Xem mẫu
- Gây màu nước trong ao nuôi tôm
Trong nuôi tôm, màu nước nuôi rất quan trọng. Có màu
nước lợi cho tôm và cũng có màu nước lại gây hại cho tôm.
Vì vậy người nuôi tôm cần nắm vững quy luật thay đổi màu
nước. Bản chất của màu nước được định lượng bằng hàm
lượng các chất hữu cơ và vô cơ chứa trong nước.
Các hợp chất vô cơ.
Các hợp chất vô cơ bao gồm chất không hòa tan và hòa tan.
Nếu nước ao nuôi đủ chất lượng thì hàm lượng các chất vô
cơ không hòa tan (cát, bùn) không được quá 80mg/lít, vì
nếu quá tôm sẽ chết vì ngạt thở do bị bít mang. Còn các
chất vô cơ hòa tan thường do phèn sắt (màu đỏ gạch) trong
đó sắt có hóa trị 1, 2, 3 rất có hại cho tôm. Khi mực nước
ngoài cao hơn mực nước ao nuôi thì đáy ao có thể lỏng,
dạng rỉ sắt màu đỏ làm nước ao tôm có màu gạch đỏ, trên
mặt ao xuất hiện váng.
Các chất hữu cơ.
Các chất hữu cơ bao gồm các sinh vật phù du, thực vật đáy,
động vật nguyên sinh. Các phiêu sinh thực vật (sinh vật phù
- du) và phiêu sinh động vật là nguồn thức ăn tự nhiêm của
tôm, giúp tôm tăng trưởng nhanh.
Việc tạo màu nước thông qua sử dụng các loại phân hữu cơ
và vô cơ là tạo nguồn thức ăn tự nhiên cho tôm, nhất là ở
giai đoạn đầu khi tôm còn nhỏ. Muốn nuôi tôm, trước đó
phải nuôi màu nước, để tạo nguồn thức ăn tự nhiên cho
tôm.
Cách nuôi nước.
- Bón phân vô cơ (urê hoặc DAP): bón ngày thứ nhất
2,2kg/1.000m2; từ ngày thứ 2-21, mỗi ngày bón
0,65kg/1.000m2; từ ngày thứ 22-30, bón 0,95kg/1.000m2.
- - Bón phân hữu cơ: dùng cám sống, bón ngày thứ nhất đến
ngày thứ 21; bón 1-1,2kg/1.000m2/ngày; từ ngày 22-30
bón 1,3kg/1.000m2/ngày.
Các loại phân hữu cơ như phân chuồng, phân gà thường dễ
mang theo vi khuẩn gây bệnh. Còn các loại phân DAP, urê,
tuy tạo nguồn thức ăn cho sinh vật phù du rất tốt, nhưng tàn
lụi rất nhanh. Hai loại phân hữu cơ và vô cơ tuy có giúp
phát triển sinh vật phù du song màu nước rất dễ lên và
xuống. Các loại sinh vật phù du do các loại phân này tạo
điều kiện phát triển chỉ đạt yêu cầu về định lượng, mà
không đạt về định tính. Nó tùy thuộc vào loại tảo sẵn có
trong ao, chứ không định hướng được loại tảo nào cần ưu
tiên phát triển, loại tảo nào cần hạn chế. Việc sử dụng chế
phẩm sinh học để nuôi các phiêu sinh là đặc dụng nhất, vì
nó chủ động đưa vào nước ao nuôi một hệ vi sinh vật có
lợi, nhằm giúp các loại tảo có ích phát triển và hạn chế các
loại tảo có hại.
Các chế phẩm sinh học vừa đáp ứng được yêu cầu trên, vừa
làm cho nước ao nuôi "béo lên", vừa làm sạch nước, giảm
BOD, COD, phòng bệnh và kích thích tôm sinh trưởng.
- Nếu ao nuôi khó gây màu nước, có thể do nước ao thiếu
nguồn tảo cần thiết, nên lấy nước ở ao "béo" khác (có màu
nước tốt) làm nguồn giống cho vào các ao này, rồi sử dụng
chế phẩm sinh học để thúc đẩy các sinh vật phù du hữu ích
phát triển.
Khi màu nước ao nuôi đã đạt yêu cầu (vàng nâu hoặc nâu
lục), độ trong đạt 25-40cm thì thả tôm giống. Sau khi thả
tôm giống, do năng lực bơi và bắt mồi của tôm còn yếu,
trong 20-30 ngày đầu (tôm con chủ yếu ăn các phiêu sinh
vật) nên tạo màu nước tốt lúc đầu là biện pháp kỹ thuật
quan trọng, để nâng cao tỉ lệ tôm sống, tạo điều kiện cho
tôm phát triển tốt ở giai đoạn giữa và giai đoạn cuối.
Chú ý, khoảng 7-10 ngày sau khi thả, tôm đã bắt mồi nên
các phiêu sinh trong ao nuôi có thể cạn dần, vì thế cần tiếp
tục bón tiếp chế phẩm sinh học để ổn định màu nước, đảm
bảo tôm con không bị gián đoạn nguồn thức ăn tự nhiên.
Giai đoạn đầu thực hiện 7-10 ngày "bón thúc" chế phẩm
sinh học một lần, cho đến khi tôm đạt yêu cầu để chuyển
sang giai đoạn giữa và cuối.
- Ao có màu nước tốt nghĩa là các loại phiêu sinh vật trong
ao phát triển tốt, tôm nuôi trong vòng 20-30 ngày đầu
không cần cho ăn thêm thức ăn công nghiệp. Trong trường
hợp mật độ 50 con/m2, nguồn thức ăn tự nhiên có thể
không đủ, cần cho thêm lượng thức ăn công nghiệp thích
hợp dành cho tôm giống và đó cũng là cách gián tiếp tạo
màu nước, tạo nguồn thức ăn tự nhiên cho tôm.
Giai đoạn đầu không được cho tôm ăn thức ăn tươi sống
như cá, nhuyễn thể, trứng nghiền vì tôm con chưa ăn được
mà còn tạo điều kiện cho vi sinh vật gây bệnh, có hại phát
triển, vô tình phá vỡ cơ cấu sinh thái nước ao.
(LP – theo Nông thôn đổi mới)
nguon tai.lieu . vn