Xem mẫu

CHƯƠNG 8

CỔ PHIẾU KIỂM SOÁT
“Chúng ta không muốn hoạt động chỉ vì để hoạt động cho có.
Nếu mọi thứ không có gì thay đổi, tôi thà để người khác làm
thay. Tuy nhiên, khi cần một vai trò chủ động để tối ưu hóa việc
sử dụng vốn, mọi người có thể chắc rằng chúng ta không đứng
trong cánh gà.”
− NGÀY 20 THÁNG 1 NĂM 1966
ãy tưởng tượng có một nhóm ông già bụng phệ đang đóng vai
trò các thành viên hội đồng quản trị của một công ty đại chúng
nhỏ vào cuối những năm 1950. Nhóm người này đang tập trung
lại để thảo luận và rà soát lại việc kinh doanh (một mô tả khái quát
các hoạt động của họ). Họ thấy việc kinh doanh đó khá thú vị, đủ đơn
giản để quản lý, dễ dàng để hiểu và không ai đặt ra quá nhiều câu hỏi
hay tạo ra quá nhiều công việc thêm. Hơn nữa, họ tự trả lương cho
mình một cách rất hào phóng. Mức giá trả cho các cổ đông nằm dưới
trong danh sách ưu tiên, đấy là trong trường hợp nó được cho vào
danh sách ưu tiên. Vì thế, mọi thứ đột ngột thay đổi khi họ biết rằng
một người mà họ chưa bao giờ nghe tới đã thu mua 20% cổ phiếu lưu
hành và giờ nắm quyền kiểm soát 20% công ty. Gã này là ai? Mục đích
của hắn là gì khi kiểm soát đủ số cổ phần để có tiếng nói quan trọng
trong hoạt động của công ty?
Đây là viễn cảnh tôi thích tưởng tượng vào lúc khởi đầu một loạt
sự kiện của Sanborn Map, khoản đầu tư Kiểm soát đầu tiên của Công
ty Hợp danh. Hãy tưởng tượng về phản ứng của đội ngũ hội đồng
quản trị khi Buffett xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1959. Họ hẳn phải
sốc ít nhất là hai lần: lần đầu tiên khi họ gặp Buffett, khi đó chàng trai
trẻ của chúng ta vẫn chưa bước sang tuổi ba mươi, và một lần nữa khi
Buffett yêu cầu một phần danh mục đầu tư chứng khoán khổng lồ của
Sanborn, mà chỉ riêng từng đó đã có giá trị 65 đô la một cổ phiếu
(ròng), nhiều hơn giá trị thị trường của cổ phiếu cả công ty 20 đô la.

Không có gì nghi ngờ rằng những ông bạn ở Sanborn chẳng biết họ
đang phải đối đầu gì với Buffeet… lúc ban đầu. Và họ sẽ sớm tìm ra
thôi.
Dưới đây là câu chuyện đầy đủ từ bức thư của Buffett ngày 30
tháng 1 năm 1961. Khi đọc bức thư này, có hai điều bạn phải luôn nhớ
trong đầu: Thứ nhất, đây là một công ty rất nhỏ. Tài sản ghi trên sổ
sách chỉ có 4,3 triệu đô la, hay 35 triệu đô tính theo giá trị đồng tiền
năm 2015. Thứ hai, Buffett đầu tư hơn một phần ba trong khoản đầu
tư của Công ty Hợp danh vào cổ phiếu này.

Ví dụ của BPL: Công ty Sanborn
Map
NGÀY 30 THÁNG 1 NĂM 1961
Năm ngoái tôi có nhắc tới một khoản đầu tư chiếm tỉ trọng lớn và
bất thường (30%) trong giá trị tài sản ròng của chúng ta với bình luận
rằng tôi hy vọng khoản đầu tư này sẽ được chốt vào năm 1960. Mong
ước này đã trở thành hiện thực. Lịch sử của món đầu tư ở mức độ
này có thể gây hứng thú với các anh.
Công ty Sanborn Map là công ty làm việc trong ngành xuất bản và
liên tục sửa đổi các bản đồ vô cùng chi tiết của tất cả các thành phố
trên khắp nước Mỹ. Ví dụ thế này, khối lượng bản đồ Ohama có thể
nặng khoảng năm mươi pound (xấp xỉ 22,67 kg) và cung cấp từng chi
tiết nhỏ trong mỗi công trình cấu trúc. Bản đồ được sử đổi bởi
phương pháp vẽ chồng lên, cho thấy những công trình mới, những
nơi cư trú đã thay đổi, các cơ sở phòng cháy chữa cháy mới, vật liệu
cấu trúc thay đổi, v.v. Các bản sửa đổi sẽ được thực hiện hầu như
thường niên, và cứ mỗi hai mươi hoặc ba mươi năm sẽ có một bản đồ
mới được xuất bản, khi mà không thể vẽ chồng lên được nữa. Chi phí
để sửa đổi bản đồ cho một khách hàng ở Ohama rơi vào khoảng 100
đô la mỗi năm.

Các thông tin chi tiết này bao gồm đường kính ống dẫn nước
dưới lòng đất, vị trí vòi nước cứu hỏa, kết cấu mái nhà, v.v. chủ yếu
sử dụng cho các công ty bảo hiểm phòng cháy. Phòng phát hành bảo
lãnh của họ nằm ở văn phòng trung tâm, có thể định giá doanh
nghiệp bởi các đại lý trên khắp đất nước. Lý thuyết là một bức hình
giá trị bằng cả nghìn lời, và việc định giá như vậy sẽ quyết định xem
rủi ro có được đánh giá đúng mức không, mức độ khả năng cháy nổ
tại một khu vực, thủ tục tái bảo hiểm hợp lý, v.v. Phần lớn việc kinh
doanh của Sanborn được thực hiện với khoảng ba mươi công ty bảo
hiểm, mặc dù bản đồ cũng được bán cho các khách hàng ngoài ngành
bảo hiểm như các công ty cơ sở hạ tầng công cộng, các công ty cho
vay thế chấp, và các cơ quan thuế.
Trong vòng bảy lăm năm, doanh nghiệp hoạt động gần như theo
cách thức độc quyền, với lợi nhuận mỗi năm thu về miễn nhiễm gần
như tuyệt đối với suy thoái kinh tế và không có bất cứ nhu cầu nào
phải nỗ lực bán hàng. Trong những năm đầu doanh nghiệp hoạt
động, ngành công nghiệp bảo hiểm sợ rằng lợi nhuận của Sanborn có
thể quá lớn nên đã cắt cử một số nhân lực có tài bên ngành bảo hiểm
qua đảm nhiệm vai trò trong hội đồng quản trị của Sanborn, với tư
cách giám sát.
Vào đầu những năm 1950, một phương pháp cạnh tranh trong
bảo lãnh được gọi là “carding(57)” đã ảnh hưởng lớn tới tình hình
kinh doanh của Sanborn và lợi nhuận sau thuế của việc kinh doanh
bản đồ sụt giảm từ mức trung bình năm trên 500.000 đô la vào cuối
những năm 1930 xuống dưới 100.000 đô la trong năm 1958 và 1959.
Xét chiều hướng đi lên của nền kinh tế trong thời kỳ này, điều này
chẳng khác gì mất đi toàn bộ khả năng sinh lời có quy mô lớn và ổn
định.
Tuy nhiên, trong những năm đầu 1930, Sanborn đã bắt đầu xây
dựng tích lũy một danh mục đầu tư. Không có yêu cầu vốn nào đối
với việc kinh doanh nên lợi nhuận giữ lại(58) có thể dành cho dự án
này. Qua thời gian, khoảng 2,5 triệu đô la đã được đầu tư, khoảng
một nửa đầu tư vào trái phiếu, một nửa vào cổ phiếu. Vì vậy, đặc biệt
trong một thập kỷ vừa qua, danh mục đầu tư đã thành công trong khi
việc kinh doanh bản đồ suy yếu.
Hãy để tôi nói qua cho mọi người một chút về chiều hướng ngược

nhau của hai yếu tố này. Vào năm 1938, khi Chỉ số trung bình công
nghiệp Dow-Jones nằm trong khoảng 100-120, Sanborn bán cổ phiếu
với giá 110 đô la một cổ phiếu. Năm 1958, với chỉ số trung bình nằm
trong khoảng 550, Sanborn bán cổ phiếu với giá 45 đô la một cổ
phiếu. Cũng trong cùng khoảng thời gian đó, giá trị danh mục đầu tư
của Sanborn tăng từ khoảng 20 đô la một cổ phiếu lên tới 65 đô la
một cổ phiếu. Trên thực tế, điều này nghĩa là, người mua cổ phiếu của
Sanborn năm 1938 đang định giá tích cực ở mức 90 đô la một cổ
phiếu cho việc kinh doanh bản đồ (110 đô la trừ đi 20 đô la khoản đầu
tư không liên quan tới kinh doanh bản đồ) trong một năm kinh
doanh suy thoái và điều kiện thị trường chứng khoán trì trệ. Vào năm
1958 khi diễn biến thị trường còn dữ dội hơn nhiều, cũng chính việc
kinh doanh bản đồ đó được định giá ở mức âm 20 đô vì người mua
cổ phiếu không sẵn sàng trả thêm 70 xu cho những đồng tiền trong
danh mục đầu tư của họ trong khi mảnh kinh doanh bản đồ là cho
không.
Làm thế nào chuyện như vậy lại xảy ra? Sanborn năm 1958 cũng
như 1938 đều sở hữu nguồn tài nguyên thông tin có giá trị vô cùng
lớn đối với ngành bảo hiểm. Để làm lại những thông tin chi tiết họ đã
thu thập qua hàng năm trời sẽ phải mất đến hàng chục triệu đô la. Bất
chấp “carding”, 500 triệu đô la phí bảo hiểm cháy nổ đã được bảo
lãnh bởi các công ty “bản đồ”. Tuy nhiên, phương pháp bán, đóng gói
sản phẩm của Sanborn, và các thông tin vẫn giữ nguyên không đổi
suốt cả năm và cuối cùng sự trì trệ này đã được phản ánh qua lợi
nhuận thu về.
Sự thật rằng danh mục đầu tư đã đem lai những kết quả rất tốt,
khiến trong con mắt của hầu hết các thành viên hội đồng quản trị,
nhu cầu làm sống lại việc kinh doanh bản đồ giảm thiểu tới mức nhỏ
nhất. Sanborn có lượng bán hàng khoảng 2 triệu đô la mỗi năm và sở
hữu lượng chứng khoán khả mại với giá trị 7 triệu đô la. Thu nhập có
được từ danh mục đầu tư là rất đáng kể, công ty chẳng có gì phải lo
lắng về tài chính nữa, các công ty bảo hiểm hài lòng với mức giá họ
trả để mua bản đồ, và các cổ đông thì vẫn nhận được cổ tức. Tuy
nhiên, khoản cổ tức này đã bị cắt giảm khoảng năm lần trong vòng
tám năm, mặc dù tôi không thể tìm thấy bản ghi chép nào liên quan
tới việc cắt giảm mức lương hay chi phí cho hội đồng quản trị và các
ủy ban.
Trước khi tôi tham gia vào hội đồng quản trị, trong số mười bốn

thành viên có chín người là những nhân vật xuất sắc từ ngành bảo
hiểm, họ nắm giữ tổng 46 cổ phiếu trong số 105.000 cổ phiếu đang
lưu hành. Bất chấp những người này nắm giữ các vị trí đứng đầu
trong nhiều công ty lớn, thể hiện tình hình tài chính mà hoàn toàn có
khả năng tối thiểu mua cổ phiếu mức độ ở vừa phải, thì người nắm
giữ nhiều nhất trong số họ cũng chỉ có mười cổ phiếu. Trong một vài
trường hợp, các công ty bảo hiểm mà những người này điều hành,
cũng sở hữu một khối lượng nhỏ cổ phiếu, nhưng đây chỉ là khoản
đầu tư tượng trưng so với các danh mục đầu tư họ nắm giữ. Suốt một
thập kỷ qua, các công ty bảo hiểm là những người bán duy nhất trong
bất kỳ giao dịch nào liên quan tới cổ phiếu của Sanborn.
Vị thành viên hội đồng quản trị thứ mười là luật sư của công ty,
nắm giữ mười cổ phiếu. Vị thứ mười một là một giám đốc ngân hàng
với mười cổ phiếu, người nhận ra và chủ động chỉ ra các vấn đề của
công ty và rồi sau đó bổ sung thêm vào cổ phần nắm giữ của mình.
Hai vị thành viên hội đồng quản trị tiếp theo là các viên chức cấp cao
của Sanborn sở hữu tổng 300 cổ phiếu. Hai nhân viên cấp cao này là
những người có năng lực, ý thức được những vấn đề của công ty,
nhưng vai trò của họ không được hội đồng quản trị coi trọng. Thành
viên cuối cùng của hội đồng là con của một vị chủ tịch đã qua đời của
Sanborn. Người góa phụ sở hữu 15.000 cổ phiếu công ty.
Vào cuối năm 1958, người con, không lấy làm vui với hướng đi
của doanh nghiệp, đòi được nắm vị trí đứng đầu trong công ty, nhưng
bị từ chối. Anh nộp đơn từ chức và được chấp thuận. Ngay sau đó,
chúng ta gửi chào giá cho người mẹ để mua lại số cổ phần đó và được
bà chấp nhận. Vào thời điểm ấy, có hai khoản nắm giữ cổ phần lớn,
một là khoản khoảng 10.000 cổ phiếu (phân tán giữa các khách hàng
của một hãng môi giới) và một khoản khoảng 8.000 cổ phiếu. Những
người này không bằng lòng với tình trạng công ty và muốn có sự tách
biệt danh mục đầu tư khỏi việc kinh doanh bản đồ, và chúng ta cũng
vậy.
Sau đó số cổ phiếu nắm giữ của chúng ta (bao gồm cả của các
cộng sự) tăng lên qua mua bán trên thị trường mở, lên tới 24.000 cổ
phiếu và tổng số cổ phiếu của ba nhóm trên tăng tới 46.000 cổ phiếu.
Chúng ta hy vọng có thể tách riêng hai việc kinh doanh, thu về giá trị
hợp lý của danh mục đầu tư và hành động để xây dựng lại khả năng
sinh lời của việc kinh doanh bản đồ. Ở đây dường như vẫn còn cơ hội
thực sự để tăng lên gấp nhiều lần lợi nhuận kinh doanh bản đồ qua

nguon tai.lieu . vn