nhân lực cho nền kinh tế). Về mặt kinh tế, già hóa dân số và dân số già có ảnh hƣởng kép đến nền kinh tế. Một mặt, năng suất lao động của nhóm tuổi cao sẽ kém hơn so với các nhóm tuổi trẻ khác trong lực lƣợng lao động, dẫn đến thu nhập của nền kinh tế nói chung và của từng gia đình nói riêng bị ảnh hƣởng. Điều này dẫn đến hệ lụy là những ngƣời trẻ tuổi phải làm việc nhiều hơn để bù đắp thiếu hụt thu nhập của gia đình. Mặt khác, chi phí chăm sóc y tế và các phúc lợi khác cho ngƣời cao tuổi tăng lên, ảnh hƣởng đến đầu tƣ cho phát triển. Về mặt xã hội, trong một xã hội dân số già, các vấn đề xã hội sẽ phát sinh nhƣ quan hệ giữa các thế hệ, sự chăm sóc cho ngƣời già của từng gia đình và xã hội sẽ là những vấn đề các quốc gia phải quan tâm. Nhƣ 67 PGS TS Mạc Văn Tiến, “Già hóa dân số và những thách thức của nhân loại”, Vietnamnet. 114
  5. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” cảnh báo của Tổng thƣ ký Liên hợp quốc: “Ảnh hưởng về kinh tế và xã hội của hiện tượng già hóa dân số có ý nghĩa vô cùng sâu rộng, không chỉ tác động tới cá nhân người cao tuổi và gia đình họ mà còn tác động lan tỏa tới toàn xã hội và cộng đồng toàn cầu theo những cách thức chưa từng được biết đến” (UNFPA, 2012). 3. Chính sách bảo hiểm xã hội Bắt đầu từ ngày 01/01/2018, chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH) có 4 thay đổi lớn và ngƣời lao động sẽ phải đóng tăng số năm để đƣợc hƣởng mức lƣơng hƣu tối đa, mức đóng BHXH hàng tháng phải cộng thêm các khoản bổ sung. Đồng thời thêm hai đối tƣợng phải tham gia BHXH bắt buộc: 1) Ngƣời làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ một tháng đến dƣới ba tháng; 2) Ngƣời lao động là công dân nƣớc ngoài vào làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề, giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp. Theo Luật Bảo hiểm xã hội 2014 thì mức hƣởng lƣơng hƣu tối đa là 75% mức tiền lƣơng bình quân tháng đóng bảo hiểm xã hội. Để đƣợc hƣởng mức lƣơng hƣu tối đa, hiện nay lao động nữ phải đóng đủ 25 năm bảo hiểm xã hội, song từ 2018 sẽ phải đóng đủ 30 năm. Lao động nam hiện nay phải có đủ 30 năm đóng bảo hiểm xã hội. Từ năm 2018, nam giới phải đóng 31 năm nếu nghỉ hƣu vào năm 2018, đóng 32 năm nếu nghỉ hƣu vào năm 2019, đóng 33 năm nếu nghỉ hƣu vào năm 2020, đóng 34 năm nếu nghỉ hƣu năm 2021, đóng 35 năm nếu nghỉ hƣu từ năm 2022 trở đi. Với quy định mới, áp dụng cho lao động nữ nghỉ hƣu năm 2018 có 25 năm đóng bảo hiểm xã hội sẽ bị mất tối đa là 10% lƣơng. “Đây là điều không công bằng với phương thức tăng theo lộ trình đối với lao động nữ” 68. Theo lãnh đạo Bộ Lao động, Thƣơng binh và Xã hội, khoảng 3.000 lao động nữ nghỉ hƣu bị thiệt thòi do chính sách thay đổi. Bộ Lao động sẽ kiến nghị Chính phủ có chính sách hỗ trợ tăng lƣơng hƣu cho số lao động này. 4. Chính sách hƣu trí và an sinh xã hội cho ngƣời cao tuổi Hệ thống hƣu trí Việt Nam gồm 2 loại hình: hƣu trí bắt buộc và hƣu trí tự nguyện; đƣợc hình thành dựa trên sự đóng góp của ngƣời tham gia. Mức hƣởng lƣơng hƣu đƣợc tính theo mức lƣơng đóng BHXH bình quân; tỷ lệ hƣởng ở mức tối đa là 75%. Mục tiêu của BHXH Việt Nam là đến năm 2020 có 50% lực lƣợng lao động tham gia BHXH; đến năm 2030: tất cả ngƣời cao tuổi từ 75 tuổi trở lên không có lƣơng hƣu, trợ cấp BHXH của Nhà nƣớc sẽ đƣợc hƣởng trợ cấp xã hội. Tuy nhiên, hiện nay mức độ cam kết tham gia của ngƣời sử dụng lao động với chế độ hƣu trí nói riêng hay chính sách BHXH nói chung của Việt Nam còn thấp; tuổi nghỉ hƣu thấp, công tác dự báo và đầu tƣ quỹ còn hạn chế do phải đặt tính an toàn của quỹ BHXH lên hàng đầu. Đối với chính sách chúc thọ, mừng thọ thì NCT thọ 100 tuổi đƣợc Chủ tịch nƣớc chúc thọ và tặng quà, ngƣời thọ 90 tuổi đƣợc Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng chúc thọ và tặng quà. UBND xã, phƣờng, thị trấn phối hợp với Hội ngƣời cao tuổi tại địa phƣơng tổ chức mừng thọ NCT ở tuổi từ 70 đến 100 tuổi trở lên vào các ngày nhƣ: ngày 68 Nguyễn Tất Năm, Trƣởng phòng Lao động - Tiền Lƣơng và BHXH, Sở Lao Động Thƣơng Binh và Xã hội TPHCM. 115
  6. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” ngƣời cao tuổi Việt Nam 6/6; ngày quốc tế ngƣời cao tuổi 1/10; Tết Nguyên đán hoặc ngày sinh nhật ngƣời cao tuổi. Cùng với chính sách bảo trợ xã hội, thực hiện Nghị định 06/2011 của Chính phủ, Bộ tài chính cũng đã ban hành Thông tƣ số 21 ngày 18/2/2011 quy định rất cụ thể về quản lý và sử dụng kinh phí chăm sóc sức khỏe ban đầu cho ngƣời cao tuổi tại nơi cƣ trú, chúc thọ, mừng thọ, biểu dƣơng, khen thƣởng đối với NCT. Theo ông Nguyễn Khang (Phó Vụ trƣởng Vụ Hợp tác Quốc tế - BHXH Việt Nam) cho rằng: “Ƣu điểm của hệ thống hƣu trí Việt Nam là có sự cam kết mạnh mẽ của hệ thống chính trị, có hệ thống pháp luật tƣơng đối ổn định, nền kinh tế tăng trƣởng đều và bền vững, hệ thống BHXH rộng khắp và có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin cao. Tuy nhiên, tính tuân thủ tham gia BHXH trong khu vực phi chính thức còn thấp; số ngƣời đƣợc hƣởng lƣơng hƣu thấp (khoảng 2,3 triệu ngƣời); tỷ lệ hƣởng lƣơng hƣu ở mức tối đa cao và dài, trong khi tuổi thọ của ngƣời nghỉ hƣu ngày một tăng cao;số tiền tuyệt đối đóng vào quỹ BHXH không cao do tiền lƣơng làm căn cứ đóng BHXH chỉ chiếm khoảng 60% thu nhập thực tế;…chính là những thách thức đặt ra với hệ thống hƣu trí Việt Nam”69. Già hóa dân số và dân số già đã đặt ra thách thức lớn đối với toàn thế giới, đặc biệt là đối với Việt Nam, khi tốc độ già hóa của dân số nƣớc ta diễn ra nhanh hơn và quá trình chuyển từ già hóa sang già của dân số nƣớc ta diễn ra ngắn hơn nhiều so với các nƣớc. Dƣới góc độ ASXH, già hóa dân số và dân số già ở nƣớc ta, đặt ra những vấn đề sau: Thứ nhất, khi dân số cao tuổi chiếm tỷ lệ cao trong tổng dân số cũng đồng nghĩa với tỷ lệ tham gia lực lƣợng lao động có xu hƣớng giảm đi và số ngƣời sau 60 tuổi sẽ tăng lên và sống lâu hơn. Nhƣ vậy, số ngƣời làm ra của cải vật chất cho xã hội sẽ có xu hƣớng giảm đi và số ngƣời thụ hƣởng sẽ có xu hƣớng gia tăng. Điều này ở một khía cạnh nào cũng sẽ tạo ra “gánh nặng” cho quỹ hƣu trí quốc gia khi phải chi trả lƣơng hƣu nhiều hơn và dài thời gian hơn, trong khi đó số ngƣời đóng góp có xu hƣớng giảm đi tƣơng đối so với số ngƣời thụ hƣởng (do hệ quả của mức sinh thấp). Để khắc phục tình trạng này đòi hỏi phải có những điều chỉnh hợp lý trong thiết kế chế độ hƣu, nhƣ tăng mức đóng góp hoặc tăng tuổi nghỉ hƣu (kéo dài thời gian đóng góp hơn) hoặc tăng cả hai (vừa tăng mức đóng góp vừa tăng thời gian đóng góp BHXH). Đối với nƣớc ta hiện nay, mở rộng đối tƣợng tham gia BHXH (hƣớng tới BHXH cho toàn bộ ngƣời lao động) sẽ là một trong những giải pháp để tăng quy mô quỹ hƣu trí và tăng khả năng chi trả BHXH cho ngƣời thụ hƣởng trong tƣơng lai gần. Đồng thời, đòi hỏi phải điều chỉnh, thiết kế lại quỹ hƣu trí. Mặt khác, cần khai thác khía cạnh tích cực của ngƣời cao tuổi. Khi có sự chăm sóc y tế tốt (ngay từ khi còn trẻ), ngƣời cao tuổi (60, 65 tuổi trở lên) vẫn còn khỏe mạnh và vẫn có thể tạo ra thu nhập cho bản thân và gia đình. Vấn đề đặt ra trong hệ thống an sinh xã hội quốc gia là phải có chính sách việc làm phù hợp cho ngƣời cao tuổi, để họ vừa duy trì đƣợc sức khỏe vừa có đƣợc thu nhập . 69 Bài phát biểu của ông Nguyễn Khang – Phó Vụ trƣởng Vụ Hợp tác Quốc tế - BHXH Việt Nam tại Hội thảo chia sẻ kinh nghiệm BHXH bền vững trong bối cảnh già hóa dân số do BHXH Việt Nam tổ chức tại Hà Nội tháng 2/2018. 116
  7. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” Thứ hai, theo quy luật chung, tuổi càng cao, sức khỏe càng giảm. Dù muốn hay không, con ngƣời vẫn đối mặt với tình trạng bệnh tật, sức khỏe của mình khi tuổi ngày càng cao trong vòng đời Sinh - Lão - Bệnh - Tử. Khi đã ngoài 60 tuổi, quá trình đồng hóa giảm đi, quá trình dị hóa tăng lên, quá trình lão hóa diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh, đồng thời phát sinh những loại bệnh tật đặc trƣng của tuổi già. Mặc dù, nhờ những thành tựu trong phát triển kinh tế cũng nhƣ trong tiến bộ của y học, nhƣng cơ cấu bệnh tật của dân số nƣớc ta nói chung và của ngƣời cao tuổi nói riêng đang chuyển dần từ mô hình bệnh tật của những nƣớc đang phát triển sang của nƣớc phát triển. Cơ cấu bệnh tật hiện nay của nƣớc ta chuyển từ không nhiễm trùng, không lây nhiễm sang các bệnh chủ yếu nhƣ cao huyết áp, đột quỵ, tiểu đƣờng, rối loạn chuyển hóa… (Giang Thanh Long, 2011). Nhƣ vậy, cùng với tuổi tác, cơ cấu chi tiêu của ngƣời cao tuổi đã thay đổi nhiều, chi phí cho khám, chữa bệnh có xu hƣớng tăng lên. Ngƣời già lại hay bị những loại bệnh đòi hỏi chi phí y tế cao nhƣ huyết áp, đột quỵ, tim mạch…Theo PGS. TS Phạm Thắng - Viện Lão khoa Quốc gia: “Nhu cầu chăm sóc ngƣời cao tuổi (y tế, xã hội, tài chính) sẽ là một thách thức lớn đối với xã hội và gia đình. Ngƣời cao tuổi có nhu cầu chăm sóc sức khoẻ nhiều hơn, trong khi chi phí cho đối tƣợng này cũng cao gấp 7 - 8 lần so với trẻ em. Chi phí này hoặc là gia đình phải tự chi hoặc là hệ thống BHYT chi trả (đối với những ngƣời tham gia BHXH hoặc đối tƣợng thụ hƣởng BHXH, BHYT). Dù góc độ này hay góc độ khác thì đây cũng là vấn đề của hệ thống ASXH. Một mặt, nhà nƣớc và xã hội phải tăng các chi phí cho hệ thống y tế (gia tăng số giƣờng bệnh, bệnh viện lão khoa, nhà dƣỡng lão, chi phí khám, chữa bệnh,…). Mặt khác, phải mở rộng, phát triển các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ngƣời cao tuổi với những nguồn nhân lực và tài lực nhất định. Do điều kiện kinh tế - xã hội ở nƣớc ta, ngƣời cao tuổi ở Việt Nam có sức khỏe kém hơn so với những ngƣời cùng độ tuổi ở các nƣớc phát triển. Nói cách khác, tuổi thọ khỏe mạnh của ngƣời cao tuổi Việt Nam thấp hơn so với nhiều nƣớc, sống lâu nhƣng không sống khỏe. Theo một số số liệu thống kê, tuổi thọ bình quân của ngƣời Việt Nam là 73 thì đã mất 12 năm ốm đau, bệnh tật (UNFPA, 2012). Thứ ba, đối với một nƣớc có xuất phát điểm thấp nhƣ Việt Nam, cho đến nay, về cơ bản nƣớc ta vẫn là nƣớc nông nghiệp với trên 70% số dân và cũng khoảng 70% số lao động và lao động ở nông thôn, trong đó khoảng 50% làm các nghề nông nghiệp. Trong khi đó số lao động tham gia hệ thống BHXH chỉ chiếm khoảng 10% - 20% tổng lực lƣợng lao động và chủ yếu ở khu vực thành thị. Nhƣ vậy, đa số ngƣời lao động nông thôn khi trở thành ngƣời cao tuổi (60 tuổi trở lên) sẽ không đƣợc hƣởng lƣơng hƣu từ hệ thống BHXH. Để tiếp tục cuộc sống, những ngƣời cao tuổi này buộc phải tự lao động kiếm sống hoặc nhờ sự hỗ trợ của con cháu, hoặc nhờ sự trợ giúp của cộng đồng. Theo chính sách chăm sóc ngƣời cao tuổi của Đảng và Nhà nƣớc, những ngƣời cao tuổi cần đƣợc chăm sóc, khi đó cần phải có những cơ chế khác với những nguồn lực khác của hệ thống ASXH để đảm bảo cuộc sống và sức khỏe cho ngƣời cao tuổi ở nông thôn. Tuy nhiên, điều này không dễ dàng đƣợc giải quyết khi các nguồn lực còn hạn chế. Do vậy, đối với ngƣời cao tuổi ở nông thôn, việc làm, thu nhập và chăm sóc sức khỏe 117
  8. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” luôn là những vấn đề không chỉ là hiện tại và vẫn là những vấn đề của tƣơng lai khi xu hƣớng dân số đang già hóa. Vấn đề càng “cộm” hơn khi trong xã hội Việt Nam hiện đại, các gia đình nhiều thế hệ (Ông bà - Bố mẹ - Con,…) ngày càng giảm, quy mô gia đình ngày càng nhỏ do số con ít. Con cái hoặc không muốn sống với bố mẹ hoặc vì điều kiện sinh sống, không thể sống cùng hoặc sống gần bố mẹ. Ngƣời cao tuổi khi đó rất dễ rơi vào tình trạng sống cô đơn hoặc sống chỉ có hai vợ chồng già. Trong khi hiện nay ở nƣớc ta các dịch vụ chăm sóc ngƣời cao tuổi, dịch vụ đối với ngƣời cao tuổi (không chỉ là chăm sóc) còn hạn chế. Đó thực sự là vấn đề xã hội của ngƣời cao tuổi và là áp lực rất lớn đối với chính sách ASXH và BHXH. Thứ tƣ, nƣớc ta trải qua các cuộc chiến tranh kéo dài với rất nhiều thế hệ ngƣời lính phải sống và chiến đấu ở những vùng ác liệt, nhiều nơi bị nhiễm chất độc da cam… Đến nay, đa phần họ đã thuộc nhóm ngƣời cao tuổi. Ngoài những loại bệnh của ngƣời già, không ít trong số họ mắc những bệnh đặc trƣng của chiến tranh, trong khi đó, đa phần trong số họ sau chiến tranh về quê nhà sinh sống, họ không có lƣơng hƣu. Điều này, đòi hỏi cần có những chính sách ASXH đặc thù cho nhóm ngƣời này. Thứ năm, cũng là đặc thù của nền kinh tế Việt Nam khi thu nhập của ngƣời lao động thấp, thu nhập chỉ đủ trang trải (thậm chí không đủ) cho những chi tiêu trƣớc mắt, không có và không thể có cho tích tũy trong tƣơng lai. Điều này là nguy cơ tiềm năng khi ngƣời lao động không làm việc đƣợc nữa, họ sẽ không có khoản tích lũy để chi dùng khi trở thành ngƣời cao tuổi. Một số nhà phân tích đã nêu, ngƣời lao động Việt Nam “già khi chƣa giàu”. Đối với một ngƣời “già khi chƣa giàu” sẽ tạo áp lực cho con cái, nhƣng đối với một xã hội “già hóa” và xã hội “già” thì áp lực này sẽ chuyển sang hệ thống ASXH. Qua những phân tích trên cho thấy giữa già hóa dân số, dân số già và ASXH có mối quan hệ “nhân- quả”. Điều này cho thấy, một mặt phải điều chỉnh chính sách dân số sao cho quá trình già hóa dân số diễn ra chậm hơn và quá trình chuyển từ dân số già hóa sang dân số già diễn ra với thời gian lâu hơn; mặt khác, cần phải có chiến lƣợc ASXH ứng phó phù hợp. Chính sách ASXH đối với ngƣời cao tuổi không nên chung cho mọi nhóm bởi ngƣời cao tuổi không phải là nhóm dân số đồng nhất. Ngƣời cao tuổi cũng có ngƣời giàu, ngƣời nghèo; có ngƣời khỏe mạnh và ngƣời ốm yếu; có ngƣời đƣợc sống cùng con cháu, nhƣng có ngƣời chỉ sống một mình… Vì vậy, nên phân nhóm đối tƣợng để có chính sách ASXH ứng phó phù hợp. Phải xây dựng và phát triển các dịch vụ xã hội đối với ngƣời cao tuổi, đặc biệt là đối với ngƣời cao tuổi ở nông thôn. BHXH cho mọi ngƣời lao động và BHYT toàn dân là hƣớng đi và là giải pháp tích cực, chủ động trong chính sách ASXH của mỗi quốc gia. Sinh – Lão - Bệnh - Tử là quy luật của cuộc sống loài ngƣời. Ai sinh ra rồi cũng phải già và chết. Do vậy, ASXH đối với ngƣời cao tuổi hiện tại cũng chính là đảm bảo ASXH tƣơng lai cho ngƣời lao động hiện tại70. 70 PGS.TS. Mạc Văn Tiến. (2016). Già hóa dân số và những thách thức của nhân loại. Tạp chí BHXH. 118
  9. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” 5. Kết luận – kiến nghị Các chính sách trên đã đƣợc các cấp, các ngành, Hội NCT các cấp trên địa bàn cả nƣớc triển khai thực hiện, bƣớc đầu đem lại nhiều kết quả thiết thực, góp phần giúp NCT sống vui, sống khỏe. Tuy nhiên, đối với những NCT chƣa vào tổ chức Hội thì vẫn còn mơ hồ và thậm chí còn chƣa đƣợc giải quyết một trong những chính sách trên, đặc biệt là những NCT khu vực nông thôn, miền núi, do họ chƣa nắm đƣợc các chủ trƣơng chính sách của Đảng và Nhà nƣớc đối với NCT. Hơn nữa, công tác tuyên truyền phổ biến Luật NCT chƣa đƣợc quan tâm đúng mức, việc tuyên truyền còn bó hẹp trong phạm vi tổ chức Hội ở cơ sở. Do vậy, để các chính sách đối với ngƣời cao tuổi thực sự đi vào cuộc sống và mọi đối tƣợng đều đƣợc giải quyết các chế độ thì cần có sự quan tâm hơn nữa của các cấp, các ngành và của toàn xã hội trong công tác tuyên truyền, phối hợp giải quyết các chế độ cho NCT. Các tổ chức hội NCT ở cơ sở cần tập trung tuyên truyền phổ biến Luật NCT tại cộng đồng, vận động NCT tham gia vào tổ chức hội để đƣợc hƣởng những quyền lợi từ các chính sách của nhà nƣớc dành cho NCT. Theo ông Josef Pilger – chuyên gia trƣởng dịch vụ hƣu trí toàn cầu Ernst & Young:“Chính phủ Việt Nam cần cân nhắc thấu đáo một số nội dung trọng tâm trước khi tiến hành cải cách chính sách hưu trí như: tầm nhìn và chiến lược của Việt Nam về chế độ hưu trí và an sinh xã hội phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế; tính cấp thiết mang tính quyết định việc thực hiện cải cách hưu trí và an sinh xã hội; các biện pháp chủ chốt và những tác động liên quan nếu có”71. Từ những phân tích, nhận định nêu trên để đạt đƣợc quan điểm, mục tiêu là đảm bảo an sinh xã hội cho ngƣời cao tuổi thông qua chính sách BHXH bằng chế độ hƣu trí, trƣớc hết phải xây dựng thể chế nhằm xây dựng các chính sách cụ thể nhƣ sau: Thứ nhất, cần sửa đổi Bộ luật Lao động trong đó khuyến khích áp dụng cho cả ngƣời lao động làm việc trong khu vực phi chính thức kết hợp với Luật BHXH năm 2014, theo đó ngƣời lao động có làm việc với bất kỳ ngƣời sử dụng lao động nào từ 01 tháng trở lên phải giao kết hợp đồng lao động và tham gia BHXH bắt buộc. Mặt khác, cần mở rộng điều kiện hƣởng lƣơng hƣu về thời gian đóng BHXH không nhất thiết phải kéo dài đến 20 năm mà có thể giảm còn 15 năm. Dĩ nhiên, trong trƣờng hợp này mức lƣơng hƣu sẽ giảm hơn nhƣng vẫn bảo đảm mức sống tối thiểu. Bên cạnh đó xây dựng lộ trình điều chỉnh tuổi nghỉ hƣu của ngƣời lao động từ 60 lên 62 vào năm 2022 và lên 65 vào năm 2026, đồng thời thu hẹp dần tuổi nghỉ hƣu giữa nam và nữ, đồng nhất vào năm 2030. Thứ hai, hƣớng đến phát triển hệ thống BHXH đa tầng: lƣơng hƣu, BHXH bắt buộc, BHXH bổ sung, BHXH tự nguyện. Để BHXH tự nguyện hấp dẫn hơn nhƣ nói trên, cần mở rộng chế độ hƣởng ốm đau, tai nạn thậm chí chế độ thai sản nhƣ 05 chế độ của BHXH bắt buộc. 71 Trích bài phát biểu của ông tại hội thảo chia sẻ kinh nghiệm BHXH bền vững trong bối cảnh già hóa dân số do BHXH Việt Nam tổ chức tại Hà Nội tháng 2/2018. 119
  10. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” Thứ ba, mở rộng đối tƣợng tham gia, đặc biệt là ngƣời lao động ở khu vực phi chính thức và lao động nữ. Nên có các chính sách BHXH đặc thù cho các nhóm yếu thế nhƣ ngƣời cao tuổi, phụ nữ và trẻ em. Thứ tƣ, mở rộng diện bao phủ về BHXH có nghĩa là nguồn thu đƣợc tăng lên đáng kể đồng thời đòi hỏi Quỹ BHXH phải biết hoạt động để phát triển nguồn thu. Từ đó, điều chỉnh chính sách chế độ hấp dẫn nhƣ nói trên đồng thời đảm bảo cân đối quỹ BHXH dài hạn, bền vững. Thứ năm, ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin trong quản lý hƣớng đến sự chuyên nghiệp, hiện đại và xem sự hài lòng của doanh nghiệp và ngƣời tham gia là thƣớc đo của bộ máy và đội ngũ của những ngƣời làm BHXH. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bùi Thế Cƣờng. (2002). Chính sách xã hội và công tác xã hội ở Việt Nam thập niên 90. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 2. Bùi Thế Cƣờng. (2005). Trong miền an sinh xã hội – những nghiên cứu về người cao tuổi Việt Nam. NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội. 3. Bùi Thế Cƣờng. Bộ tài liệu về chính sách xã hội, an sinh xã hội và các vấn đề xã hội. 4. Lê Phƣơng Lan. (2000). Tiếp cận văn hóa người cao tuổi. NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội. 5. Bùi Nguyễn Phƣơng Linh. (1993). Người già ở Việt Nam hôm nay: một vài nhận xét ban đầu. Tạp chí Xã hội học (số 1), 14-22. 6. Mạc Tuấn Linh. (1993). Người già cô đơn và những vấn đề đặt ra trong hệ thống an sinh xã hội. Tạp chí Xã hội học (số 2), 23-28. 7. Trịnh Duy Luân. (2014). Một số chiều cạnh của hệ thống chính sách trợ giúp xã hội cho người cao tuổi ở nước ta hiện nay. Tạp chí Xã hội học (số 3), 77-86. 8. Mạc Văn Tiến. (2016). Già hóa dân số và những thách thức của nhân loại. Tạp chí BHXH. 9. Tài liệu Hội thảo chia sẻ kinh nghiệm BHXH bền vững trong bối cảnh già hóa dân số do BHXH Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, tháng 2/2018. 10. Viện xã hội học. (1994). Người cao tuổi và an sinh xã hội. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 120
nguon tai.lieu . vn