Xem mẫu
- Nil ONỌH1 - VỌHNVANva lynx VHN
1V®1NYHN
VQ3 N01VQH NVA N M U U IM N
M M 7iTfTếĩtTêV*
OIMjO A H I H N V1AI N V > I ± H
- NHỮNG NỀN
VĂN HÓA LỚN CỦA
NHÂN LOẠI
- TRẦN MẠNH THƯỜNG
(Biên soạn)
lùng nển văn hóa lỉm
CỦA M Ò LOẠI
NHÀ X U Ấ T BẢN VĂN HÓA - THÔNG TIN
- LỜI NÓI ĐẦU
Thế giới đã gần được 6 tỷ tuổi thọ, tuy nhiên lịch sử loài người
chỉ mới hiện diện khoảng 100.000 năm qua, đã phải trải qua bao
thăng trầm, biến đổi và qua hàng ngàn năm chiến tranh khủng
khiếp, nhưng cuộc sống con người vẫn phải luôn luôn tồn tại và
phát triển qua các hình thức tổ chức xã hội khác nhau. Song bất
luận dưới hình thức xã hội nào, con người vẫn phải tự xây dựng
cho mình một đời sống văn hóa cộng đồng. Tuỳ từng hoàn cảnh
xã hội, thiên nhiên mà sự phát triển văn hóa ở mỗi vùng, miền,
dân tộc có sự khác nhau. Và vì vậy không có một dân tộc nào,
để tồn tại và phát triển lại không tạo dựng một nền văn hóa riêng.
Bất luận trong hoàn cảnh nào, từng cộng đồng dân tộc cần xây
dựng cho bản thân một nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc
mình. Điều đó cho thấy trên khắp hành tinh chúng ta, có bao
quốc gia dân tộc là có bấy nhiêu nền văn hóa.
Cuốn sách -Những nền văn hóa lớn của nhân loại- mà người
biên soạn muốn giới thiệu với bạn đọc, không có tham vọng giới
thiệu đầy đủ các nền văn hóa đó. ở đây chỉ xin giới thiệu những
nền văn hóa lớn có truyền thống hàng ngàn năm lịch sử và có
một ảnh hưởng nhất định đối với nền văn hóa thế giới. Đó là các
nền văn hóa:
5
- - Nền văn hóa dưới đáy Đại dương
- Nền văn hóa sông Nile - Ai Cập
- Nền văn hóa Hy Lạp
- Nền văn hóa La Mã
- Nen văn hóa Tây Á (bao gồm: văn hóa Lưỡng Hà, văn hóa
Babilon, văn hóa Assyria và Tây Babilon, văn hóa Phénicia, văn
hóa Palestine).
- Nền văn hóa sông Hằng - Ân Độ
- Nền văn hóa Trung Hoa
- Nền văn hóa Maya
- Nền văn hóa Aztec
- Nền văn hóa Andes
Nội dung cuổn sách khá phong phú đề cập nhiều vấn đề cốt
lõi của cội nguồn văn hóa, gồm những sự kiện lịch sử, nhân vật
ở cách thời đại chúng ta hàng ngàn năm lịch sử, lại diễn ra trên
một diện rộng khắp các châu lục, trong một thời gian rầt dài. Đây
sẽ là một khó khăn cho người biên soạn trong việc kiểm chứng
tư liệu. Do vậy sự thiếu sót sẽ là một điều không thể tránh khỏi.
Mong bạn đọc gần xa góp ỳ, để cho lần tái bản sau được tốt hơn.
Người biên soạn
6
- NGUỒN GỐC LOÀI NGƯỜI
l ẵ S Ụ SỐNG LÀ G /ễ*
Thế giới sinh vật tồn tại đến ngày nay trên trái đất
có khoảng từ 4 đến 10 triệu loài: Mỗi loài một vẻ, không
pha trộn và cũng không loại trừ lẫn nhau. Đến nay việc
phân loại sinh vật vẫn chưa đến hồi kết, bởi sự hiểu biết
con người ngày càng phát triển không ngừng. Mặt khác
đặc trưng của mỗi loài sinh vật vẫn chưa được khám
phá tường tận. Hơn nửa do tác động của nhiều nguyên
nhân và sự ảnh hưởng lẫn nhau của mỗi loài, mà mỗi
ngày lại sinh ra nhiều loài mới.
Với sự phát triển của khoa học, việc phân biệt các
sinh vật và các loài vô sinh không thể chỉ căn cứ vào
những tiêu chí mà con người đặt ra trong những thế kỷ
trước là sự hô hâp, sự sinh sản và sự vận động.
Đặc tính cơ bản của sinh vật là tính năng động. Và
từ khi trong vũ trụ có sinh vật, sự nặng động của sinh
vật đã làm cho thế giới ngày một đa dạng phong phú
hơn. Hơn nửa chỉ có sinh vật mới có khả năng sinh ra
7
- sự chênh lệch đối xứng. Trong những hoàn cảnh không
thuận lọi, chỉ có sinh vật mới có khả năng thoát khỏi
hoặc thích nghi để tồn tại và phát triển. Cũng chỉ có
sinh vật mói có khả năng hoạt động tự xức tác, tìm
kiếm, tổng hợp những chất mà cơ thể thiếu hoặc cần
phải có cho sự tồn tại và phát triển.
Bản thân cơ thể sinh vật, để hình thành và phát
triển, đòi hỏi nhiều thành phần hóa học, chủ yếu là các
họp chẩt của cacbon kết hợp vói oxy, hyđro và nitơ. Cơ
thể sinh vật cũng cần một lượng nhỏ kim loại như
nhôm, sắt, natri. Đặc biệt nước chiếm một lượng rất lớn,
có trường họp chiếm 85% trọng lượng cơ thể như cơ thể
con sứa. Trong khi silic là thành phần chủ yếu của
khoáng vật. Ngoài ra sinh vật còn khác khoáng vật ở
chỗ những yếu tô" tổng họp thành sinh vật được sắp xếp
thành phân tử như: đường, chất béo, axit am in o ... là
những phân tử đặc thù của sinh vật. Axit desoxyri
bonucleic, gọi tắt là ADN là phân tử đặc thù nhẩt tạo
nên nhiễm sắc thể trong cơ thể sinh vật, có thể tái sinh
và chứa đựng tất cả những thông tin cần thiết cho sự
sống. Phân tử này hình xoắn kép, xếp thành dãy tạo
nên mã di truyền.
2. N G U Ồ N GỐC S Ụ SỐNG
Đầu tiên người ta đi tìm nguồn gốc sự sống qua
thuyết tha sinh xuyên thiên thể để giải thích sự sống
trên trái đất bắt nguồn từ một hạt của một thiên thể nào
8
- đó, cho nên người ta đã dày công nghiên cứu từ những
thiên thạch "cháy thành than". Năm 1884, một thiên
thạch rơi xuống ở Organcil gần Toulouse, Pháp, qua
nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy thiên thạch
này chứa đầy hydrocacbua no, mà chất này thì không
thể tạo nên môi trường sống.
Từ những nghiên cứu mang tính khoa học, các nhà
học giả khẳng định rằng cần phải tìm nguồn gốc sự
sống ngay trên Trái Đất chúng ta - và họ cho rằng sự
sống bắt nguồn từ nước - thành phần cấu tạo chủ yếu
của cơ thể sống - do một phản ứng hoá học dây chuyền
phức tạp nào đây (như năng lượng bức xạ vũ trụ) trong
một môi trường khác hẳn hiện nay.
3ệ THỜI G IAN XUẤT H IỆN s ụ S ố N G
- Các nhà khảo cổ đã tìm thây ở Greenland, Đan
Mạch và Transvall, Nam Phi các hoá thạch sinh vật có
từ 3 - 8 tỷ năm tuổi... xuất hiện nhiều tảo mầu xanh
trên đá vôi, tạo thành lóp đá rêu, nhờ khả năng quang
họp lớn tạo nên khí oxy, đó là dạng sơ khai của sự hô
hấp. Các cơ thể này rất bé nhỏ chỉ khoảng dưới 60
micromet (phần triệu mét), những tế bào đơn giản
không có nhân.
Vào khoảng 1,45 tỷ năm xuất hiện cơ thể lớn hơn từ
100 - 600 micromet có nhân và có bào quan. Theo giáo
sư Linn Margulis, Trường Đại học Boston, Hoa Kỳ, thì
9
- các bào quan đó là do các tế bào không nhân, cộng sinh
với nhau tạo nên. Những thể hạt sinh ra vi khuẩn, các
thể viên sinh ra tảo và các tiên mao sinh loại vi khuân
trùng xoắn.
Các nhà khoa học cho rằng bên cạnh giới sinh vật
còn tồn tại tói ngày nay qua hàng tỷ năm biến hoá còn
có thêm 4 giói sinh vật nửa tách biệt han nhau:
- Giới nấm là loại thực vật thiếu diệp lụcỆ Có loại
nấm đơn bào như nấm men, đa bào như nấm gỗ.
- Giói thảo mộc gồm rêu, cây hình nón và thảo mộc
có hoa.
- Giới sinh vật đơn bào như amip, trùng roi, trùng
tia và các loại tảo nâu, tảo xanh, tảo đỏ...
- Giói động vật gồm động vật không xương sống,
động vật có xương sống và cả các loài khác nhau như:
san hô, bọt biển, giun, sâu, ròi.
Từ -570 đến - 240 triệu năm, thòi đại c ổ sinh, nhiều
nhóm động vật không xương sống và có xương sống
cùng xuâ't hiện. Động vật có xương sống đầu tiên xuất
hiện là loài cá không có hàm dưới, không có chi đại
diện là lóp miệng trên có 84 loài, có mang, sống dưới
nước như loài cá mút đá đã có 470 triệu năm tuổi.
Khoảng - 420 triệu năm có trên 5 loài cá cốt nơạnh
hoá thạch xu ất hiện với hàm, tiếp đó là các loài giáp
cứng, hiện nay là loài cá mập vóc dáng khổng lồ dà 1 6m
là đại diện còn lại.
10
- ít lâu sau khi đã có hàm, vây quanh miệng phát
triển thành răng. Vây cá từng đôi một cứng dần lên, trở
thành chi trước, chi sau vận động bằng cơ. Cũng có loài
cá có tai ở gần mang, giống như hai lá phổi thông vói 2
lỗ mũi bên ngoài, một đường cho nước mắt chảy ra -
loài cá này sống dưới n'ước, có 2 cách thở, bằng mang
hoặc bằng phổi, gọi là lưỡng phế.
Từ biển, cá bơi vào sông hồ để chinh phục đất liền.
Có loài cá trôi giạt lên cạn, mang không còn tác dụng,
thì hai túi ở bên cạnh có chức năng hấp thụ oxy, hydro,
nitơ trong không khí để tồn tại. Đó là loài cá lưỡng cư.
Loài lưỡng cư phát triển thành một lớp riêng đó là lóp
ếch nhái.
* Lớp bò sát
Khoảng - 290 lóp bò sát xuất hiện, nhưng sự xuất
hiện của chúng không đồng nhất. Ở kỷ Đại Trung sinh,
khắp nơi lớp bò sát phát triển rất mạnh. Bò sát sinh ra
loài chim và loài có vú. Sau này, hai loài tách ra, phân
hóa trở thành lóp riêng. Bò sát có vú xuất hiện đầu tiên
khoảng -280 triệu năm - Thằn lằn xuất hiện cách nay
230 triệu năm là dạng trung gian giữa bò sát và động
vật có vú.
Một điều chưa một ai giải thích thoả đấng là vào kỷ
Đại Trung sinh, loài bò sát trên cạn cũng như dưới
nước, đều có kích thước khổng lồ dài khoảng 20 - 30
mét, bò sát có cánh, sải cánh dài 27 mét. Đến cuối kỷ
11
- Đại Trung sinh (cón gọi là kỷ Phấn trăng), cách nay
khoảng 65 triệu năm, các cổ sinh vật khổng lô như thăn
lằn khủng khiếp, thằn lằn bạo chúa, khủng long, và
hàng nghìn loài khác, kể cả thực vật dưới biển, trên đât
liền bị chết đồng loạt trong một khoảng thòi gian ngắn.
Qua các nghiên cứu về các tầng lớp đất đá cổ ở thời kỳ
này người ta thấy lượng iridi (kim loại nặng rất độc hại)
chiếm tỷ lệ rất cao. Phải chăng do ảnh hưởng của núi
lửa hay một thiên thạch khổng lồ nào đó va chạm trái
đất phát ra năng lượng cực mạnh với nhiều mảnh vỡ
lớn và đang che lấp ánh sáng mặt trời hay do mưa axit
giết chết tất cả trứng của loài bò sát khổng lồ trên mặt
đất, trừ loài có vứ mang thai trong bụng, các con vật
sống sâu dưới đáy nước, các loài cá sấu, rùa đẻ trứng
vùi sâu dưới cát. Và chỉ còn một số loài chim là sống sót
để bước vào kỷ thứ 3, dưới 60 triệu năm trở lại nay.
* Lớp chim và lớp có vú
Giữa kỷ Đại Trung sinh còn gọi kỷ Jura, trên 100
triệu năm, lớp chim và lóp có vú xuất hiện, nhưng sang
kỷ 3, cách nay 60 triệu năm thì các loài chim và động
vật có vú phát triển mạnh, có lẽ do câu tạo cơ thể nên
thoát được thảm hoạ thiên nhiên cuối kỷ Đại Trung
sinh (ở thòi kỳ này 60 - 70% loài vật sống ở biển và
hàng nghìn giống loài ở lục địa bị tiêu diệt). Các giông
loài chim tồn tại đến ngày nay phần lớn xuất hiện từ kỷ
thứ 3 - Muộn nhất là loài chim sẻ, cũng có từ cách nav
12
- 20 triệu năm. Các loài chim khổng lồ nay không còn.
Loài chim voi lớn nhất hiện nay tìm thấy ở Madagasca
có chiều cao 3 mét.
Hai đặc điểm nổi trội của động vật có vú là răng có
nhiều loại khác nhau, chức năng khác nhau. Căn cứ vào
phương thức sinh sản, các nhà khoa học chia lớp có vú
thành 3 nhóm lớn:
- Nhóm đơn huyết: là nhóm nguyên thu ỷ nhất, hiện
còn sống ở Australia. Loài này đẻ trứng.
- Nhóm túi đẻ ấu trùng, tiếp tục phát triển trong
một cái túi ở bụng. Trước đây nhóm này có mặt ở khắp
nơi, nhưng có lẽ do sức ép của nhóm có vú, mang thai
bụng và nuôi thai bằng nhau thai, cho nên nhóm có túi
bị mai một dần.
* Nhóm có nhau thai: là nhóm có nhiều hơn cả. Sau
khi thụ thai, thai tiếp tục phát triển trong tử cung, có
nhau bao quanh làm nhiệm vụ nuôi thai và loại bỏ chất
thải. Khi sinh, con còn non đã có thể hoàn chỉnh được
nuôi bằng sữa mẹ.
Động vật có vú xuất hiện vào kỷ Đại Trung sinh, nói
chung cơ thể thấp bé, nhưng ở kỷ 3, thì những động vật
có vú sống trên cạn có kích thước to lớn như con
Baluchitherium, có họ vói loài tê giác cao gần 7 mét từ
vai đến chân, và một số chim khổng lồ, nhưng đã tuyệt
chủng do khí hậu lạnh dần từ thế kỷ 3.
* Bộ linh trưởng: Linh trưởng gồm 200 loài, nhưng
13
- cũng không đông lắm so vói các loài khác trong lớp
động vật có vú. Nhưng tiến hoá nhất và quan trọng
nhất ở chỗ trong bộ linh trưỏng có họ người, trình độ phát
triển cao hơn hẳn các động vật khác, cơ thể tinh vi phức tạp
với những khả năng kỳ diệu mà tói nay con người văn
minh hiện đại chúng ta vẫn chưa khám phấ hết.
Bộ linh trưởng thuộc lóp động vật có vú, đi trên gan
bàn chân, có những đặc điểm sau:
- Thần kinh sọ não phát triển so với khối mặt tương
đối nhỏ, mõm mất dần.
- Hai hốc mắt phía trước xa vùng thái dương, liền
với xương trán, có gò bao quanh. Thị giác phát triển,
phân biệt được chiều nông, sâu, cao, thấp, trước sau của
các đồ vật trước mặt, rất thích hợp vói cuộc sống trong
lùm cây rậm rạp vùng rừng nhiệt đới. Khứu giác, xúc
giác kém phát triển so vói các động vật khác.
- Bộ răng hoàn chỉnh, từng đôi một, nhiều kiểu bao
gồm răng cửa, răng nanh, răng hàm,... vói những chức
năng khác nhau như: cắn, xé, nghiền... Hàm dưới cử
động theo chiều thẳng đứng, thích hợp với cách ăn thực
vật, rau quả, củ...
- Cột sống có 26 đến 33 phần tử không kể đốt đuôi.
Tuỳ loài mà có đuôi dài hoặc ngắn, thậm chí có loài
đuôi thoái hoá cụt hẳn...
- Xương đòn có vai trò quan trọng (có một số động
vật có vú không có xương đòn) đỡ hai chi trên.
14
- - Xương chậu phát triển theo hình thang đỡ hai chi
dưới. Đầu các chi có 5 ngón cử động dễ dàng, thuận
tiện cho việc trèo, di chuyển bằng cách bấu víu chặt các
cành cây rồi đánh đu sang cành khác. Ngón cái to hon
các ngón khác. Riêng ngón tay cái có thể chụm được
vào trong các ngón khác.
- Khối xương cổ tay có 9 xương. Trong đó có xương
đậu và xương giữa, xương thuyền và xương vừng trăng
tách rời nhau; xương trụ và xương quay cử động riêng
rẽ, khiến bàn tay có thể úp ngửa dễ dàng. Ở cẳng chân,
xương ông quyển và xương mác tách rời nhau. Vuốt ở
đầu tứ chi mất dần chức năng tự vệ thay bằng móng có
vai trò bảo vệ các đầu chi.
Vú của loài động vật có vú thường có một cặp vú
trước ngực; tử cung đơn giản, có hai vòi. Nhau thai
hình đĩa, cùng phát triển song song với thai, có chức
năng hấp thụ thức ăn để nuôi thai và lọc thải châ't bã
của thai.
Các con linh trưởng đầu tiên xuất hiện cách nay 70
triệu năm. Môi trường sống của chúng là những rừng
cây, đồng cỏ.
Linh trưởng đầu tiên được các nhà khảo cổ học và
cổ sinh vật biết đến con linh trưởng đầu tiên là con
Purgatorius. sốn g cùng thòi với loài khủng long, ở cuối
kỷ Phân trắng. Hoá thạch của nó tìm thẩy ở thung lũng
Purgatoire bang Montana, Mỹ. Tuy chỉ có 44 răng còn
lại, trong đó có 3 răng cửa, 1 răng nanh và 4 răng hàm
15
- nhỏ. Con linh trưởng hoá thạch purgatorius được các
nhà khảo cổ và cổ sinh vật học xếp vào nhóm
Plesiadapiforme, đại diện là con plesiadapis - hoá
thạch tìm thấy ở Cernay gần Reims (Pháp) sống ở đầu
kỷ 3 thuộc châu Âu, Bắc Mỹ, thân hình bé nhỏ, hốc mắt
liền với hố thái dương, vuốt ở đầu chi, chưa biến thành
móng, bộ răng đã hoàn chỉnh, chứng tỏ thức ăn đa
dạng. Nhóm Plesiadapiforme được các nhà khoa học
gọi là bán linh trưởng (Peneprimates) - Đến đầu đời
Êoxen, cách nay khoảng 50 đến 55 triệu năm trên lục
địa cổ Laurasie (bao gồm Bắc Mỹ, châu Âu - châu Á lúc
đó còn liền nhau xuất hiện nhóm Adapiforme đại diện
là con Adapisparisiensis - hóa thạch tìm thấy ở đồi
Monmartre vào năm 1882, nhưng phải 80 năm sau đến
đầu thế kỷ XX, các nhà khoa học mới thừa nhận là linh
trưởng. Ở Bắc M ỹ người ta cũng tìm thấy con Notharcus
đều là những con linh trưởng chính tông đi 4 chân, di
chuyển bằng cách nhảy từ cành này sang cành khác.
Riêng con Sivaladapis còn sống ở các miền nhiệt đới
của An Độ đến cuối thời Mioxen cách nay 10 triệu năm
phần lớn thuộc loài Adapiformes bị diệt vong vào thời
kỳ băng hà cuối thời Êoxen, cách nay 40 triệu năm,
không được xếp vào loại linh trưởng. Nhưng nhiều nhà
khoa học lại cho rằng giông vượn cáo (Lemuriformes)
hay còn gọi là khỉ bậc thâp (prosimiens) là hậu duệ của
con Sivaladapis, nhưng vẫn còn nhiều tranh luận bởi lẽ
chưa xác định được niên đại rõ ràng. Hơn nữa giống
vượn cáo gốc gác châu Phi nhưng tói nay chưa tìm thấy
16
- hóa thạch nào của con Adapis ở Phi châu cả. Người ta
chỉ mói biết giống vượn cáo Lemuriformes xuất hiện ở
miền Đông Phi vào giữa thời Miôxen cách nay 15 triệu
năm sau khi các con Adapiformes đã bị diệt vong.
Trong giống vượn cáo này còn có loài cu li
(Lorisidae) thường sống ở châu Phi, Nam Á và ở
Madagasca. Ngày nay chúng luôn luôn bị đe doạ tuyệt
chủng, bởi nạn phá rừng. Nhưng cách nay vài nghìn
năm chúng đã trải qua một quá trình tiến hoá đáng
kinh ngạc. Qua bộ sưu tập xương hóa thạch của loài
vượn cáo Madagasca cho thấy chúng phát triển cao hơn
cả những con khỉ châu Phi thực thụ. Đó là các con
Megaladapis hoá thạch rất giống gấu con hay con
Palacopropithecus có xương sống đang phát triển gần
vói loài khỉ.
Cùng với giống vượn cao câp Lemuripormes, trong
phân bộ khỉ bậc thấp prosimiens có con phủ hầu
Tarsier sống ở một số đảo thuộc vùng Đông Nam Á,
hiện còn nhiều ở Indonesia, chỉ to bằng con chuột cống,
đuôi dài không có lông, sống bám vào thân cây hoặc
các cành thẳng đứng, di chuyển bằng cách nhảy rất
nhanh và dài, do khối xương cổ chân dài và khoẻ. Mắt
to, dễ nhìn ban đêm. Loài phủ hầu rất gần với
O momyidae có ở châu Âu và Bắc Mỹ vào thời Êoxen
cách nay 50 triệu năm cùng thời với giống
Plesiadapiformes. Phần lớn loài Om om yidae cũng
không sông được qua thời Êoxen, ngoại trừ con
17
- Ekgmowechashala, xương hóa thạch của nó tìm thây ở
Bắc Mỹ có niên đại cách nay 30 triệu năm, thời
Ổligôxen.
Về nguồn gốc của con phủ hầu Tarsier, người ta cho
rằng nó là láng giềng với loài pseudoloris xuât hiện ở
Tây Âu đầu thời Êoxen. Theo nhà động vật học tiêu
biểu R. I. Pocock thì con phủ hầu Tarsier có nhiều đặc
trưng gần với loài khỉ chính tông (Euprimate). Cùng
với loài Omonyidae nó tạo thành giông phủ hầu.
Tarsiiformes có nhiều đặc trưng tiến hoá hơn các linh
trưởng khác phải được xếp với loài khỉ simiens trong
một nhóm chung gọi là linh trưởng mũi bình thường
(Haplorhini), còn giống vượn cáo Lemuriformes và
giôVig Adapiformes thuộc nhóm linh trưởng mũi xoắn
(Strepsirhini), mũi dài hơn, có nhiều tuyến nhờn, môi
trên tách khỏi mũi, trong khi nhóm linh trưởng mũi
bình thường, môi trên liền vói mũi, vùng giữa lỗ mũi
khô ráo, có lông, không có tuyến nhờn.
Tuy nhiên cách phân loại như trên còn gây ra tranh
cãi chưa đi đến hồi kết. Mới đây, năm 1996, nhà động
vật học và phân loại học nổi tiếng Schwartz đã cân nhắc
cách lập luận khác nhau, kết họp nguyên tắc phân loại
và nguyên lý phát sinh giống loài để đi đến kết luận trở
lại cách phân loại cũ là chia ra bộ phận tiền khỉ
prosimiens (hay còn gọi là linh trưởng hạ đẳng), có m ở
rộng thêm giống phủ hầu Tarsius gồm giông vượn cáo
18
- Lemuriformes, giống cu li Loriiformes và phân bộ khỉ
chính tông simiens vói tên gọi Anthropodea.
* Phân bộ khi Sỉmiens (Simiiformes hay Anthro-
podea)
Gồm các loài khỉ chính tông xuất hiện cách nay
khoảng 50 triệu năm với con Pondaungia và
Amphipithecus sống vào đầu thòi Êoxen ở Mianma,
muộn hơn có giống Parapithécidés (hoá thạch tìm thây
ở Fayoum gần thủ đô Cairo, Ai Cập) với các con
Qatranỉa, Apidium và Parapithecus sống cách nay 35 - 32
triệu năm thời Ôligôxen. Tuy không khẳng định chúng
có phải là tổ tiên của giống khỉ châu Phi không nhưng
các nhà khoa học cho rằng chúng rất gần gũi với giôVig
Khỉ mũi tẹt (Platyrhiniens) với các đặc trưng sau: hai lỗ
mũi nằm cách xa nhau, nhưng thẳng ra phía trước,
ngón tay cái không hoàn toàn chụm vào 4 ngón khác,
đuôi phát triển và nắm được, làm nhiệm vụ bàn tay thứ
năm. Khi mũi tẹt - hoá thạch lâu đòi nhất là con
Branisella tìm thây ở Bolivia, có niên đại khoảng 35 triệu
năm. Khỉ mũi tẹt, ngoài Nam Mỹ ra, không thây có ở
đâu cả và cho tới nay cũng chưa tìm thây hoá thạch có
niên đại lớn hơn Branisella. Theo R. Hoffstetter, người
phát hiện ra Pranisella thì khỉ mũi tẹt từ châu Phi vượt
Nam Đại Tây Dương, trên những chiếc bè kết tự nhiên
bằng các cành hay các thân cây. Các hải lưu thời đó
không thuận lợi cho việc vượt biển theo hướng Nam -
Bắc, ngược lại thuận lợi cho hướng Đông - Tây.
19
- Khỉ mũi dưới (Catarhimiens) có đặc trưng là hai lô
mũi gần nhau, hướng lên trên hoặc dưới, hàm trên
không có răng hàm nhỏ (chỉ có 32 răng), răng hàm nhỏ
ở dưới tạo với răng nanh ở trên thành hai mũi kéo giao
nhau; ở các đầu chi, móng bẹt thay dần vuôt nhọn,
không có đuôi hoặc đuôi ngắn, không nắm được, ngón
tay cái hoàn toàn chụm vào 4 ngón tay khác. Khỉ mũi
dưới có niên đại lâu đời nhất là 35 triệu năm. Các hoá
thạch khỉ mũi dưới tìm thấy ở Đông Phi, Bắc Phi và
châu Âu có niên đại cách hoá thạch Fayọum gần chục
triệu năm. Cách nay hơn 20 triệu năm thời Miôxen, khỉ
mũi dưới đã chia thành hai họ lớn: Họ khỉ đuôi
Cercopithecoidea và họ khỉ dạng người Hominoidea.
Khỉ Cercopithecus có răng hàm trên giống răng
hàm dưới với các núm rất khớp nhau, răng nanh hàm
trên tạo vói răng hàm nhỏ phía dưới thành hai mũi kéo
rất sắc nhọn như một vũ khí lợi hại. M ột số loài khỉ
đuôi sông trên cây, nhưng cũng có một số loài sống trên
mặt đất, với đôi chân di chuyển chậm chạp. Thức ăn
phong phú, một phần còn giữ lại ở hai bên túi má trước
khi nhai. Gan và dạ dày đơn giản hơn. Khỉ đuôi hoá
thạch có niên đại sớm nhât là 16 - 18 triệu năm , được
tìm thây ở hô Victoria (Kenya), Đông Phi, với tên gọi
Victoriapithecus và tìm thây ở Bắc Phi được đặt tên là
Prohylobates...
Họ khỉ dạng người (Hominoidea) gồm tâ^t cả khỉ
mũi dưới, trừ khỉ đuôi Cercopithecus và O reopithecus
20
- Ngày nay đại diện cho họ khỉ này chỉ còn các loài khỉ
châu Á không đuôi Gibbon, loài đười ươi Orang Outan,
loài hắc tinh tinh Chimpanze, loài khỉ Gorila và loài
Người chúng ta. Nhưng khoảng 15 triệu năm trước đây
vào thời Miôxen, chúng có đến 10 loài khác nhau. Đặc
trưng của khỉ dạng người Hominoidea khác khỉ đuôi
Cercopithecoidea ở chỗ tuy vẫn sống trong rừng rậm
rạp nhưng chúng không di chuyển chậm chạp bằng 4
chân như khỉ có đuôi mà di chuyển theo chiều ngang
đánh đu từ cành này sang cành khác, do đó hai chi trên
dài và khoẻ có thể nâng cả trọng lượng cơ thể, ngực nở,
xương bả vai gắn liền với lưng, khớp xương cánh tay
khoẻ hơn, cổ tay vận động mềm dẻo hon, nhưng khuỷu
tay co ra co vào vững chắc và dứt khoát hơn. Xương trụ
ở cánh tay, không dính liền với khối xương cổ tay, nên
bàn tay có thể úp xuông, ngửa lên dễ dàng. Xương chậu
rộng ra và ngắn lại cũng như hai chi dưới, đuôi có xu
hướng cụt dần rồi biến mất. Bộ não phát triển, cánh kéo
giữa răng nanh và hàm trên và răng hàm nhỏ ở hàm
dưới không sắc cạnh như ở khỉ đuôi. Núm răng bớt
nhọn, không tạo thành những đỉnh theo chiều ngang
như ở khỉ đuôi.
Giống khỉ dạng người Hominoidea cổ xưa nhất là
con khỉ rừng rậm Dendropithecus sống vào cuối thời
Miôxen (cách nay 20 triệu năm), ở miền Đông Phi có
nhiều điểm giống khỉ châu Á không đuôi Gibbon, thân
hình không to lớn với hai chi trước nhỏ nhắn hơn. Loài
khỉ Pliopithecus sống vào giữa thời Miôxen ở châu Âu
21
nguon tai.lieu . vn