Xem mẫu
- FDI VÀ BẤT BÌNH ĐẲNG THU NHẬP Ở VIỆT NAM
TS. Đinh Thiện Đức
ThS. Nguyễn Thị Vi
ThS. Trần Thị Dương Ngân
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Tóm tắt
Việc gia nhập WTO đã dẫn đến một làn sóng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
mới vào nền kinh tế nước ta. Trước viễn cảnh này, một câu hỏi rất quan trọng được đặt
ra là liệu làn sóng FDI này có làm cho người giàu giàu hơn, còn người nghèo thì nghèo
hơn? Mục tiêu của nghiên cứu này là phân tích tác động của luồng FDI đối với bất bình
đẳng thu nhập ở Việt Nam. Đặc biệt là nghiên cứu thực nghiệm dựa trên phân tích hồi
quy phân vị số liệu trong giai đoạn 2007 - 2017 FDI vào Việt Nam và tác động của nó
đối với bất bình đẳng thu nhập.
Từ khóa: Việt Nam, FDI, bất bình đẳng thu nhập
1. GIỚI THIỆU
Toàn cầu hóa đã và đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới. Mặc dù không có
khái niệm chuẩn mực nào về toàn cầu hóa, nhưng các học giả đều cho rằng nó có thể
được định nghĩa là sự hội nhập của con người, vốn, văn hóa, công nghệ và dịch vụ…
Từ đầu những năm 1970, hầu hết các quốc gia đều tiến hành tự do hóa thị trường thông
qua sự chuyển dịch các yếu tố sản xuất (ví dụ lao động và vốn) ra bên ngoài biên giới
lãnh thổ của họ. Cho đến giữa những năm 1990, khu vực tự do hóa thương mại đã trở
thành chương trình nghị sự giữa nhiều quốc gia, đặc biệt ở các nước đang phát triển.
Điều này đã góp phần cải thiện hoạt động trao đổi thương mại giữa các quốc gia.
Một trong những điểm sáng quan trọng của toàn cầu hóa hiện nay là sự tăng
trưởng ấn tượng của Việt Nam cũng như các nước trong khu vực Asean. Việt Nam được
biết đến với nhiều chính sách có tính hướng ngoại. Hơn nữa, các chính sách thúc đẩy
thương mại lần đầu tiên được đề cập trong nửa cuối những năm 1980 (khi Việt Nam
thực hiện công cuộc Đổi mới toàn diện nền kinh tế). Cùng với các nước khác trong khu
vực, Việt Nam đã đưa ra các điều luật cùng với những điều chỉnh đối với FDI đã làm
tăng sự hấp dẫn của đầu tư nước ngoài. Trong nửa đầu thập niên 1990, Việt Nam đã thu
hút hơn 7 tỷ USD. Chính sách mở cửa nền kinh tế đã đóng góp quan trọng đối với tăng
trưởng kinh tế Việt Nam. Từ một nước nghèo (GDP bình quân đầu người năm 1989 chỉ
100 USD), Việt Nam đã trở thành một quốc gia có thu nhập trung bình (GDP bình quân
đầu người năm 2018 là 2.587 USD) và là quốc gia có tốc độ hội nhập ấn tượng, là đối
105
- tác chiến lược của nhiều quốc gia lớn, có tiếng nói quan trọng trong Liên hợp quốc, có
vị thế trong khu vực và trên thế giới.
FDI đã trở thành nhân tố quan trọng đối với chiến lược phát triển kinh tế của Việt
Nam. Động lực tăng cường thu hút FDI xuất phát từ kỳ vọng tích cực về tác động toàn
diện của FDI mang lại trong việc cải thiện năng suất, chuyển giao công nghệ, giới thiệu
tiến bộ khoa học mới, kỹ thuật quản lý, bí quyết của thị trường, đào tạo công nhân và
mạng lưới sản xuất quốc tế. Hơn nữa, FDI được xem như là nguồn tài chính quan trọng
cho các nước có tiềm lực vốn hạn chế như Việt Nam. Vai trò của FDI đối với quá trình
phát triển cần được xem xét rộng hơn, đặc biệt là kỳ vọng về tác động của nó đến tăng
trưởng sản lượng. Tuy nhiên, FDI cũng có mặt trái đối với sự phát triển xã hội. Có những
bằng chứng về tác động tiêu cực của FDI đối với các kỳ vọng khác của nền kinh tế, ví
dụ vấn đề bất bình đẳng trong phân phối thu nhập.
Có hai quan điểm trái ngược nhau về tác động của FDI đối với bất bình đẳng
thu nhập. Quan điểm thứ nhất, FDI có tác động làm giảm bất bình đẳng thu nhập khi
các nguồn vốn được đầu tư vào ngành đem lại lợi ích cho số động những lao động
tay nghề thấp (Deardorff và Stern, 1994). Quan điểm thứ hai, FDI có thể làm xấu đi
việc phân phối thu nhập, do tác động lan tỏa của tiền lương khi các công ty đa quốc
gia (MNCs) thường trả lương cao hơn cho các đối tác địa phương (Chase-Dunn,
1985). Khi cần thuê nhiều lao động hơn làm việc với công nghệ mới, họ thường tận
dụng lợi thế về vốn để trả mức lương cao hơn nhằm thu hút lao động (có tay nghề
cũng như không có tay nghề). Điều này cũng có nghĩa là sự xuất hiện của các công
ty đa quốc gia sẽ làm giảm thị phần của các hãng địa phương do lao động bị thu hút
vào các công ty đa quốc gia. Khi lợi nhuận có xu hướng giảm, các hãng địa phương
buộc phải giảm chi phí thông qua việc giảm mức lương trả cho người lao động và
giảm số lượng lao động có thể thuê trên thị trường.
Mục đích của bài viết này là phân tích tác động của FDI đối với bất bình đẳng
thu nhập ở Việt Nam trong giai đoạn 2007 - 2017. Nghiên cứu này khác biệt so với
những nghiên cứu trước đây chính là cách tiếp cận khác về lao động. Đặc biệt, với việc
sử dụng phương pháp phân tích hồi quy phân vị, nhóm tác giả đã phân tích và rút ra kết
luận về ảnh hưởng của FDI lên từng mức thu nhập. Lợi thế của phương pháp này là đưa
ra cách tiếp cận thực tế hơn nhằm làm sáng tỏ những tác động thuận chiều khác nhau
trong phân bố kết quả.
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Toàn cầu hóa là một quá trình của hội nhập quốc tế khi nó cho phép các quốc
gia tương tác với nhau. Mahler và cộng sự (1999) cho thấy mối quan hệ giữa hội nhập
kinh tế quốc tế và bất bình đẳng thị trường nội địa trong sự phát triển thị trường. Hai
106
- vấn đề quan trọng quan sát được từ hội nhập đó là dòng vốn FDI và trao đổi thương mại.
Kết luận rút ra từ việc sử dụng số liệu thu nhập của Luxembourg (LIS) nhóm tác giả đã
phát hiện rằng, cả FDI và thương mại đều không có ý nghĩa trong việc giải thích sự bất
bình đẳng thu nhập. Do đó, toàn cầu hóa không phải là nhân tố quan trọng để giải thích
về phân phối thu nhập ở các nước phát triển.
Mah (2003) đánh giá tác động của toàn cầu hóa lên phân phối thu nhập ở Hàn
Quốc giai đoạn 1975 - 1995. Những phát hiện chỉ ra rằng, cả độ mở thương mại và FDI
đều tác động có ý nghĩa lên hệ số Gini. Thêm nữa, toàn cầu hóa làm giảm sự phân phối
thu nhập hoàn toàn không xảy ra ở Hàn Quốc. Celik và Basdas (2010) quan sát ảnh
hưởng của toàn cầu hóa lên bất bình đẳng thu nhập đối với cả các nước phát triển và
đang phát triển. Các kết quả cho thấy luồng FDI tăng lên đã cải thiện được tình trạng
bất bình đẳng thu nhập đối với cả các nước phát triển và đang phát triển, nhưng điều
ngược lại đã được phát hiện ở các nước Asean.
Bên cạnh đó, họ phát hiện ra mối quan hệ ngược chiều giữa FDI và hệ số Gini.
Changkyu (2006) phát hiện ra mối quan hệ giữa FDI (cả vào hay ra) và bất bình đẳng
thu nhập trong các quốc gia. Sử dụng hệ số Gini chỉ số mô tả bất bình đẳng thu nhập,
các kết quả cho thấy cả FDI vào hay ra đều có tác động làm tăng bất bình đẳng thu nhập.
Tuy nhiên, tác động của luồng FDI chảy ra lớn hơn so với luồng FDI chảy vào.
Hơn nữa, tác giả tìm ra rằng, trong các nước giàu và có nền kinh tế tăng trưởng
nhanh có xu hướng phân phối thu nhập ngang bằng nhau. Một số nghiên cứu khác xem
xét tác động của độ mở thương mại đối với bất bình đẳng thu nhập. Elena và Marco
(2009) cho rằng tương tác giữa thương mại và việc tiếp nhận công nghệ có thể là nguyên
nhân làm gia tăng sự khác biệt về thu nhập trong các nước đang phát triển. Thông qua
việc sử dụng số liệu của 65 quốc gia đang phát triển và số liệu bất bình đẳng thu nhập
toàn cầu, cho thấy cả hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu đều làm xấu đi sự phân phối
thu nhập khi trao đổi thương mại với các nước có thu nhập cao. Tuy nhiên, kết quả này
được giữ nguyên đối với các nước có thu nhập trung bình. Họ cũng tìm ra rằng tổng
dòng chảy thương mại không liên quan nhiều đến bất bình đẳng thu nhập giữa các nước
đang phát triển.
Một vấn đề quan trọng trong phạm vi nghiên cứu này là tác động của FDI đối với
bất bình đẳng vùng. Lessman (2013) cho rằng, các quốc gia nhận FDI sẽ có nhiều vốn
hơn và sẽ làm tăng năng suất cận biên của lao động cũng như sản lượng và tiêu dùng.
Tuy nhiên, điều này chỉ đúng khi FDI bao hàm cả chuyển nhượng vốn. Sử dụng số liệu
của 55 quốc gia bất bình đẳng theo vùng được phân loại thu nhập (thấp, trung bình và
cao) giai đoạn 1980 - 2009 thì các kết quả cho thấy rằng, mức độ phát triển có tác động
quan trọng lên mối quan hệ giữa FDI và bất bình đẳng thu nhập.
107
- 3. MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
Để xem xét tác động của FDI lên bất bình đẳng thu nhập, nhóm tác giả sử dụng
mô hình đã được các nhà nghiên cứu khác sử dụng rộng rãi (Celik và Basdas 2010;
Becker và công sự 2005). Mô hình cơ bản được thể hiện như sau:
Yt = β0t + β1tFDIt + β2tTOt + β3tLEt + et
Trong đó:
Y là GDP bình quân đầu người
FDI là tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỷ lệ GDP
TO là độ mở thương mại đạt được thông qua tổng kim ngạch xuất nhập khẩu vào GDP
LE là tuổi thọ và được coi là vốn con người.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp hồi quy phân vị theo mục tiêu đầu tiên của
Koenker và Basset (1978) nhằm phân tích ảnh hưởng phân phối của FDI. Cách tiếp cận
ước lượng này đưa ra cách tiếp cận thực tế nhằm hiểu những tác động cùng chiều khác
biệt theo phân bố kết quả. Nói cách khác, điều này có thể nắm bắt được tác động khác
nhau của các biến độc lập lên từng mức thu nhập. Mô hình hồi quy đối với thu nhập
bình quân đầu người có thể viết như sau:
LogYi = xi βθ + uθi trong đó Quantθ(logY|xi) = xiβθ
Trong đó:
x là biến ngoại sinh (FDI, TO, LE)
βo là tham số
Quantθ(logY|xi) là θth phân vị điều kiện đối với LogY của các biến ngoại sinh trên.
Giá trị của nó nằm trong khoảng 0
- 5. MÔ TẢ SỐ LIỆU
Nghiên cứu này mô tả về Việt Nam giai đoạn 2007 - 2017. Việt Nam là nước
trong khu vực ASEAN, chiếm một tỷ lệ tương đối lớn luồng FDI toàn cầu (World Bank,
2014) và FDI cũng được xem là một phần chiến lược phát triển thời gian qua.
Biến phụ thuộc là GDP thực tế bình quân đầu người (theo giá cố định 2007, USD)
và đã được thu thập trên bảng thế giới (PWT).
Các biến độc lập bao gồm dòng vốn FDI vào (nghĩa là tỷ lệ s trong GDP), độ mở
thương mại (nghĩa là kim ngạch xuất nhập khẩu/GDP) và tuổi thọ kỳ vọng (vốn con
người). Tuổi thọ kỳ vọng được đo bằng số năm trẻ sơ sinh sẽ sống nếu tỷ lệ tử vong tại
thời điểm sinh ra được giữ nguyên. Số liệu các biến độc lập được thu thập tại từ dữ liệu
Chỉ số phát triển thế giới của Ngân hàng thế giới (WB). Tất cả số liệu đều được chuyển
hóa dưới dạng logarit trước khi phân tích.
6. CÁC KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
Bước thứ nhất của phân tích, nhóm tác giả mô tả phân bố các biến đã sử dụng
trong nghiên cứu. Bảng 1 dưới đây thể hiện số liệu thống kê mô tả giá trị trung bình
GDP bình quân đầu người của Việt Nam. Chỉ số độ nghiêng cho thấy phân bố GDP
bình quân đầu người lệch về bên phải. Phát hiện này cho thấy rằng, phân bố thu
nhập bình quân đầu người tại Việt Nam có độ nghiêng dương. Do đó, giả định phân
bố chuẩn về độ lệch trong OLS không đảm bảo. Điều này ngụ ý, ước lượng OLS có
thể tạo ra các kết luận sai. Trong tình huống này, phương pháp hồi quy phân vị sẽ
hiệu quả khi không cần giả định phân bố chuẩn. Hơn nữa, nó là sự thay thế hoàn
hảo khi cần mô tả tác động của FDI đối với thu nhập ở cả mức cao và thấp.
Bảng 1: Thống kê mô tả
Variable Obs Mean Median Std. Dev. Skewness Kurtosis
GDPC 32 1158.04 815.09 853.69 1.67 4.81
FDI 13300.00 11300.0 5630.00 1.60 5.22
TO 54.42 52.55 10.46 2.13 9.13
LE 55.99 56.58 5.66 -0.24 1.85
Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả
Bước thứ hai của phân tích là ước lượng phương trình (2) bằng việc sử dụng
phương pháp hồi quy lượng tử tại 9 phân vị, đặt tên là 10th, 20th, 30th, ……, và 90th.
Điều này cho phép chúng ta đánh giá tác động của FDI tại các điểm khác nhau của phân
109
- bố thu nhập. Các kết quả thu được thể hiện tại Bảng 2 bên dưới. Khi so sánh mục tiêu
thì nhóm tác giả cũng đưa ra các kết quả của OLS. Mô tả tác động của FDI, các ước
lượng OLS chỉ ra rằng, có mối quan hệ cùng chiều giữa FDI và thu nhập. Các kết quả
hồi quy phân vị cũng chỉ ra điều này ở Việt Nam.
Bảng 2: Kết quả hồi quy
10th 20th 30th 40th 50th 60th 70th 80th 90th
OLS
FDI 0.265b 0.342b 0.450b 0.756a 0.701a 0.642a 0.632a 0.492a 0.476a 0.099b
(0.102) (0.186) (0.218) (0.250) (0.168) (0.149) (0.134) (0.140) (0.121) (0.036)
TO -0.796a -0.786b -0.769b0.141 0.042 -0.228 -0.270 -0.336 -0.214 -0.189
(0.103) (0.405) (0.408) (0.521) (0.645) (0.469) (0.368) (0.377) (0.273) (0.322)
LE -6.020a -5.678 -4.998a -3.520a -3.688a -3.768a -3.733a -3.960a -3.846a -4.310a
(0.360) (0.885) (0.906) (0.949) (0.715) (0.485) (0.482) (0.432) (0.382) (0.526)
Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả
Hình 1 dưới đây cho thấy sự biến đổi của FDI ảnh hưởng lên phân bố thu nhập ở
Việt Nam và cũng chỉ rõ độ tin cậy là 90%.
Hình 1: Tác động của FDI lên phân bố thu nhập
Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả
110
- Chúng ta so sánh hệ số ước lượng của FDI tại phân vị thứ 20 và 80 để thiết
lập bất cứ mối liên quan nào giữa FDI và bất bình đẳng thu nhập. Đối với Việt Nam,
hệ số dương của FDI nhỏ hơn 1 tại phân vị thứ 20 so với tại phân vị thứ 80. Điều
này ngụ ý rằng, tác động tích cực của FDI lớn hơn ở mức phân phối thu nhập cao
khi luồng FDI vào Việt Nam gây ra bất bình đẳng thu nhập. Tuy nhiên, độ lớn của
ảnh hưởng lớn hơn ở bên trái của phân phối. Sự phát hiện này dường như phù hợp
với quan điểm phần lớn vốn nước ngoài được đầu tư vào đối tượng lao động phổ
thông có thu nhập thấp. Điều này được kỳ vọng giúp làm giảm khoảng cách thu
nhập trong nền kinh tế.
Liên quan tới ảnh hưởng của dòng vốn FDI đến thu nhập ở Việt Nam, bằng chứng
thực nghiệm cho thấy, hiệu ứng này là tích cực và có ý nghĩa ở phần bên trái của phân
phối thu nhập. FDI cao hơn gắn liền với thu nhập cao hơn trong khu vực thu nhập thấp.
Điều này phù hợp với quan điểm cho rằng các MNCs đã đầu tư nhiều vốn hơn vào lĩnh
vực này với giá trị gia tăng thấp. Tuy nhiên, các hệ số ở phân vị thứ 80 là không có ý
nghĩa thống kê cho thấy không có mối liên hệ nào giữa FDI và thu nhập ở bên phải của
phân phối thu nhập. Điều này cho thấy sự hiện diện của các MNCs không thực sự giúp
các ngành sử dụng lao động có tay nghề cao có thu nhập cao. Để kiểm định tác điều này,
nhóm tác giả cũng so sánh kết quả của các phân vị thứ 10 so với 90 và các kết luận trước
vẫn giữ nguyên.
7. KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả phân tích tác động của FDI đối với bất bình
đẳng thu nhập ở Việt Nam. Đóng góp chính của nghiên cứu là cách tiếp cận bằng
phương pháp định lượng để kiểm định giả thiết. Đặc biệt, việc sử dụng hồi quy phân
vị cho phép lượng hóa ảnh hưởng của FDI đến các mức thu nhập khác nhau. Điều này
ngụ ý rằng, hoạt động của FDI ở Việt Nam đã mang lại thu nhập thấp cho những lao
động tay nghề thấp. Như vậy, FDI đã góp phần làm gia tăng sự bất bình đẳng thu nhập.
Nghiên cứu này phù hợp với quan điểm cho rằng FDI ở Việt Nam tập trung nhiều hơn
vào các lĩnh vực sử dụng lao động có tay nghề cao. Tựu chung lại, FDI có những tác
động tích cực nhất định đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế ở các quốc gia. Tuy
nhiên, nó cũng gây ra một số vấn đề xã hội, chẳng hạn trong một số nghiên cứu đã nêu
trong phần tổng quan, FDI cũng góp phần làm cho bất bình đẳng thu nhập ở các nước
có xu hướng gia tăng.
111
- TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alfaro, L., Chanda, A. Kalemli-Ozcan, S.and Sayek, S. (2004). FDI and Economic
Growth; The Role of Local Financial Markets. Journal of International Economics,
64, 113 - 134.
2. Anderson, E. (2005). Openness and Inequality in Developing Countries: A Review
of Theory and Recent Evidence. World Development, 33(7), 1045 - 1063.
3. Azman-Saini, W.N.W., Baharumshah, A.Z. and Law, S.H. (2010). Foreign direct
investment, economic freedom and economic growth: International evidence.
Economic Modelling, 27(5), 1079 - 1089.
4. Blomstrom, M. and Kokko, A. (1998). Multinational Corporations and Spillovers.
Journal of Economic Surveys, 12, 247 - 277.
5. Becker, G. S, Philipson, T. J. and Soares, R. R (2005). The Quantity and Quality
of Life and the evolution of World Inequality. The American Economic Review,
95(1), 277 - 291.
6. Celik, S. and Baldes, U. (2010). How Does Globalization Affect Income
Inequality? A Panel Data Analysis. International Advance for Economic Research,
16, 358 - 370.
7. Changkyu Choi (2006). Does Foreign Direct Investment Affect Domestic Income
Inequality? Applied Economics Letters. 13(12), 811 - 814.
8. Elene, M. and Marco, V. (2009). Trade and Income Inequality in Developing
Countries. World Development, 37(2), 287 - 302.
9. Hsiao, F. and Hsiao, M. (2006). FDI, Exports, and GDP in East and Southeast
Asia - Panel data versus time-series causality analyses. Journal of Asian
Economic, 17, 1082 - 1106.
10. Lessmann, C. (2013). Foreign Direct Investment and Regional Inequality: A Panel
Data Analysis. China Economic Review, 24, 129 - 149
11. Mah, J. S. (2003). A Note on Globalization and Income Distribution - The Case of
Korea, 1975 - 1995. Journal of Asian Economics 14, 157 - 164.
112
nguon tai.lieu . vn