Xem mẫu
- GẮN KẾT GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP
VỚI DOANH NGHIỆP
Đồng Văn Ngọc*
TÓM TẮT:
Giáo dục nghề nghiệp (GDNN) Việt Nam những năm gần đây đã đánh dấu sự phát
triển mới, biến chuyển về chất ở cả cấp độ vĩ mô (hệ thống) và cấp độ vi mô (cơ sở GDNN) ở
các lĩnh vực trong hoạt động đào tạo, trong đó có việc gắn kết ngày càng tốt hơn giữa doanh
nghiệp và nhà trường. Việc gắn kết này được đề cập ở nhiều giác độ khác nhau, ở nhiều bài
viết khác nhau. Trong bài viết này, tác giả trình bày tóm lược lợi ích của việc gắn kết giữa
cơ sở GDNN với doanh nghiệp, một số mô hình trên thế giới; đồng thời khái quát thực trạng
gắn kết giữa hai chủ thể này ở Việt Nam. Trên cơ sở đúc kết một số mô hình cũng như thực
trạng gắn kết giữa cơ sở GDNN và doanh nghiệp ở Việt nam, tác giả đề xuất một số vấn đề
nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc gắn kết này.
Từ khóa: gắn kết, giáo dục nghề nghiệp, doanh nghiệp
I. Gắn kết giữa doanh nghiệp và cơ sở GDNN- Lợi ích và các mô hình
1. Lợi ích
Các nhà nghiên cứu và các nhà hoạch định chính sách từ lý luận cũng như
từ thực tiễn đã chỉ ra sự gắn kết giữa cơ sở GDNN và doanh nghiệp đem lại lợi ích
cả cho nhà trường, doanh nghiệp, nhà nước, người học và xã hội. Cụ thể là:
- Đối với nhà trường: Sự gắn kết với doanh nghiệp đem lại rất nhiều lợi ích
đối với nhà trường. Lợi ích nhìn thấy rõ nhất đó là các cơ sở GDNN do hiểu rõ nhu
cầu và yêu cầu của doanh nghiệp nên tổ chức đào tạo hiệu quả hơn, từ khâu tuyển
sinh đến các hoạt động đào tạo, gắn với đầu ra là người học được doanh nghiệp
tiếp nhận. Cũng nhờ gắn kết với doanh nghiệp mà cơ sở GDNN tiết kiệm được
chi phí đầu tư trang thiết bị đào tạo và thực hành, làm cho việc đầu tư hiệu quả
hơn. Một lợi ích khác là đội ngũ giáo viên, giảng viên của nhà trường, thông qua
việc gắn kết với doanh nghiệp, được tiếp xúc với thực tiễn sản xuất và công nghệ
của doanh nghiệp nhiều hơn, qua đó nâng cao hơn kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng
giảng dạy hơn.
- Đối với doanh nghiệp: Lợi ích rõ nhất khi doanh nghiệp gắn kết với cơ
sở GDNN là doanh nghiệp có được nhân lực có kỹ năng mong muốn ở từng vị trí
làm việc. Doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí và thời gian để đào tạo lại khi cơ sở
GDNN đào tạo đáp ứng được nhu cầu và yêu cầu của mình. Lợi ích này của doanh
* Trường Cao đẳng Cơ điện Hà Nội
411
- nghiệp có thể coi là lợi ích kép. Việc gắn kết giữa doanh nghiệp và cơ sở GDNN
còn đem lại lợi ích lâu dài hơn đối với doanh nghiệp, đó là tạo ra năng suất lao
động tiềm năng cao hơn, có cơ hội hơn để đầu tư, đổi mới trang thiết bị và công
nghệ, được nguồn nhân lực có khả năng vận hành được thiết bị, làm chủ công
nghệ. Cũng nhờ đó mà năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ tốt hơn, nhất là
trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt hiện nay.
- Đối với nhà nước: Rõ ràng, khi nhà trường và doanh nghiệp gắn kết chặt
chẽ, chất lượng đào tạo nhân lực sẽ được nâng lên và xét trên phương diện quản lý
vĩ mô, đất nước có được lực lượng lao động có kỹ năng, đáp ứng nhu cầu cho các
ngành kinh tế. Người lao động được đào tạo tốt góp phần nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc gia.
- Đối với người học và xã hội: Khi nhà trường và doanh nghiệp gắn kết chặt
chẽ, người học sẽ biết được mình cần học cái gì, học như thế nào và họ có được sự
lựa chọn tốt nhất. Nhờ đó mà người học và gia đình vừa tiết kiệm được kinh phí và
thời gian học tập. Nhất là trong quá trình học tập, khi người học thực tập tại doanh
nghiệp, họ được làm quen máy móc, thiết bị thực tế của doanh nghiệp. Qua đó,
người học có được các kiến thức thiết thực, có được các kỹ năng phù hợp với các
vị trí việc làm cụ thể trong doanh nghiệp, khi ra trường có thể làm việc được ngay
tại doanh nghiệp, không cần phải mất thời gian để đào tạo lại tại doanh nghiệp.
Xét trên phương diện xã hội, nhờ có sự gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp,
người học lựa chọn được nghề học và phương thức học phù hợp, qua đó, hạn chế
được hiện tượng học nghề này nhưng lại làm nghề khác hoặc học xong lại không
tìm được việc làm vì kỹ năng không đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp. Điều
này tạo ra hiệu ứng dây chuyền, đất nước có được nguồn nhân lực chất lượng, xã
hội giảm được tình trạng thất nghiệp hoặc thất nghiệp ảo và qua đó, giảm thiểu
được những hệ lụy tiêu cực.
2. Một số mô hình gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp
Hiện nay, trên thế giới tồn tại nhiều mô hình gắn kết, hợp tác giữa nhà trường
và doanh nghiệp, chằng hạn như mô hình đào tạo nghề kép của Đức, mô hình đào
tạo của các nước khu vực Châu âu (ngoài Đức), mô hình KOSEN của Nhật Bản…
Hệ thống đào tạo kép được thiết lập vững chắc trong hệ thống giáo dục Đức.
Đặc điểm chính của hệ thống kép là sự hợp tác giữa các công ty và các trường
dạy nghề được tài trợ công khai. Trong mô hình này, bên cạnh việc cùng thiết kế
chương trình đào tạo, giữa nhà trường và doanh nghiệp còn lên kế hoạch đào tạo
cụ thể. Sự hợp tác này được quy định bởi pháp luật. Học viên trong hệ thống đào
tạo kép thường dành một phần mỗi tuần tại một trường dạy nghề và phần khác
tại một công ty, hoặc họ có thể dành thời gian dài hơn ở mỗi nơi trước khi xen kẽ.
Đào tạo kép thường kéo dài hai đến ba năm rưỡi.
412
- Mô hình đào tạo KOSEN được ứng dụng từ năm 1962 tại Nhật Bản, áp dụng
cho học sinh ngay từ lứa tuổi 15 (lứa tuổi vừa tốt nghiệp THCS tương tự như ở
Việt Nam). Định hướng của mô hình đào tạo KOSEN nhằm gắn kết đào tạo nhân
lực chất lượng cao với doanh nghiệp; đào tạo không chỉ lý thuyết mà hướng đến
kỹ năng thực hành, khả năng sáng tạo của người học thông qua các hoạt động thực
hành, nghiên cứu. Sinh viên tốt nghiệp từ KOSEN giàu tinh thần, dám đương đầu
với thử thách, vừa thực tiễn, vừa sáng tạo, là nhân tố quan trọng thúc đẩy phát
triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân cũng như phát triển
đất nước. Trong mô hình Kosen, nhà trường đào tạo theo vấn đề, đào tạo theo dự
án có trong thực tế. Khi xây dựng chương trình đào tạo có sự tham gia của doanh
nghiệp và theo yêu cầu của doanh nghiệp. Trong quá trình học tập, người học
được thực hành, thăm quan tại doanh nghiệp. Tuy nhiên, khác với mô hình đào
tạo nghề kép của Đức, đối tượng người học trong mô hình KOSEN là những học
sinh giỏi ở các trường THCS (lớp 9), có năng khiếu kỹ thuật, có tư duy sáng tạo với
mục tiêu đào tạo nhân lực chất lượng cao. Trong mô hình KOSEN có sự phân định
rõ thời gian học văn hóa và học nghề, người học có thể học lên cao để lấy bằng cử
nhân hoặc sau đại học. Điều quan trọng mô hình KOSEN là hình thành cho người
học tác phong làm việc công nghiệp với tiêu chí 5S (sàng lọc, sắp xếp, sạch sẽ, săn
sóc, sẵn sàng).
II. Thực trạng gắn kết giữa doanh nghiệp và cơ sở GDNN ở Việt Nam
Trong thời gian qua đã bước đầu có sự gắn kết giữa nhà trường và doanh
nghiệp trong đào tạo nghề nghiệp. Gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp được
thực hiện trên cơ sở các thỏa thuận hợp tác giữa hai bên. Các cơ sở GDNN sau khi
dạy xong lý thuyết, gửi học sinh vào các doanh nghiệp để thực tập trên các thiết bị
đang sử dụng của doanh nghiệp, làm cho người học có thể vận dụng được những
kiến thức đã học, đồng thời nâng cao được kỹ năng nghề. Việc liên kết đào tạo này
đã làm tăng mối quan hệ hiểu biết giữa nhà trường và doanh nghiệp. Cơ sở đào
tạo không phải tăng đầu tư cho việc mua sắm trang thiết bị dạy thực hành và người
học có thể tiếp thu bài học nhanh hơn. Về phía doanh nghiệp có thể sử dụng được
những học sinh học nghề để tạo ra những sản phẩm mới hoặc có thể lựa chọn
được những người lao động có kỹ thuật tương lai phù hợp với doanh nghiệp.
Doanh nghiệp đã tham gia vào các hoạt động đào tạo nghề nghiệp ở cả hai
cấp độ: cấp độ chính sách và cấp độ hoạt động đào tạo.
Ở cấp độ chính sách, doanh nghiệp trực tiếp tham gia vào việc xây dựng
danh mục nghề đào tạo, xây dựng tiêu chuẩn đào tạo và đánh giá kỹ năng nghề
quốc gia (KNNQG)....Cụ thể:
- Xây dựng danh mục nghề đào tạo:
Danh mục nghề đào tạo trước hết xuất phát từ nhu cầu của doanh nghiệp và
413
- thị trường lao động. Vì vậy, việc xây dựng danh mục nghề đào tạo các cơ quan nhà
nước có liên quan đã có sự phối hợp chặt chẽ với đại diện doanh nghiệp để xác
định được tên nghề và nội hàm của nghề, yêu cầu về kỹ năng và trình độ đào tạo.
- Xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia (TCKNNQG):
Trong tất cả quy trình xây dựng TCKNNQG từ phân tích nghề, phân tích
công việc, biên soạn tiêu chuẩn thực hiện công việc đến thẩm định đánh giá chất
lượng các bộ TCKNNQG đều có sự tham gia của các thành viên đến từ doanh
nghiệp. Số những thành viên này trong Ban chủ nhiệm xây dựng TCKNNQG
chiếm khoảng 50%. Trong tất cả các khâu: phân tích nghề, phân tích công việc,
xây dựng danh mục các công việc, và biên soạn TCKNNQG đều có sự tham gia
của doanh nghiệp. Việc thẩm định các bộ TCKNNQG có sự tham gia của ít nhất
30% thành viên đang trực tiếp làm việc tại doanh nghiệp có nghề được xây dựng
TCKNNQG. Việc Tổ chức biên soạn ngân hàng đề thi đánh giá KNNQG gồm
những chuyên gia đã tham gia xây dựng TCKNNQG hoặc những người đã được
cấp thẻ đánh giá viên KNN có kinh nghiệm trong hoạt động sản xuất, nghiên cứu
hoặc chuyển giao công nghệ, đào tạo nghề cho người lao động.
Ở cấp độ hoạt động đào tạo, doanh nghiệp tham gia trực tiếp vào việc xây
dựng chương trình đào tạo, nhất là từ khi có Luật GDNN. Các chuyên gia, kỹ thuật
viên, thợ giỏi của doanh nghiệp được mời đến cơ sở GDNN tham gia giảng dạy
thực hành nghề cho học sinh; tham gia đánh giá kết quả học tập của học sinh và
tham gia vào hội đồng thi tốt nghiệp cuối khóa của học sinh.
Trong thời gian qua, bước đầu có sự gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp
trong hoạt động đào tạo nghề nghiệp với nhiều hình thức khác nhau, như:
- Tổ chức cho học sinh thực tập tại các doanh nghiệp thành viên là hình thức
hỗ trợ phổ biến đối với các doanh nghiệp cho các trường nghề trực thuộc. Ngoài
ra, doanh nghiệp hoặc tự tổ chức bồi dưỡng hoặc ký các hợp đồng đào tạo trực
tiếp với cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao tay nghề cho người lao động đang làm
việc tại doanh nghiệp. Bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề, cập nhật chuyển giao kỹ
thuật công nghệ mới cũng là hình thức phổ biến và phù hợp với nhu cầu và điều
kiện thực hiện tại đa số các doanh nghiệp hiện nay.
- Doanh nghiệp hỗ trợ, cung cấp trang thiết bị thực hành cho trường; hỗ trợ
kinh phí hoạt động thường xuyên để chi trả một phần tiền lương cho cán bộ, giáo
viên các cơ sở GDNN; hỗ trợ kinh phí xây dựng cơ sở vật chất và trang thiết bị
đào tạo. Một số doanh nghiệp hỗ trợ các trường trực thuộc một phần kinh phí xây
dựng cơ bản, nhất là xưởng thực hành, ký túc xá cho sinh viên hoặc hỗ trợ trang
thiết bị đào tạo phù hợp với công nghệ sản xuất của doanh nghiệp.
414
- - Cử chuyên gia và thợ giỏi trực tiếp giảng dạy, đánh giá kết quả học tập tại
các cơ sở GDNN.
- Tiếp nhận học sinh sau khi tốt nghiệp các cơ sở GDNN vào làm việc tại
doanh nghiệp. Do trong quá trình đào tạo đã có sự gắn kết giữa đào tạo với nhu
cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp nên những học sinh tốt nghiệp các trường,
có cơ hội lớn được làm việc tại doanh nghiệp đã từng thực tập. Các sinh viên tại
các cơ sở GDNN thuộc doanh nghiệp hầu hết được nhận vào làm việc tại các
doanh nghiệp có liên quan. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp có việc làm ở các trường
thuộc doanh nghiệp đạt từ 90%-95%. Các trường thuộc doanh nghiệp không chỉ
đào tạo nhân lực cho chính doanh nghiệp mà còn đào tạo cho các doanh nghiệp
khác và xã hội.
- Các trường thực hiện hợp đồng cho các doanh nghiệp có ngành nghề
phù hợp.
- Các doanh nghiệp nhận hướng dẫn học sinh, sinh viên thực tập tại
doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp nhận bồi dưỡng kỹ năng thực hành nghề cho giáo viên,
giảng viên các cơ sở GDNN.
Ngoài sự hợp tác trong đào tạo, giữa cơ sở GDNN và doanh nghiệp có sự
phối hợp tư vấn nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên. Về phía doanh nghiệp, đó là
tư vấn về những công việc, những yêu cầu mà một người lao động cần có, để từ đó
học sinh có thể lựa chọn nghề học phù hợp với khả năng và sở thích của mình. Về
phía nhà trường, đó là tư vấn, giới thiệu về khả năng thu hút lao động của doanh
nghiệp; tạo điều kiện cho sinh viên tiếp cận các thông tin về doanh nghiệp để họ
có thể đến làm việc sau khi tốt nghiệp. Nhiều trường đã hình thành bộ phận làm
công tác tư vấn nghề nghiệp cho học sinh và đã có sự phối hợp rất chặt chẽ với
doanh nghiệp.
Tuy nhiên, hoạt động gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trên thực tế
còn nhiều hạn chế, bất cập, chẳng hạn:
- Huy động đầu tư của doanh nghiệp vào hoạt động đào tạo nghề nghiệp
chủ yếu thông qua việc khuyến khích.
- Việc tham gia của doanh nghiệp vào các hoạt động đào tạo cả ở tầm chính
sách và đào tạo trực tiếp chưa có tính ràng buộc rõ ràng do cơ chế, chính sách dù
đã có nhưng chưa thực sự đi vào cuộc sống như chính sách về thuế, về người dạy,
về các ưu đãi đầu tư….
- Nhận thức về trách nhiệm của doanh nghiệp đối với GDNN chưa đầy đủ.
Các doanh nghiệp chưa ý thức đúng tầm quan trọng về sự phát triển bền vững của
415
- doanh nghiệp phải trên cơ sở nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của mình.
- Giữa nhà trường và doanh nghiệp chưa có tiếng nói chung về thông tin,
dự báo nhu cầu về lao động của doanh nghiệp; một số doanh nghiệp chưa quan
tâm đến việc nâng cao tay nghề cho công nhân đang làm việc và quyền lợi của
người lao động sau khi nâng cao trình độ, tay nghề.
III. Đề xuất, kiến nghị
- Thứ nhất, trong bối cảnh kinh tế - xã hội và truyền thống văn hóa Việt
Nam, hiện tại khó có thể áp dụng nguyên mẫu mô hình đào tạo kép như của Đức
hay KOSEN của Nhật Bản vào hệ thống GDNN. Kosen là mô hình đào tạo kết
hợp rất tốt giữa phát triển năng lực thực hành cùng phát triển về đào tạo văn hóa,
giáo dục, đặc biệt chú trọng đến giáo dục phẩm chất, hành vi cho người học. Tuy
nhiên, nếu như ở Nhật Bản, mô hình KOSEN thu hút được nhiều học sinh giỏi
vào học thi ở Việt Nam dường như là ngược lại. Nhiều người Việt Nam vẫn còn
tâm lý học để có bằng cấp cao hơn là học để có nghề phù hợp và gắn với đam mê
nghề nghiệp. Do vậy, cần có sự hỗ trợ của các chuyên gia, tổ chức của Đức (GIZ)
và Nhật Bản (KOSEN, JICA) để có thể có sự vận dụng các mô hình này một cách
phù hợp với Việt Nam.
- Thứ hai, cần luật hóa các quy định tại các luật (Luật GDNN, Luật Việc làm,
Luật Doanh nghiệp,…) về cơ chế, chính sách, các quy định về quyền, nghĩa vụ,
trách nhiệm của cơ sở GDNN và doanh nghiệp trong hoạt động đào tạo nói chung
và trong sự hợp tác, liên kết nói riêng. Nhà nước cần trao quyền tự chủ một cách
đầy đủ cho các cơ sở GDNN, nhất là các trường cao đẳng, đồng thời cơ sở GDNN
phải có trách nhiệm giải trình và thực hành giám sát xã hội. Trong thực tế, để liên
kết, hợp tác với DN thì cơ sở GDNN cần có sự linh hoạt, mở trong quá trình tổ
chức đào tạo.
- Thứ ba, bổ sung, xây dựng cơ chế, chính sách đối với doanh nghiệp tham
gia đào tạo nghề nghiệp, tập trung vào một số vấn đề như:
+ Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khi tham gia đào tạo nghề nghiệp;
+ Chính sách quy định trách nhiệm của doanh nghiệp khi tiếp nhận lao
động qua đào tạo (tiền lương tối thiểu đối với những người qua đào tạo tương ứng
với từng trình độ và đặc thù nghề nghiệp);
+ Chính sách đối với chuyên gia, nhân viên kỹ thuật có tay nghề cao của
doanh nghiệp tham gia đào tạo trong các cơ sở GDNN;
+ Cần có quy định doanh nghiệp có trách nhiệm định kỳ cung cấp thông
tin về nhu cầu việc làm (số lượng cần tuyển dụng theo nghề và trình độ đào tạo,
yêu cầu về thể lực, năng lực khác…) và các chế độ cho người lao động (tiền lương,
416
- môi trường và điều kiện làm việc, phúc lợi…) cho các cơ sở GDNN; đồng thời,
thường xuyên có thông tin phản hồi cho cơ sở GDNN về mức độ hài lòng đối với
“sản phẩm” đào tạo của cơ sở GDNN.
+ Cần có quy định rõ việc tổ chức đào tạo nghề nghiệp tại doanh nghiệp với
nhiều hình thức khác nhau cho những lao động tuyển mới chưa qua đào tạo nghề
và nâng cao kỹ năng nghề; cấp chứng chỉ nghề cho người lao động. Cần có các quy
định về văn bằng, chứng chỉ; chế độ và quyền lợi đối với các kỹ sư, kỹ thuật viên,
thợ lành nghề khi tham gia hoạt động đào tạo nghề nghiệp.
Để sự gắn kết có hiệu quả, song song với việc hoàn thiện cơ chế, chính sách,
giữa cơ sở GDNN và doanh nghiệp phải có những cám kết công khai như các hoạt
động liên kết, các đối tượng tác động trong hoạt động liên kết; các nội dung liên
kết (như xác định mục tiêu đào tạo, xây dựng và chỉnh sửa chương trình, giáo
trình đào tạo, xây dựng bộ công cụ đánh giá, kiểm soát chất lượng, việc làm…).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quốc hội. (2014). Luật giáo dục nghề nghiệp (2014), Quốc Hội Nước CHXHCN Việt Nam
2. Quốc hội. (2014). Luật Việc làm (2014), Quốc Hội Nước CHXHCN Việt Nam
3. https://www.bmbf.de/en/the-german-vocational-training-system-2129.html
4. https://www.nhandan.com.vn/giaoduc/item/37880402-gan-ket-nha-truong-doanh-
nghiep-trong-day-nghe.html
5. https://www.bmwi.de/Redaktion/EN/Dossier/vocational-training-and-work.html
6. http://baodansinh.vn/chu-trong-3-khau-dot-pha-chien-luoc-trong-giao-duc-nghe-
nghiep-70401.htm
417
nguon tai.lieu . vn