Xem mẫu

Thông tin ebook
Hồi Ký Nguyễn Hiến Lê
Nguồn: ethuvien và wordpress
Đây là bản đầy đủ nội dung, bao gồm cả 6 chương thiếu mà NXB đã bỏ đi trong những lần tái bản.
Tạo và hiệu chỉnh ebook: Hoàng Nghĩa Hạnh
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com

Vài lời thưa trước
Cuốn Hồi kí Nguyễn Hiến Lê, bản của nhà Văn hoá in năm 1993 gồm:
- Lời nhà xuất bản.
- Vài nét về học giả Nguyễn Hiến Lê của Nguyễn Q. Thắng (Tôi tạm lược bỏ bài này).
- Lời nói đầu của tác giả.
- 33 chương (Nhà xuất bản tạm lược bỏ lại 6 chương XXI, XXII, XXIV
, XXX, XXXI và XXXII),
chia làm 6 phần.
- 3 phụ lục.
Trong khi gõ cuốn Hồi kí này, khi gặp những chỗ ngờ sai, tôi thường đối chiếu với cuốn Đời viết văn
của tôi (Nxb Văn hoá – Thông tin, năm 2006, về sau gọi tắt là ĐVVCT), nếu sai tôi sẽ châm chước sửa lại
mà phần lớn không chú thích để khỏi rườm. Ví dụ đoạn sau đây: “Trong bộ Đại cương Văn học sử Trung
Quốc, chỉ có một số ít bài do tôi dịch, mà toàn là những bài dễ, còn hầu hết đều do một ông bác tôi dịch
cho và kí tên là Vô danh. Như thơ cổ phong loại “từ” một thể thơ và loại thơ mới của Trung Hoa thì tôi có
thể dịch được vì không bị trói buộc vào niêm luật” (tr.403). Câu cuối của đoạn trên, trong ĐVVCT in là:
“Nhưng thơ cổ phong loại “từ” (một thể thơ) và loại thơ mới của Trung Hoa thì tôi có thể dịch được vì
không bị trói buộc vào niêm luật” (tr.168), nên tôi châm chước sửa lại câu cuối đó thành: “Như thơ cổ
phong loại “từ” (một thể thơ) và loại thơ mới của Trung Hoa thì tôi có thể dịch được vì không bị trói buộc
vào niêm luật”.
Còn hai chữ “đệ tứ” trong câu “Nhóm đệ tứ Triều Sơn, Thế Húc, Tam Ích, Thiên Giang cũng viết ít
bài phê bình có tư tưởng xã hội, sau in thành vài tập mỏng; Triều Sơn viết khá hơn cả, nhưng chết sớm”
(tr.426), tôi vẫn giữ nguyên mặc dù trong ĐVVCT in là “đệ tử” (tr.199) vì tôi đoán “đệ tứ” ở đây có nghĩa
là “Đệ tứ Quốc tế”, còn gọi là “Đệ tứ Cộng sản”.
Ở một số chỗ, tôi cũng phải chép đúng theo Hồi kí như câu sau đây trong đoạn nói về cuốn Sống đẹp,
nguyên tác của Lâm Ngữ Đường: “Mấy năm sau tôi thấy ở nhà xuất bản Á Châu một bản Việt dịch hình như
của Vũ Bằng…” (tr.466); nhưng tôi phải ghi thêm chú thích vì trong ĐVVCT lại cho biết tên bản Việt dịch
là Lạc thú ở đời và người dịch lại là Trình Xuyên (tr.248).
Tôi cũng đưa vào chú thích một số đoạn có trong ĐVVCT nhưng không có trong Hồi kí. Ngoài ra tôi
cũng chú thích vài chỗ khác biệt mà tôi không có điều kiện để kiểm tra xem cuốn nào in đúng, ví dụ như
ngày mất của cụ Phương Sơn, bác ba của cụ Nguyễn Hiến Lê, trong Hồi kí ghi: “Đầu tháng giêng năm
1960, ngày 11 tháng chạp năm Kỉ Hợi, tôi ở Sài gòn được điện tín người qui tiên”, nhưng trong ĐVVCT
lại ghi: “Đầu tháng giêng 1960 (12 tháng chạp năm Kỷ Hợi) người quy tiên…”.
Trong Hồi kí cũng có một số chỗ khác biệt với các tác phẩm của cụ đã viết trước cuốn Hồi kí. Ví dụ
như trong cuốn Đế Thiên Đế Thích, cụ bảo rằng lúc đi thăm Siemreap cụ đã “…hỏi mua cuốn Guide
Groslier mà không có, đành mượn của anh T.”; nhưng trong cuốn Hồi kí, cụ bảo lại bảo: “Tôi mang theo
cuốn Guide Groslier rồi lên xe đò đi Nam Vang”.
Sau Hồi kí và ĐVVCT, cụ còn viết bộ Sử Trung Quốc. Trong Hồi kí, phần xét riêng các triết gia về
chính trị thời Tiên Tần, cụ Nguyễn Hiến Lê sắp các triết gia làm ba phái: hữu vi, vô vi và cực hữu vi. Và
theo cụ thì: “Phái vô vi chủ trương can thiệp rất ít (Lão tử) hoặc không can thiệp chút gì (Trang tử, Liệt tử)
vào đời sống của dân, để mặc dân sống theo bản năng, trở về tính chất phác thời nguyên thuỷ, như vậy xã
hội sẽ hết loạn”. Nhưng trong Sử Trung Quốc, cũng xét về tư tưởng chính trị, thì trong phái vô vi cụ chỉ kể
đến Lão tử, Trang tử và Dương tử, còn Liệt tử thì cụ lại không nhắc đến.
Trên đây tôi chỉ nêu một vài chỗ khác biệt giữa Hồi kí và vài tác phẩm khác của cụ mà tôi được biết.
Có chỗ tôi chú thích, có chỗ không vì nếu chú thích hết thì rườm quá.

Trong Hồi kí có quá nhiều sự kiện, đọc một hai lần khó mà nhớ hết, hiểu hết. Do vậy, để tìm hiểu
cuộc đời và sự nghiệp của cụ Nguyễn Hiến Lê, ngoài Hồi kí và ĐVVCT nhiều lần, ta còn phải đọc thêm
các sách khác của cụ, các bài viết của các tác giả khác viết về cụ, các tài liệu liên quan đến các thông tin
liên quan đến bộ Hồi kí này.
Cuối cùng, tôi xin được nói thêm là, cũng như đối với các tác phẩm mà tôi đã gõ trước đây, khi gõ tác
phẩm này, tôi cũng được bác Vvn giải thích giúp các thắc mắc liên quan đến chữ Hán, mà một phần các lời
giải đáp của bác Vvn được tôi ghi lại trong phần chú thích. Xin chân thành cảm ơn bác Vvn và xin chia sẻ
cùng các bạn.
Ngày 7.12.2009
Goldfish
*
* *

LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Nguyễn Hiến Lê ra đời trong hoàn cảnh nho học không còn được sủng ái. Cha mất sớm, ông sống nhờ
bàn tay tảo tần buôn bán của người mẹ. Cuộc sống những năm thiếu thời của ông ở giữa ranh tốt và xấu: hư
hỏng, tha hoá và trong sạch, trinh trắng. Sau những ngày tháng lêu lổng, cậu bé Nguyễn Hiến Lê còn biết
giật mình nghĩ lại để rồi mình hứa với mình tu chí học hành, phấn đấu vươn lên. Người mẹ ít học kia lại là
người biết bù đắp những thiếu hụt về kiến thức cho con trai bằng cách cho cậu bé điều kiện tiếp cận với
Hán học.
Vậy là vừa học trường Tây, chữ Tây, cậu bé hiếu học côi cút kia đã tận dụng những mảnh nhỏ thời
gian trong cuộc đời nghèo khó của mình để học chữ của Thánh hiền. Đây là chiếc cầu nối quan trọng dẫn
Nguyễn Hiến Lê, cậu bé ham hiểu biết, trở thành Nguyễn Hiến Lê – học giả.
Không phải là người cách mạng, là nhà văn cách mạng, nhưng Nguyễn Hiến Lê cũng không phải là
nhà văn của chế độ cũ, mặc dù ông sống giữ lòng xã hội ấy suốt mấy chục năm. Một lần nữa Nguyễn Hiến
Lê lại ở giữa lằn ranh nhân cách và phi nhân cách. Có người cho rằng ông đi giữa hai làn đạn. Và một lần
nữa ông đã tỏ ra bản lĩnh vững vàng trước sau ông vẫn giữ được nhân cách của mình.
Ngòi bút Nguyễn Hiến Lê, tâm hồn và con tim Nguyễn Hiến Lê ngay từ đầu đã thuộc về nhân dân,
những người lao động, những ai cực khổ, bần hàn và bất hạnh. Niềm tự hào về dòng giống, tổ tiên và nỗi
đau về dân tộc trước những cuộc ngoại xâm đã kéo Nguyễn Hiến Lê, một nhà văn luôn ý thức lánh xa
những gì phù phiếm như chức tước, địa vị và sự giàu sang không lương thiện, xích gần với Cách mạng và
tự coi mình là người của Cách mạng, bởi lẽ dễ hiểu, những điều Cách mạng đang làm cũng chính là những
mơ ước của ông.
Dầu đứng ở những góc nhìn khác nhau, ai cũng dễ tìm thấy ở Nguyễn Hiến Lê một cái gì đó gần với
tâm trạng của dân tộc mình, một cái gì đó thuộc nhân bản của con người cầu tiến luôn vươn tới mục đích
cao thượng và hoàn mỹ. Rất nhiều thế hệ độc giả khác nhau đều kính phục sự nghiêm túc của học giả này.
Tính nghiêm túc của Nguyễn Hiến Lê có được bởi nó bắt nguồn từ trí nhớ tuyệt vời của ông và cùng với trí
nhớ là cách làm việc khoa học, tỉ mỉ trong từng chi tiết nhỏ, sự học hỏi và lối ghi chép hết sức cẩn thận.
Nguyễn Hiến Lê luôn coi trọng tư liệu, bởi hơn ai hết ông hiểu sự khách quan của một tác phẩm là vô cùng
quan trọng. Nó là chiếc cầu đầu tiên nối lòng trân trọng hay sự coi thường, khinh miệt của độc giả đối với
người cầm bút. Ngay khi nói về mình, Nguyễn Hiến Lê cũng cố giữ tính nghiêm túc và khách quan, luôn
luôn tự tách mình ra khỏi văn mạch chủ quan của chính mình.
Trên tinh thần tôn trọng một học giả nghiêm túc và được nhiều người mến mộ, kính nể ấy, Nhà xuất
bản Văn học trân trọng giới thiệu cuốn Hồi kí của ông. Tuy là hồi ký một người, một nhà văn, nhưng qua

đấy người đọc cảm nhận được xã hội Việt Nam xuyên suốt hai cuộc kháng chiến chống xâm lược mà nét
hào hùng lẫn những vệt máu và nước mắt vẫn còn thấm đẫm mới rợi trên từng trang sử của dân tộc chúng
ta. Từng sự kiện, từng con người (từ nhà chính khách cho đến nhà văn…) đều được cách nhìn Nguyễn Hiến
Lê soi rọi và đánh giá.
Tất nhiên, dù cố gắng khách quan, chúng tôi thiển nghĩ thật khó có thể thoát khỏi dấu ấn chủ quan.
“Văn là người”, điều ấy có thể dẫn đến một số đánh giá của ông chưa được hợp lý theo quan niệm đương
thời hoặc theo cách nhìn của một bộ phận, một số người nào đấy chăng?
Vì tác giả đã mất, Nhà xuất bản không nở cắt bỏ nhiều quá. Trong quá trình biên tập chúng tôi chỉ
lược bớt phần rườm ra và cắt những chỗ không thể nào để lại được. Chúng tôi mong bạn đọc thông cảm.
Sự đóng góp của Nguyễn Hiến Lê trong nền văn học Việt Nam đương đại là hết sức quý báu, mức độ
tầm cỡ đến đâu chắc chắn cần phải có thời gian mới đánh gia đúng mức được. Một lần nữa chúng tôi tin
rằng, xuất bản tập Hồi kí này là hết sức cần thiết, và rất bổ ích, nhưng chúng tôi cũng nghĩ rằng sẽ có những
vấn đề cần phải tranh luận. Một tác phẩm ra đời không một tiếng vang đâu hẳn là tác phẩm tốt. Dù thế nào,
xét trên cảm hứng chung của ngòi bút Nguyễn Hiến Lê, chúng tôi vẫn thấy trước tiên đây là một học giả đầy
trách nhiệm và xây dựng.
Nhà xuất bản rất mong sự đóng góp của độc giả trong nước cũng như ngoài nước để lần in sau chúng
tôi rút được những kinh nghiệm tốt hơn.
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC
*
* *

LỜI NÓI ĐẦU
Năm 1935, hồi mới vào đời, làm ở Sở Thủy lợi Nam Việt, những lúc lênh đênh trên kinh rạch miền
Hậu Giang, nhớ mặt nước xanh rêu của Hồ Gươm, con đê thăm thẳm của sông Nhị, tôi viết hồi kí, chép lại
những hình ảnh của người thân, những vui buồn của tuổi thơ và tuổi niên thiếu. Viết được khoảng sáu trăm
trang vở học trò, không có ý in thành sách mà chỉ để vài người thân đọc. Tập đó còn lại được vài trăm
trang, gần đây đọc lại, không có gì đáng giữ. Năm nay, 1980, gần tới lúc cuối đời; thực hiện xong chương
trình biên khảo về triết học Trung Hoa thời Tiên Tần - tập cuối cùng: Kinh Dịch, Đạo của người quân tử,
hoàn thành năm ngoái - cũng trong cảnh xa quê và người thân như 45 năm trước, tôi lại viết hồi kí, cũng
không có ý in thành sách mà chỉ để cho vài người thân đọc. Viết lần này không say mê như lần trước, mà
tôi chắc cũng không có gì đáng lưu lại. Để qua những dư niên, thế thôi.
Chép sử, dù có tinh thần khách quan, khoa học tới mấy, dù tra cứu được đủ tài liệu, dù đích thân được
sống thời đại mình chép, thì cũng không sao ghi đúng được sự thật. Chỉ có loại sử biên niên chép những
biến cố, những việc lớn xảy ra từng năm từng tháng, sắp đặt theo thứ tự thời gian mà không thêm bớt gì hết,
nhất là không phê bình hoặc ghi cảm tưởng của mình hay của người trước, chỉ có loại đó là không sai,
nhưng nó lại câm, không cho ta biết chút gì về dân tình, không khí của thời đại, như vậy đâu phải là sự thật!
Vì người chép không thể nào ghi hết mọi việc được, tất phải lựa chọn, bỏ bớt, và nội công việc đó cũng có
tính cách chủ quan ít nhiều rồi. Cho nên tôi nghĩ không có gì là sự thật thuần túy cả.
Chép hồi kí về đời mình, lại càng dễ bị nhiều người chê là chỉ nêu những cái hay của mình mà giấu
những cái xấu; ngay khi tự vạch những cái xấu của mình ra thì nếu không phái do lòng tự cao, cũng là để tự
biện hộ. Dù là tập Confessions của J.J. Rousseau hay tập Autobiography của Bertrand Russel thì cũng chỉ
đáng tin một phần nào thôi.
Tôi lại nhận thấy bây giờ chép lại tuổi thơ và thiếu niên, tôi bỏ đi gần hết nhũng điều tôi đã chép năm
1935; mà tập tôi mới viết xong đây nếu chép từ năm 1974, đầu năm 1975, thì nội dung tất khác bây giờ

nguon tai.lieu . vn