Xem mẫu

Người Thu Lao thuộc nhỏm ngôn ngữ Tày — Thái. Nhưng liọ tòn tại trong nhỏm ấy như một dân tộc riêng biệt, hay chỉ là nhóm địa phưo’ng của một dân tộc nào đấy mà thôi ? Đó là vấn đề cần nghiên cứu rổ. Đê góp phàn giải quyết vấn đề đặt ra ỏ` trên, chúng tôi trình bày một sổ đặc trưng dân tộc học, mà theo chúng tôi, đỏ là những điềm nồi bật nhất đề xác định vị trí của người Thu Lao trong bảng phân loại các dân tộc hiện nay. * Thu Lao là tộc danh do ngirời Hán gọi. Hiện nay, người Thu Lao cũng nhận tôn gọi ấy là tên gọi chính thức. Tên gọi này xưa nav không mang ý nghĩa miệt thị. Thu Lao, Pu Lao, Thồ Lão là cách gọi khác nhau từ chữ Ngoài ra, một sổ ngưòi Hán còn dùng tên gọi cò Lão (`Ểt ê) đẽ chỉ ngưòi Thu Lao nữa. `r Thực ra, Lẵo hay Thổ Lão là tên mà ngirời Hán dùng đê gọi kliổi Cháng (Choang) `"triuớc kia, Trong khối Chảng ấy, bao gồm cả [người Chảng, Tày, Nùng hiện nayí1). Như vậy, Lão hay Thỗ |Lẩo không phải là tên riêng chỉ người Thu Lao, mà là tên xưa kia gọi chung các nhỏm ngưòi thuộc khổi Cháng. ỏ’ Trung Quoc hiện nay, một bộ phận người Cháng ở huyện Phong Sơn và những miền xung quanh vẫn tự (l) Tộc danh Choang` mó-i xuất hiện từ đời Tống. Trước (ló, những người nky đưọ’c người Hán gọi là Di Lão, Lý Lão. Hiện nay ỏ` Trang Quốc gọi là Gháng. I 17VVĐ 257 xưng là Bỏ Lão (Bồ = Pu, cỏ nghĩa là ngivòl). Người Hán cung CÒI1 gọi một hộ phận người Cháng khác là Thô Lão í1) Từ tộc đánh phàn lích ỏ- Irên, cliímg tôi nghĩ rằng người Thu Lao hiện iiav, nguyên xiva là một bộ pliàn nào đó của khối cộng` đòng Chảng`. Khổi cộng đồng nàv ■thống nhấl và mang một tên gọi là Lão hay Thề Lão. Nhưng sau, họ phùn liỏa thành những bộ phận nhỏ như Clúing, Tày, Nùng v.Y..ềmà ngày nav eư trú ỏ’nãm Trung Quốc và bắc Việt Nam. Các nhóm người nàv đều không giữ lại tốri gọi thong nhất cỗ xưa. Tliế nhưng, cỏ một vài nhỏm nhỏ lại vẫn giữ tên gọi` cò nàỵ làm tộc danh chính thức của mình như: Thu Lao, Cơ Lao, Tsirn Lao... Ngưòi Tha Lao còn có lèii ((Đàyy> là Lỏn tự họ đặt ra. «Đàv )) chỉ là bien âm của ((Tày))hay «Táy)) mà thôi. Theo quan niệm của người Thu Lao (hì Đày có nhiều ngàỉìh, phàn biết nhau bởi một [số đặc điếm về V phục của phụ nữ Liỉiư: — Đày Thừ Xề (((T hừ» là khăn, ((Xề)) là nhọn) là người Đàv [mà phụ nữ ,Yấn gkliăn Ihành nểp nhọn trên (lỉnh đầu. Nhỏm Iigưòl này còn có tên gọi nữa là Đáy Băm (Đày đen) vì V phục của phụ nữ màu chàm đenề Đày chính là nhóm Thu Lao mà chúng tôi đang giới lhiệuề — tìàiỊ Ma Puằ— ià người Đày ỏ` vùng Ma Pir thuộc Vân Nam — Trung Quốc. Phụ nữ Đà}r Ma Pir đội khăn hoa quấn từ trán về sau gáy. Nhóm [người Đày nay chỉ cư trú ỏ’ Trung Qu5cệ (2) Hoàng Tàng Xổ, Quảng Tây Choang lộc lịch sư hỏa hiện irạng, Dân tộc xuất bản xã, Bắc Kinh (bẳn Trung vãn). 258 — Đày Khảo (Bày Irãng). .Đó ]à nhỏm người Tảv mặc quần và áo dài. llọ ở nhà sàn và làm ruộng nirởc* Miện nay, nhóm Đày Khào, cỏ một sổ người cư trú ỏ’ huvện Bằc líà, Bảo Thống, Lào Cai^>. — Đày Thử Vững là người Đàv mà phụ nữ thường đội khăn quấn Iròii tròn đầu. Nhỏm ĐaV nàv cir trú ỏ’ phía bắc vùng Ma Pu’ — Vàn Nam (?). Theo quan niộm của người Tiiu Lao thì giữa các nhỏm Đày, nhẵt là tìày Thừ X? \ ấã ])ùụ Kháo có mộl quan hệ rất khăng khít. Hai nhỏm `Dàv 11àV có những họ giống nhau, và nếu cùng họ iliì coi nhau như anh em ruột thil, đôi bên llurờng di lại thăm hỏi nhau trong các dịp tòi, lỗ, hiếu, hỉ... Qua tốn gọi và cách phản biệt giữa các ngành khác nhau của người Tlui Lao, giáp ía khẳng "định quan hệ nguồn íịốc của người Tim Lao vói các dàn [tộc trong nhóm Tày — Thái. ()’ (làv, họ vẫn giữ đircyc tôn Lự gọi ihổng nhất vởi tôn tự gọi của người Tày và Thái (Tày, Táy). Chúng ta còn nhận thấy trong quan niệm và tình cảm của nsiTỜi Thu Lao, vẫn Irền, irong đỏ có ngirời -Tày coi những nhóm Đàv kê ỏ` Lào Cai là nhóm đồng lộc Yỏi mình. Trong điều kiện tài liệu \ề người Thu Lao ỏ’Việt Nam còn ít ỏi và những` hiễu biết ve các nhỏm đòng tộc của họ ỏ` Trung Quốc cũng rất hạn chế, chủng` ta khỏ cỏ thê đoản nay của đinh đưo`C đia bàn nhóm ngirời nàyte). cư trú xưa cítnổ như hièn Tiên Hy cho rẳng người (1) Thực rai ngivtVi `l`ày (V Lào Cai, khòng phầi gốc Tày, mà là ịị c Thái, Giáv, Việt... sau bị Tày hóa mù thôi. (2) Trong số những tài liệu chủng tôi ctirọ’c thíim khẵo về các dồn lộc vùng 1111111 Trung Quốc .của các nhà nghiên cứu Thổ Lão xưa kia ở YÙng giáp giới giữa các íinh Tứ Xuyên, Quỹ Châu và Quảng Tây, sau đỏ, họ mới di cư vào Vân Nam và `ỏ’ tản mạn khắp noú trong tỉnh này* đặc biệt ở Thạch Bình, Hi Ngô và Lộ Nam(1>. Nhưng trong các truyện kề cỏ quan hệ đến nguồn gốc lịch sử dân tộc mình, các cụ già Thu Lao thưòng nhắc đến những nơi xưa của họ như Quỷ Châu, Quảng Tây. Thời đỏ, họ còn ỏ’đông đúc và làm ruộng nưỏc. Những nhà nghiên cứu về ngưòi Cháng, cũng cho rằng khu vực cư trú của người Chảng là ỏ’ Quảng Đồng, Quảng Tây, Quỷ Châu, Vân ịNam..ẵVậy có thễ là xưa kia cung như hiện nay, người TÍ1U Lao cư trú cùng một khu vực vỏ’i các nhỏm Tày. — Chảng. Những tài liệu về người Thu Lao không nói rổ nhỏm ngưòi nàv đã từ địa bàn cư trú cỗ xưa là vùng giáp giới Quảng Tâv — Quỉ Châu Tào Vân Nam từ thòi kỳ nào? Nhưng nếu nói đến nhóm người Cháng, thì Từ Tùng Thạch cho rằng ẵế «0’miền nam Vân Nam (nay là vùng có nhiều người Thu Lao quần tụ), người Chảng đến rất sởm, từ trước khi vua Nghiêu, Thuấn khai thác đất Nam Giao. Chẳng qua đương thòi không gọi là Cháng mà thôi)), (trích lại của Đào Duy Anh). Riêng ngưòi Thu Lao, họ đã định cư ỏ’Vân Nam khá lâu, rồi một số đi tiếp xuống phía Nam vào Việt Nam. Các gia đình người Thu Lao đầu tiên tới Việt Nam, thường nhớ đến những địa điễm họ đi qua là Ma Mư, Lừng Lồ, chợ Trăng Háng, chọ’ Pả Sờ thuộc Vân Nam — Trung Quốc. Họ xuôi theo thượng nguồn các sồng Hồng Trung Quốc gần đây, chưa thấy tài liệu nào miêu thuật trực tiếp về người Thu Lao. Phải chăng, họ đã xểp nhóm ngưò’i này vào các cộng đồng ngưòi khác ? (l) Tiên Hy, tài liệu đã dẫn. 260 và sông Chảy vào Việt Nam rồi định cư ở vùng biên giỏi Việt— Trung, thuộc hai huyện Mirờng Khương và Xin Ma Cai ngày nay. Thời điêm di cư Yào Việt Nam của từng nliỏm gia đình người Thu Lao có khác nhau. Nhỏm vào sớm nhất là tỗ tiên gia đình các cụ Hò Diu Phu và Ly Chần Sài ỏ` vùng Na Hử (Mường Khương). Những người đến đầu tiên này, tởi nay đẩ đu*Ọ’C khoảng 100 năm (4 — 5 đời). Sau lớp đầu liên ấy, những gia đình khác tiếp tục vào Việt Nam yà cư trú rộng ra các vùng xung quanh Na Hâử và phía bắc Xin Ma Cai. Cách đây khoảng hai, ba mưoi năm, lẻ tẻ vẫn cỏ những gia đình người Thu Lao tiếp tục xuống cư trú ỏ’ Lao Gai. * Ngôn ngữ Thu Lao mang đầv đủ nhĩrng đặc trưng của ngôn ngũ’ Tày—Thái. Sự tương đồng giữa Thu Lao với các ngôn ngũ’ Tàv—Tliải về từ vựng, không chỉ xảv ra ở các 1Ó`P từ chỉ những hiệntưcmg tự nhiôn, bộ phận cơ thễ, động vật, cây cối, hệ thống sổ đếm... mà còn trong nhiều lớp t.ừ văn lióa kliảc nữa. Song` ngôn, ngũ* Thu Lao cung mang nhiều nét riêng so với các ngôn ngữ khác trong nhỏm. Tỷ dụ về ngữ âm, trong một số từ khi tiếng Tày, Thái, Pa Dí.,ể là phụ âm YÔ thanh, thì ở tiếng Thu Lao là phụ âm hữu -thanhc1). Tàỵ, Thái, Pa Dí Thu Lao đ (các từ số 15, 24) Ị), p V, b (các từ số 27, 76, 77...) k, k g (từ 53).. (1) Xem Bảng ỈO sánh lự/ôn ngữ Thu Lao, Pa Dí với các nc,ồn ngữ khác ở cuối hài. ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn