Xem mẫu
- 8. NỀN VÃN HÓA MAYA
MÁY NÉT KHÁI QUÁT LỊCH s ứ
Nền văn hóa người Maya, một bộ tộc người Indien,
đã sinh sống ở bán đảo Yucatan của Trung M ỹ thuộc
vùng Đông Nam Mexico, Bắc Goatemala và Hondurat,
cách đây hơn 2000 năm.
Qua các cuộc khai quật khảo cổ và các di tích văn
bia còn lại, đã cho thấy rằng vào th ế kỷ I sau CN, các
quốc gia cổ đại của người Maya đã được thành lập.
Nhưng đến th ế kỷ IX và X, phần lớn các quốc gia này bị
tàn lụi vì xẩy ra cuộc chiến tranh tương tàn và sự xâm
lược của các bộ lạc Tônchoki ở phía Tây. Chỉ có các
quốc gia thành thị nằm trên bán đảo Yucatan thuộc
Mexico vẫn còn tồn tại đến nửa đầu thế kỷ XVI, khi
thực dân Tây Ban Nha đưa quân tàu chiến đến xâm
lược vùng này.
Tại đây quân xâm lược ra sức tàn sát cư dân, san
bằng nhiều đền đài, cung điện và biết bao công trình
kiến trúc nguy nga đều bị sụp đổ dưới bàn tay phá hoại
của quân đội xâm lược da trắng. Nhiều tài liệu, thư tịch
448
- của người Maya bị chúng đem thiêu huỷ, khiến cho nền
văn hóa của người Maya đến nay không còn lại là bao.
Tuy vậy, vói s ố di tích còn lại của nền văn hóa Maya
bao gồm những kiến trúc đồ sộ bằng đá có khắc các
văn bia, các tác phẩm điêu khắc trên các vách hang
động, các công cụ sản xuất được tìm thây qua các cuộc
khai quật khảo cổ học, cho phép chứng ta hiểu được phần
nào về nền văn hóa cổ đại của vùng Trung Mỹ này.
Nền kinh tế của người Maya dựa chủ yếu vào nông
nghiệp, song kỹ thuật canh tác của họ còn hết sức lạc
hậu. Công cụ lao động sản xuâ't chủ yếu bằng đá. Họ
dùng rìu đá chặt cây, sau đó đốt cây làm rẫy, dùng gậy
thọc lỗ, tra hạt, gieo trồng ngũ cốc. Các loại cây trồng
chủ yếu của người dân Maya là: ngô, đậu, ca c a o , cà
chua, bí đỏ... Họ cũng trồng bông, gai để lấy sợi dệt vải.
Để phục vụ cho công việc canh tác nông nghiệp,
người Maya đã xây dựng những hệ thống thuỷ lợi, dẫn
thuỷ nhập điền tưới tiêu cho đồng ruộng. Tại Etga, hiện
vẫn còn di tích của một hệ thông thuỷ lợi được xây
dựng cách nay hơn 2.000 năm. Công trình thuỷ lợi này
gồm có các đê, đập, cống với những con kênh dẫn nước
dài khoảng 20 km. Riêng con kênh chính rộng 50 mét,
vói độ sâu 1,5 mét. Các con kênh này được ăn thông với
các hồ nước lớn, có sức chứa đến 2 tỷ mét khối nước.
Người Maya thường tìm những nơi có nguồn nước để
sinh sống thuận tiện cho việc trồng trọt, sinh hoạt và đi
lại, trao đổi hàng hóa.
449
- Ngoài nghề nông nghiệp ngày một phát triển,
người Maya cũng chú trọng việc chăn nuôi gia súc gia
cầm. Nghề chăn nuôi cũng chiếm một vị trí quan trọng
trong đòi sôYig kinh tế xã hội của người Maya. Vì vậy
mà kinh tế chăn nuôi của người Maya cũng khá phát
triển. Ngoài việc chăn nuôi cầm thú, người Maya săn
bắn các loại thú rừng, đánh bắt cá ven sông suối.
v ề tiểu thủ công nghiệp của người Maya cũng có
bước phát triển khá. Người Maya chủ yếu làm các nghề:
dệt vải, làm đồ mộc, chạm khắc đá, làm gốm, thêu
thùa, làm đồ trang sức... Riêng đồ gốm của người Maya
đã đến độ tinh xảo.
Đặc biệt người Maya đã biết sản xuất muối dùng
cho bữa ăn. Bằng chứng là người ta đã tìm thấy một hệ
thống kênh rạch dẫn nước vào ruộng, nhưng không
phải là hệ thống thuỷ lợi không có tác dụng tưới tiêu,
nhưng trong những kênh rạch đó có nhiều muối. Các
nhà nghiên cứu khảo cổ cho rằng chính hệ thống kênh
rạch đó là phương tiện sản xuất m uối ăn của người
Maya.
v ề cơ cấu xã hội, người Maya có 2 tầng lớp: dân tự
do và dân nô lệ. Đa số dân tự do là người lao động sản
xuất, còn lại một bộ phận không nhiều của dân tự do là
tầng lóp thống trị, bao gồm những người có chức sắc,
chức tước, quý tộc quân sự và tăng lữ.
Người đứng đầu nhà nước là Khalacvinit, có quyền
lực tối thượng, kể cả quyền bổ nhiệm ngưòi đứng đầu
450
- các quốc gia chư hầu. Giúp việc cho Khalacvinit là một
tăng lữ. Vị tăng lữ này có quyền cử các tăng lử dưới
quyền mình. Tầng lớp nô lệ chiếm một tỷ lệ khá lớn
trong xã hội. Họ là tầng lóp dưới đáy xã hội, địa vị thấp
hèn, họ phải làm tất cả mọi việc nặng nhọc như: chặt
cây, đốt rẫy, tra hạt, trồng trọt, săn bắn, xây dựng
đường sá, đền đài cung điện. Tóm lại nô lệ là tầng lóp
chủ yếu làm ra của cải xã hội, nhưng họ lại không được
hưởng bao nhiêu, thậm chí còn bị chủ nô đánh đập,
giết chết.
Đối với người Maya, tôn giáo tín ngưỡng đóng một
vai trò hết sức quan trọng trong đời sống tinh thần của
họ. Người Maya sùng bái các vị thần tự nhiên, mà theo
quan niệm của họ, chính những vị thần đó có ảnh
hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp như: Thần Mặt
Trời, Thần Mưa, Thần Nước, Thần Gió... Trong đó Thần
Mặt Trời và Thần Mưa là hai vị thần được người Maya
tôn trọng kính cẩn nhất. Nên người Maya đã xây dựng
nhiều đền thờ. Hằng năm việc tổ chức cúng tế, hiến
sinh các vị thần rất được chú trọng.
Chẳng hạn để cúng tế Thần Mưa, người Maya có
phong tục thả xuống giếng nước những bức tượng nhỏ
làm bằng vàng, bằng ngọc hoặc bằng đá hay bằng
đồng. Cũng có nơi dùng thiếu nữ chưa chồng con, trinh
tiết hiến tế cho thần.
Người Maya, hết sức coi trọng tín ngưỡng, để tỏ rõ
tâm lòng thành kính, sùng bái của mình đối với các vị
451
- thần linh, người Maya đã xây nên những đền đài tráng
lệ để cúng tế các vị thần linh đó. Một trong rất nhiêu
đền đài còn lại ngày hôm nay đó là khu di tích Chichen
- Itza, ở Mexico.
Cái tên Chichen - Itza, theo tiếng Yucatan Maya có
nghĩa "tại miệng giếng Itza". Vùng phía Bắc Yucatan
không có một dòng sông nào chảy qua, nên tại nơi có
ba chỗ đất bị sụt tự nhiên xuống sâu, trở thành nơi cung
cấp nước quanh năm cho Chichen- Itza. Vì vậy Chichen
- Itza trở thành nơi hấp dẫn của người dân Maya. Và
hai trong số ba ao trũng đó vẫn còn tồn tại tới ngày nay.
Trong đó "Ao t ìy sinh" là ao nổi tiếng nhất và nước của
ao này được dành cho việc cúng tế vị Thần Mưa là
Chaac. Nhiều vật thể quý giá như ngọc bích, đồ gốm có
giá trị cao và hương trầm được ném xuống để hiến cho
Chaac, cầu mong Chaac phù hộ độ trì.
Cũng do việc cung cấp nước thuận lợi mà nhiều
người dân đến đây làm ăn sinh sống. Chichen - Itza trở
thành một vùng nổi tiếng trong khu vực vào khoảng
năm 600 Tr. CN (tức là khoảng cuối của giai đoạn Đầu
cổ điển). Nhưng phải tới cuối thòi kỳ Hậu cổ điển và
nửa đầu cuối cổ điển, nơi đây mới thực sự trở thành
một trung tâm tập trung và chi phối chính trị, văn hóa,
xã hội, kinh tế và đòi sống tại khu vực đất thấp phía Bắc
Maya. Nhưng đến thế kỷ thứ X sau CN, nền văn hóa
Maya ngày càng suy yếu. Lọi dụng thòi cơ này, vào
khoảng năm 987, một vị vua Toltec tên là Quetzalcoatle
452
- đưa một đội quân hùng mạnh từ miền Trung Mexico
đến đây tấn công cướp lấy quyền khống chế khu vực
này và cho tiến hành mở rộng cải tạo khu vực này và
biến Chichen - Itza trở thành thủ đô của người Toltec,
một phiên bản của thủ đô Tula.
KIẾN TRÚC ĐIÊU KHẮC Khu di tích Chichen -
Itza, tồn tại đến ngày nay, không thật hoàn toàn mang
phong cách nghệ thuật kiến trúc Maya và cũng không
còn thuần tuý thuộc phong cách nghệ thuật kiến trúc
Toltec, mà nó là một sự hỗn hợp của hai mô thức văn
hóa, tư tưởng của người Maya và Toltec.
Chichen - Itza, từng là thủ phủ mới của vị vua
Toltec là Quetzalcoatle. Sau khi nhà vua qua đời, được
đồng nhâ"t với thần linh: Trong ngôn ngữ Toltec
Quetzacoatle có nghĩa là Thần Rắn có lông vũ và theo
tiếng Maya gọi là Kukulcan.
Khác vói xã hội Maya thời Đầu cổ điển, Chichen -
Itza không nằm dưới quyền cai trị cá nhân một vị vua
hay một dòng họ. Theo Sharer và Traxler, hai nhà xã
hội học, thì tổ chức chính trị của thành phố Chichen -
Itza được xây dựng theo một hệ thống "M ultepal" do
một Hội đồng quản lýế Hội đồng này gồm các thành
phần tinh tuý nhất của các dòng họ cai trị.
Chichen - Itza là một trung tâm kinh tế lớn của
vùng đất thấp phía Bắc Maya ở thời cực thịnh của nó.
Tham gia vào con đường thương mại trên biển quanh
bán đảo thông qua cảng tại Isla Ceritos, Chichen - Itza
453
- có thể tiếp cận các nguồn tài nguyên không có trong
khu vực từ những nơi xa xôi thuộc miền Trung Mexico
như các loại đá quý hoặc vàng đến từ Nam Trung Mỹ.
Dưới thời Quetzacoatle, người ta xây dựng nhiều
công trình kiến trúc bằng đá rất vĩ đại. Đó là những đền
đài, cung điện, sân khâu, nhà tắm công cộng và sân
bóng... Nổi bật nhâ't ở trung tâm Chichen là kim tự tháp
do nhà vua Quetzacoatle xây dựng. Ngôi đền này còn
được gọi là "Thành trì" gồm 4 mặt. Mỗi mặt đều có 91
bậc thềm. Điều kỳ lạ độc đáo là tổng số bậc thềm và bậc
thang của nền đền đều chia chẵn cho số ngày và số
tháng của một năm và tượng trưng cho 4 mùa của năm.
Đền có 52 phiến đá được chạm khắc tinh vi tượng
trưng cho 52 năm là một năm luân hồi trong lịch sử của
người Maya. Việc định vị phương hướng cho công trình
kỳ vĩ này cũng được các công trình sư tính toán kỹ
lưỡng. Các bậc thang 4 mặt của tháp hướng đúng chính
Bắc, chính Nam, chính Đông và chính Tây.
Ở Chichen - Itza có một sân bóng vào loại tốt nhất
vùng Trung Mỹ. Sân bóng có 2 bức tường song hành
dài 83 mét, khoảng giữa hai bức tường cách nhau 2 mét.
Hai đầu sân bóng, người ta xây dựng nhiều đền đài.
Một vấn đề được đặt ra rằng sân bóng được xây dựng
ngay cạnh các đền đài có mang ý nghĩa tôn giáo không
? Điều này đến nay còn là một ẩn số ! Nhưng khi quan
sát các phù điêu trên tường, ta thây có một số hình
người thi đấu bị chặt đầu, điều đó nói lên cuộc thi đâu
454
- châm dứt bằng cái chết của một bên. Vào thời đại
Aztec, có một bản tường trình về loại thi đâu này.
Trong đó nói rằng, trên hai bức tường, mỗi bên đều có
một dãy lỗ hổng, người thi đấu, nếu đón được quả bóng
từ một lỗ hổng trong số lỗ hổng đó rơi ra, đâu thủ đó là
người thắng cuộc. Khán giả sẽ ném y phục của họ cho
người thắng cuộc. Đó chính là phần thưởng của khán
giả cho đâu thủ thắng. Đội quân thua sẽ bị chặt đầu.
Dọc theo hành lang dài dẫn đến đền Các Chiến binh
(Templo de los Guerreros), có người gọi là đền Dũng sĩ
của Chichen - Itza. Đền Cức Chiến binh gồm một kim tự
tháp với các bậc lớn phía trước và các hàng cột điêu
khắc mặt bên biểu tượng các chiến binh. Khu vực này
tương tự như đền ở thủ đô Tula của Toltec. Qua đó cho
thấy có sự giao lưu văn hóa giữa hai vùng miền. Tuy
nhiên ngôi đền tại Chichen - Itza, được xây dựng với
quy mô lớn hơn. Trên đỉnh kim tự tháp có Chaac Mool
- Đền Cức Chiến binh được trang trí nhiều điêu khắc,
bích hoạ và có nhiều tác phẩm mang phong cách nghệ
thuật Toltec mà chủ đề của những tác phẩm này là hổ
châu Mỹ và chim ưng trống.
Ngoài ra, thành củ Chichen - Itza còn có một ngôi
đền mang tên Cọp dữ, được xây dựng trên một tảng đá
lớn, trước cửa đền chạm khắc một con hổ châu Mỹ
canh giữ cửa đền và một số lăng mộ của Thầy cúng.
Thòi kỳ Chichen - Itza được coi là trung tâm quyền-
lực tồn tại không lâu. Cuốn biên niên sử Maya ghi rằng
455
- vào năm 1221 một cuộc nổi loạn và nội chiến bùng
phát, đã làm tàn rụi Chichen - Itza. Các cuộc khai quật
khảo cổ học đã xác định rằng các mái gỗ của ngôi chợ
lớn và đền Các Chiến binh cũng bị đốt cháy. Từ đó
Chichen - Itza đi vào giai đoạn suy tàn từ khi quyền cai
quản Yucatan rơi vào tay Mayapa. Khoảng chừng vào
năm 1224 toàn bộ khu vực này bị bỏ hoang phế.
Năm 1531, người Tây Ban Nha do Francisco de
Montejo chỉ huy xâm lược vùng đất này, đã tới
Chichen - Itza và có ý định biến Chichen - Itza thành
thủ đô của Yucatan Tây Ban Nha, nhưng quân xâm
lược Tây Ban Nha đã vấp phải cuộc nổi dậy của dân
bản xứ chống trả quyết liệt, Montejo và các lực lượng
của y đã phải rời bỏ vùng này, từ bỏ ý định trên.
Ngày nay khu di tích Chichen-Itza được UNESCO
công nhận là di sản văn hóa thế giới năm 1987 và ngày
7-7-2007 được Tổ chức New Open W ordl Coporation
(NOWC) bầu chọn là một trong 7 kỳ quan mới của thế
giới.
Một khu di tích thuộc nền văn hóa Maya đó là
thành phô" Teotihuacan, nằm cách thủ đô Mexico 50 km
về phía Bắc, trong một vùng rừng núi.
Thành p h ố Thánh Teotihuacan được thành lập vào
khoảng thế kỷ I đến thế kỷ III, cách nay 2000 năm, trải
rộng trên một diện tích 8 dặm vuông. Người ta ước tính
lúc bấy giờ có khoảng 200.00 người dân sinh sống ở
thành phố này. Vào thời hoàng kim của mình, tức là
456
- vào năm 600 sau CN, thành phố Teotihuacan quản lý
một nhà nước mà có lẽ lớn hơn thành phố Roma, châu
Âu.
Trung tâm nghi lễ Teotihuacan đặt ở các công trình
chính là Kim tự tháp Mặt Trời cao 75 mét tính từ bậc
thềm, chiếm một diện tích 350 và Kim tự tháp Mặt
Trăng cao 42 mét, cũng như đền Quetzacoatle thờ Thần
Rắn lông vũ của người dân Aztec.
Trong thành phố Teotihuacan có khoảng 4.000 ngôi
nhà xây bằng đá núi lửa trát bùn và những cung điện
được trang trí bằng các pho tượng nghệ thuật tuyệt
đẹp, được sắp xếp theo một biểu đồ hình chữ nhật dựa
trên các nguyên lý vũ trụ hài hoà.
Thành phô" Teotihuacan được chia làm hai phần bởi
một đại lộ lớn nối liền các chợ, đền thờ và các quảng
trường. Thời bấy giờ nghề sống chính của dân chúng ở
đây chủ yếu là sản xuất các dụng cụ cắt gọt bằng đá.
Vào thế kỷ VI sau CN, thành phố Teotihuacan
thuộc loại nhà nước hùng mạnh có lãnh thổ rộng lớn.
Nhưng đến thế kỷ VII, khoảng năm 650, vì một nguyên
nhân chưa rõ, thành phố này bị thiêu cháy rụi, toàn bộ
các đền đài đều bị cháy ra tro. Từ đó thành phố bị bỏ
hoang phế trong nhiều thế kỷ.
Đến thế kỷ XIV khi người Aztec đến thăm trung
tâm thương mại và tôn giáo cổ đại này, đã tìm thấy
những kim tự tháp khổng lồ của thành phố đổ nát này,
457
- thì họ cho rằng mảnh đất này là do thánh thần xây
dựng. Do đó họ đã đặt tên cho nó là Teotihuacan, có
nghĩa là "Nơi ở của Thần Thánh". Vì người Aztec cho
rằng con người bình thường không thể nào xây dựng
được các công trình khổng lồ trên một phạm vi rộng lớn
như vậy. Người Aztec đã đưa thành phố vào những câu
chuyện thần thoại và họ tuyên bố rằng những kim tự
tháp đó là nơi sinh ra của Mặt Tròi và Mặt Trăng. Họ
đặt tên cho ngôi đền thờ Rắn Thần là Quetzacoatle
(Thẩn Gió) mà hơi thở của Thần thành luồng gió của
Thần đã m ở đường cho Thản Mưa Tlaloc. Những hình
ảnh của các vị thần này được thể hiện qua các tác phẩm
nghệ thuật điêu khắc ngày nay vẫn còn tồn tại trên các
bức tường của các ngôi đền hoang phế.
Hầu hết các công trình kiến trúc của thành phố
Teotihuacan đều được xây bằng đá núi lửa nhẹ nhưng
rất bền được trát bằng vôi vữa. 4.000 ngôi nhà của
thành phố Teotihuacan được quy hoạch theo ô bàn cờ.
Hầu hết người dân thành p h ố Teotihuacan đều sống
trong các căn hộ 1 tầng và không có cửa sổ, xung quanh
có hiên tránh nắng nóng.
Năm 1987 Thành phố Teotihucan được U NESCO
công nhận là di sản văn hóa thế giới.
Người Maya cổ đại họ đã sáng tạo ra nhiều công
trình kiến trúc vĩ đại đó là những ngôi Kim tự tháp
trong khu rừng rậm Tikal nay thuộc đâ't nước
Guatemala. Tại đây người Maya đã xây dựng nên
458
- những ngọn núi nhân tạo linh thiêng nằm cao vọt hẳn
lên, đó là một trong những kinh đô cổ lớn nhất của
người Maya cổ đại.
Ngày nay những ngôi đền Kim tự tháp cao 20 tầng
rất quý giá ây vẫn còn tồn tạiẵTrên đỉnh của những kim
tự tháp - những toà nhà chọc tròi - bằng đá vôi này các
vị vua, thánh thần và các cận thần có lẽ đã dược tiếp
xúc vói các vị thần và linh hồn các tổ tiên của họ thông
qua những ảo giác có được nhờ việc chích máu và hút
thuốc lá. Những nhân vật thượng lưu thuộc giới tăng lữ
còn tiên đoán về những mối liên kết giữa các hành tinh
để quyết định việc tuyên chiến hay trồng trọt và những
công việc đại sự quốc gia. Bằng cách sử dụng một hệ
thống lịch chi tiết, họ đã có thể đo được thời gian theo
từng ngày từ cách nay hàng triệu năm. Và họ đã xây
dựng cho mình một hệ thống chữ viết tinh tế nhất châu
Mỹ La tinh. Những chữ viết tượng hình được các nhà
khoa học giải mã gần đây tại các di chỉ ỞTikal và những
nơi khác thuộc nền văn hóa Maya đã chứng minh
ngược lại quan điểm xưa kia của các học giả phương
Tây, cho rằng: những người Mỹ bản địa này là các nhà
toán học và là các nhà chiêm tinh học yêu hoà bình.
Những hình ảnh khắc trên đá ở Tikal đã kể về cuộc
chiến tranh, những cuộc biểu dương sức mạnh, những
cuộc tra tấn dã man và thậm chí dùng những dùi nhọn
để xuyên vào dương vật hay xuyên qua lưỡi, hút tuỷ và
máu người ra để nuôi thánh thần.
459
- Khu di tích đền đài Tikal được xây dựng vào thế kỷ
thứ VII Tr. CN. Tikal đã đạt đến sự cường thịnh cùng
vói nền văn hóa rực rỡ của Maya cổ đại từ năm 250 đến
990 sau CN. Vào thòi cực thịnh của mình, thành phố
Tikal này có diện tích rộng tới 50 dặm vuông và dân số
lên tới 40.000 người. Nguồn sống chính của người dân
Tikal là thâm canh nông nghiệp và một mạng lưới
thương mại dịch vụ trải rộng.
Tikal cổ có các ngôi đền Kim tự tháp và các cung
điện, những con đường đắp cao và một khu chợ có mái
che. Cho đến nay các nhà khảo cổ học đã khai quật
được 500 di tích và lập bản đồ di chỉ của khoảng 3.000
di chỉ khác. Theo các nhà khoa học khảo cổ, việc xây
dựng thành p hố Tikal không cần đến sự trợ giúp của xe
cộ hoặc những công cụ bằng kim loại.
Sau một thiên niên kỷ rưỡi, công cuộc xây dựng và
tái thiết liên tục với khoảng 50 đền đài mà theo dự định
còn xây tiếp mấy chục ngôi đền nữa, nhưng rồi công
việc xây dựng ở Tikal bỗng dưng bị dùng lại. Cho đến
năm 900 sau CN, toàn bộ dân thành p h ố Tikal bị biến
mất, cho đến nay chưa một ai biết lý do của sự biến
mất ấy.
Ngày nay khu di tích TiKal được U N ESC O ghi vào
danh sách di sản văn hóa thế giới năm 1979.
Thành phô" được bảo tồn khá nguyên vẹn cho đến
ngày nay trong di sản kiến trúc của người Maya là
thành phố Copan, nằm trên lãnh thổ của Honduras.
460
- Vào cuối thế kỷ XIX Alfred Madsli người Mỹ, đã đi
sâu nghiên cứu trung tâm tôn giáo và thế tục của thủ
lĩnh người Maya. Ông đã xây dựng phác thảo đồ án đo
đạc địa hình đầu tiên của vùng Copan cùng với bảng kê
những ngôi nhà còn lưu giữ lại tói khi đó.
Căn cứ vào phác đồ này của Alfred Madsli, các nhà
khảo cổ học đã khai quật và phát hiện ra một cầu thang
có khắc chữ tượng hình và nhiều mộ táng. Hơn thế nữa
những hiện vật thu được trong các cuộc khai quật đã
xác định được điểm dân cư thuộc thế kỷ VIII Tr. CN,
nhưng sự phồn thịnh của Copan bắt đầu từ thời kỳ trị
vì của các triều vua Maya "Mười tám thỏ", "Sóc" và
Ạ
‘Thành phô'đang lên".
Khi nhà vua cuô"i cùng của người Maya qua đời thì
vương triều này mất hết ý nghĩa về kinh tế và chính trị,
nhưng nó vẫn còn tồn tại thêm khoảng 100 năm sau.
Tất cả 8 đời trị vì của vua chúa của người Maya đã
cho xây dựng những ngôi nhà dọc theo bờ sông Copan,
lóp nọ chồng lên lớp kia. Tất cả có 20 lớp.
Kích thước tổng thể chính của trung tâm nghi lễ
Copan là 600 X 300 m được gọi là Acropol, gồm nhiều
đền đài, những bậc thang và những bậc thềm, bao bọc
bởi 5 bề mặt. Trong đó có 2 ngôi đền, đã bị lũ của dòng
sông Copan cuốn trôi.
Trên quảng trường nghi lễ, các nghệ sĩ thời đại
Maya đã tạo nên cả một tập hợp các bia tưởng niệm,
tấm bia lớn nhâ't xưa kia cũng ở quảng trường này.
461
- Chiều cao khối đá của tấm bia lớn nhất là 4 mét. Trên
mặt phía trước là những mảng chạm khắc miêu tả
những hình ảnh nửa người nửa thú với những thuộc
tính của thần linh và anh hùng. Còn mặt kia của bia
khắc những chữ tượng hình. Dưới tấm bia kỷ niệm
hình chữ H, người ta tìm thấy một pho tượng bằng
vàng Mexico và Panama.
Cách chỗ những tấm bia kỷ niệm không xa là những
bàn thờ, cho tới nay chưa một ai có thể khám phá ra
những bí mật cuối cùng của chúng. Trang trí cổ nhâ't
của một trong những bàn thờ là hình con rắn hai đầu
với cái miệng há to, mà trong đó nhấp nhô những đầu
ngưòi.
Gần quảng trường cũ là ngôi đền với những vòm
cuốn đặc trưng cho kiến trúc người Maya, với những
chiếc cầu thang rộng 10 mét, được trang trí hình rắn và
hình chim cho các lan can.
Qua cầu thang "b á o " (con báo) rộng 11 mét, là dẫn
tới chiếc mặt nạ khổng lồ hình hành tinh sao Kim. c ầ u
thang này thuộc ngôi đền có mặt hình chữ E (ngôi đền
này bị phá huỷ trong trận động đất năm 1934). Đây là
công trình kiến trúc lớn nhất của người Maya.
Cùng với nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật điêu
khắc gắn liền với kiến trúc phát triển khá đa dạng.
Những hình hoa văn chạm trổ trên tường, trên các xà
ngang các cửa ra vào hay những cột đá 4 m ặt, bia đá...
vói hình thức khắc nổi (bas relief) là những công trình
điêu khắc có giá trị, thể hiện rõ tài năng của các nghệ
462
- sĩ của người Maya cổ xưa.
Di chỉ thành phố cổ Copan ngày nay được ủ y ban
Di sản của UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế
giới năm 1980.
Bên cạnh nghệ thuật điêu khắc đá là nghệ thuật tạo
hình tượng tròn. Tại đây có những bức tượng Thần,
tượng người bằng đất nung ở Khaira, những bức hoạ
trong đền thờ đá ba mặt ở Bonamnaca (Mexico), đã đạt
đến sự hài hoà trong b ố cục và trong kết câu hết sức
sinh động.
THIÊN VĂN - LỊCH PHÁP Nói chung những công
trình kiến trúc của người Maya gắn bó mật thiết với
nhận thức về thiên văn học của họ. Cho tới nay nhiều
tri thức thiên văn của người Maya vẫn còn là điều bí ẩn
đối với thế giới hiện tại. Và một điều kỳ lạ nữa là tri
thức thiên văn của người Maya cổ đại vượt xa so với các
tri thức khác. Điều này thể hiện rất rõ trong việc xây
dựng các công trình kiến trúc và trong hệ thống lịch
pháp của người Maya.
Chẳng hạn ở Kim tự tháp M ặt Trời ở thành phố
Teotihuacan (Mexico), người ta nhận thấy rằng cứ đến
12 giờ trưa ngày 21 tháng 6 hàng năm, mặt trời chiếu rọi
khắp 4 mặt tháp. Có thể coi đây "tờ lịch'' thời gian dùng
ánh sáng mặt tròi để tính năm và tính mùa. Phía Tây
của Kim tự tháp M ặt Trời là núi Cerre Colarado, theo
đường thẳng đó, người Maya lại xác định tiếp đường
thẳng thứ hai đến một ngọn núi khác. Rồi trên con
đường thẳng này người ta xây dựng đại lộ Thần chết,
463
- đồng thời trên đại lộ này người ta xây dựng Kim tự
tháp Mặt Trăng. Dựa trên hai đường thẳng đó người
Maya xây dựng thành phố Teotihuacan của mình.
Ngày nay, nhiều nhà khoa học đánh giá rất cao tri
thức thiên văn của người Maya. Trong cuốn "Những
nền văn minh đa mai một", A. Côntratop, một học giả Ba
Lan viết: ‘gCắc tăng lữ của người Maya là tức giả của loại
lịch chính xức nhất trong th ế giới cổ đại. H ọ biết xác địntí với
độ chính xác thật đứng kinh ngạc, chu kỳ vận động của một
s ố thiên thể".
Theo tính toán của các nhà thiên văn hiện đại, được
trang bị những dụng cụ đo chính xác nhất thì một
tháng Mặt Trăng dài 29,53059 ngày. Trong khi đó các
tăng lữ của người Maya cổ ở thành p h ố Copan
(Honduras) tính được bằng 21,53020 ngày, còn các tăng
lữ thành phô" Palencơ tính bằng 29,53086 ngày. Trước
đây người Maya xác định năm mặt tròi dài 365,242129
ngày, còn ngày nay trên cơ sở kỹ thuật tính toán hiện
đại là 365,242198 ngày.
Dựa theo lịch của ninh người Maya thường xây
dựng các thánh đường theo nguyên tắc: Mỗi ngày trong
tháng ứng với một bậc thang, mỗi tháng ứng vói một tầng
của thánh đưòng, còn bậc thang cuối cùng ở trên đỉnh ứng
vói ngày thứ 365 của năm là ban thờ của Chúa Trời.
Điều này chứng tỏ rằng người Maya đã quan sát sự
chuyển động của các thiên thể đạt đến độ chính xác phi
thường. Nhiều nhà khoa học cho rằng để đạt được độ
chính xác như vậy, đòi hỏi các nhà thiên văn Maya phải
464
- mất hàng chục nghìn năm quan sát. Và nếu vậy, thì nên
văn hóa Maya phải cổ hơn rất nhiều so vói những nền
văn hóa khác trên hành tinh chúng ta.
Người Maya kế thừa các nền văn minh cổ Zapotec
(ở Monte Alban) và Olmec (ở La Venta va Tres
Zapotec), họ đã sáng tạo lịch pháp của mình. Lịch
Maya được xây dựng trên cơ sở năm mặt tròi với 365
ngày.
Với độ dài không đổi, một năm mặt trời chia thành
18 tháng, mỗi tháng 20 ngày (dùng hệ đếm cơ số 20).
Năm ngày còn lại được đưa vào tháng cuối năm. Mỗi
tháng có một tên gọi, mà dường như không có liên
quan gì đến mùa vụ hoặc lễ hội. Tên gọi các tháng được
truyền theo truyền thống hoặc mượn từ các thứ tiếng
khác hay các nền văn hóa khác. Tên các tháng chỉ có ý
nghĩa trong lịch, chứ không giông như tên tháng trong
các ngôn ngữ châu Âu hiện nay.
Các ngày trong tháng được ghi bằng sô" thứ tự từ 0
đến 19 đặt trước tên tháng (từ 0 đến 4 cho tháng thiếu,
cuôl năm chỉ có 5 ngày). Như vậy mỗi ngày được định
tên chính xác trên trục thời gian. Các năm nối tiếp nhau
không ngừng và không có năm nhuận.
TOÁN HỌC
Người Maya ở các vùng Guatemala, miền Nam
Mexico, ngày nay vẫn còn dùng tiếng M am, tiếng
Quiche, tiếng Cakchiquel, tiếng Kekchi và tiếng M yathan...
Thực ra người Maya có khoảng 3 chục thứ tiếng nói
khác nhau. Điểm chung của các ngôn ngữ khác nhau đó
465
- là cách gọi tên một hệ số rất hoàn chỉnh và gần giống
nhau. Nhưng trong nhiều thập kỷ nay, người ta không
dùng thổ ngữ nữa để gọi các số lớn và ngay cả tên gọi
các số hàng đơn vị bằng thổ ngữ cũng dần mai một.
Hệ số Maya được sáng tạo ra bằng cách đếm trên
đầu ngón tay và ngón chân. Ví dụ trong tiếng Quiche,
từ chỉ số 20 là huvinak có nghĩa là "toàn thân''. Cách đếm
này phản ánh trong hệ đếm "thập pìíân”: 11 là hulahuh
có nghĩa là 1 cộng với lahuk là 10. Rõ ràng các con số
được sử dụng rất giống với cách chúng ta sử dụng để
đếm ngày nay, nhưng có một khác biệt là người Maya
phải dùng đến những từ phân loại để miêu tả các vật
được đếm, chỉ rõ các vật được đếm có hình tròn, dài hay
ở trạng thái đặc, lỏng. Ví dụ: nói về thuốc lá người
Yucatan sẽ nói: Đây là hun dzit (vật thể dài, hình trụ)
gọi là chamal (điếu thuốc lá), chứ không nói "đây là một
điếu thuốc lá".
CHỦ VIẾT VĂN T ự
Việc sáng tạo ra chữ viết, văn tự là một thành tựu
rực rỡ về văn hóa của người Maya. Khác vói hệ thống
văn tự của người Inca (nền văn hóa Andes), văn tự của
người Maya là sự kết họp giữa tượng âm và tượng hình
và là văn tự viết duy nhất trong các hệ thống văn tự cổ
của người Indien ở châu Mỹ. Tiếc thay những tài liệu
chữ viết của người Maya đã không thể tìm lại được, sau
khi người Tây Ban Nha chiếm được Trưng Mỹ. Lấy cớ
rằng chữ viết của người thổ dân da đỏ là sản phẩm của
quỷ sa tăng, vào năm 1672, vị giáo chủ người Tây Ban
Nha là Diego do Landa đã ra lệnh đốt hết những bản
466
- chép tay của người Maya trước toàn thể dân chúng.
Cho đến nay ngoài 4 bản chép tay còn lại, cũng là
bốn bộ luật của người Maya đã được tìm thấy, còn phần
lớn các di tích văn tự Maya còn lại chủ yếu ở trên các
bia đá. Tuy vậy, cũng phải đến giữa thế kỷ XX, các nhà
nghiên cứu ngôn ngữ học mới đọc được các văn bia
này. Nội dung mà người Maya ghi lại là các sự kiện
trong cuộc đời của các vua chúa, các lễ vật mà họ dâng
hiến cho các thần linh, những mẩu chuyện thần thoại
và cả những lòi cầu nguyện. Những ghi chép đó phản
ánh được phần nào quá trình lịch sử của người Maya
trong một thời kỳ kéo dài hàng nghìn năm.
C hữ sốM aỵa từ 1 đến 13 dùng vạch và châm
• •• • ••
9 12
•••
10 13
• •••
4
467
nguon tai.lieu . vn