Xem mẫu

Chương 4



NHỮNG CHUYỆN NHÂN VĂN và thời kỳ hữu khuynh, tư tưởng bị lũng đoạn tôi chôn vùi đi lâu rồi.
Nhưng chưa phải đã được dứt. Chuyến đi Lai Châu ấy cũng là cho khuây khỏa mà thôi. Bởi vì cuốn tiểu
thuyết Mười năm của tôi - một trong những ấn phẩm cuối cùng của Nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Lập tức,
các báo mổ xẻ phê bình. Một đòn đánh mạnh và lý lẽ nhất, bài của Như Phong trong ban biên ủy báo Nhân
Dân in trên báo ấy và bài của Trần Độ trên tạp chí Văn nghệ Quân đội. Đấy cũng là một quyển sách còn
sót lại thúc đẩy phải đóng cửa nhanh Nhà xuất bản này.
Rồi Võ Hồng Cương thường trực Hội Văn Nghệ tổ chức một trận phê bình miệng. Nhà văn, nhà lý luận
phê bình, nhiều cán bộ giáo vụ trường đảng và cả tỉnh ủy Hà Đông tham dự. Mười năm, một cuốn tiểu
thuyết bộ ba của tôi viết về quang cảnh và con người vùng Nghĩa Đô nghề thủ công phía tây bắc thành phố
vào ba thời kỳ nối nhau. Tiểu thuyết Quê nhà, Nhà xuất bản Tác phẩm mới in khoảng thập kỷ bảy mươi sau
này. Sự việc cuối thế kỷ trước qua hai lần quân Pháp đánh Hà Nội, các làng ngoại thành nổi lên. Quê
người là cuốn truyện dài đầu tay, quãng 1940 tôi viết cùng thời với những Dế mèn phiêu lưu ký, Giăng
thề, O chuột. Quê tôi, lĩnh lụa nghề tổ bị lụi bại, người làng phải bỏ đi tha hương đất khách quê người.
Tiểu thuyết Mười năm như một tự truyện viết về một đám thanh niên trong làng tham gia Việt Minh nhen
nhóm phong trào cách mạng tiến tới Tổng Khởi Nghĩa.
Mười năm được viết ra, những năm đó tôi về ở trên Nghĩa Đô. Văn Cao làm bìa, Văn Cao đã bắt đầu
vẽ bìa để sinh sống. Văn Cao vẽ cái bóng làn nước chảy đìu hiu chân cầu, ý nghĩa thời gian trôi, Mười
năm, mười năm nước chảy qua cầu. Có hai người phát biểu gay gắt nhất. Như Phong:
- Mười năm có thể là một cuốn tiểu thuyết khá, vì đấy cũng là thực tế ở làng quê tác giả và chính tác giả
đã sống. Nhưng nó đã được chuẩn bị và sáng tác trong thời kỳ Nhân Văn lũng đoạn nên bị ảnh hưởng xấu.
Các nhân vật cán bộ cách mạng đã bị bóp méo đến thảm hại.
Tôi không biết Lưu Quyên bấy giờ công tác ở đâu. Nhưng tôi đã gặp Lưu Quyên khi phụ trách báo Cứu
Quốc khu Ba. Tôi ở Việt Bắc về qua Vân Đình, đi vùng Mường trên Đà Bắc. Nghe nói Đinh Hùng ở báo
Cứu Quốc tôi tìm đến gặp Đinh Hùng ở một xóm đồng chiêm gần Chuôn Tre lối ra Đồng Quan. Những câu
ca dao in báo Cứu Quốc và bài thơ Cô du kích: Ngày nào trở lại cố đô. Ôi Thăng Long rợp bóng cờ
vinh quang... Đinh Hùng đã làm và in trên báo Cứu Quốc những ngày ở đấy. Sau Đinh Hùng theo Vũ
Hoàng Chương xuống Quỳnh Côi dưới Thái Bình, bị Tây quây, rồi về Hà Nội.
Lưu Quyên dõng dạc:
- Tôi là người chịu trách nhiệm phong trào Hà Đông thời kỳ ấy. Hà Đông chúng tôi khi đó không phải
như trong tiểu thuyết Mười năm. Tôi phản đối người viết đã xuyên tạc sự thật lịch sử.
Rồi sau cũng nhiều khi Như Phong đi với Nguyên Hồng gặp tôi ở quán bia gốc liễu nhà Thủy Tạ. Ông
này uống bia pha rượu trắng, tôi để ý thấy màu bia ở cốc ông nhạt hơn các cốc xung quanh. Cái lúc bè nhè
vẫn hăng hái lý lẽ nhưng Như Phong làm như quên bữa anh đã cạo tôi. Còn Lưu Quyên về sau cứ từ đằng
xa trông thấy tôi là tránh sang vỉa hè bên kia. Chỉ có một cuộc phê bình miệng ấy. Người viết không phải
nói tiếp thu và hứa hẹn sửa chữa như chỉnh huấn. Tuy vậy, đi làm hợp tác xã mấy tháng dưới Thái Ninh về
tôi vẫn loăng quăng, day dứt.
Tôi đi Lai Châu, cho đỡ bận lòng. Cùng đi có Nguyễn Tuân, Văn Cao.
Giữa trưa, xe lửa chạy Lào Cai. Đường sắt này mới chữa lại năm trước. Nhớ cái lớp 18 ngày, tôi bỏ đi
dự khánh thành đường Hà Nội - Lào Cai về bị kiểm điểm. Thoáng nhớ thế thôi. Khách vắng, cả cái toa
hạng ba, chỉ có Nguyễn Tuân, Văn Cao với hai két bia mang theo. Người nhà tàu vui tính đội mũ lưỡi trai

đã chiều khách, không cho ai lên thêm toa ấy. Và cũng uống bia chan hòa với chúng tôi. Mới đụng cốc đã
mặt đỏ găng. Không biết uống, nhưng vì anh thích các ông khách nhà văn quá. Hồi ấy còn kiểu thùng bia
hơi xù xì như cái chĩnh đại, chai si rô lựu đỏ gắt đặt trên mặt quầy. Chỉ uống cốc con, pha nước ngọt.
Người ta còn nhăn mũi chê bia đắng. Cốc vại nửa lít mới trông đã hãi. Hai két bia hai mươi bốn chai của
chúng tôi như hai cái cũi lợn. Người coi toa say bia, đi ngủ từ chặp tối. Nhưng vẫn nhớ công việc, anh
khóa trái hai cửa đầu toa rồi nằm chúi đâu không biết. Làm thế nào, buồng vệ sinh lại ở cửa toa, phía
ngoài. Mà hai két bia Trúc Bạch thì uống cả đêm nay. Thế mà rồi cũng xong. Bởi vì các cửa sổ toa đều vẫn
mở được.
Suốt đêm, tàu qua Phú Thọ - Yên Bái đôi chỗ lấp loáng mặt sông Hồng và ánh trăng. Những đồi cọ như
đàn voi phủ phục. Chín năm kháng chiến; người xuôi tản cư lên đồi cắt cỏ tế phơi đun bếp. Lại ngắt từng
ôm lá sắn về muối dưa. Nồi cơm sôi lên, khúc sắn trưa cõng hạt cơm - củ sắn ba bốn năm còn sót lại vừa
mới bới. Những ngày tản cư trong kháng chiến tưởng tượng xanh trong như trung du vào thu, loáng thoáng
qua ngoài cửa sổ sáng trăng. Không rõ tàu tới đâu, nhưng cứ tưởng ra chỗ nào cũng ngỡ đấy là những phố
Ẻn, rồi ngòi Lửa bên kia Chuế Lưu rồi lên đến ga Đan Thượng... Mỗi khi tôi ở Bắc Cạn, ở Tuyên Quang về
nhà, xuống phủ Đoan ra Cát Lem đầu lô hay qua bến Ngọc, chợ Ngà, tắt rừng về Đại Phạm ra Đan Hà. Có
khi xuống ngã ba Phú Hộ rồi rẽ sang Thái Ninh ra Vũ Ẻn ngược bờ sông lên. Làng xóm và hàng quán những
ông bủ bà bủ, đi một dơn, đi một tay dao và gió, gió thì gọi là bão, bão rồi, đò ngược đò xuôi sông Lô,
sông Thao...
Ký ức theo con tàu chạy đương nối nhau trở về. Năm 1945, mờ sáng, tôi đi với bộ đội từ Yên Lạc tấn
công vào thị xã Vĩnh Yên. Quốc dân đảng đã rút lên Việt Trì đêm trước. Chiếm Phú Thọ rồi truy kích tóm
hụt thủ lĩnh Lý Ninh, nhưng cũng bắt được một số đầu sỏ. Đêm, chúng phá trại giam, chạy lên đến Vĩnh
Chân bờ sông thì bị bắt lại. Tòa án quân sự mặt trận quyết định xử bắn ngay, trong khi các đơn vị vệ quốc
đoàn vẫn đuổi theo tàn quân địch dọc đường sắt lên Yên Bái. Một cái đầu tàu chạy quãng này còn lại ở thị
xã. Tôi vào bãi bắn ở sân bay. Khói than đỏ hồng trong sương mờ lành lạnh. Sân bay cũ cỏ mọc xanh lút
đầu gối. Cái đài nước đổ nghiêng như một tảng đá trắng giữa bụi lau.
Sự tích của đám bị bắt lại cũng lộn xộn, khó hiểu như được thua của một trận đánh. Tư ẩn, một trong ba
cụ đầu sỏ bị trói gô lúc đương ngồi xếp bằng uống rượu trong đình Yên Kỳ, xung quanh đã chạy hết. Đặng
Văn Mười còn có những tên là Tử Pính, là Hùm Xám. Một lão nhà giáo hơn hai mươi năm trước đã ngồi
bảo học ở Phú Thọ. Quái đản nhất, đội Thất, nguyên cai ngục Yên Bái. Đội Thất đã đẩy xe máy chém ra
đầu tỉnh, sáng tinh mơ ấy thủ lĩnh quốc dân đảng Nguyễn Thái Học và đồng đội bị rơi đầu. Bây giờ lão
theo quốc dân đảng vẫn được gọi là đội Thất. Sáng bạch, bọn tù được dẫn bên đề lao sang, bước loi thoi
qua đám cỏ rậm đường băng. Hùm Xám đi bên trung đội trưởng Luân, lý láu hỏi:
[1]
- Chốc nữa ông làm coup de grace hả?
Nếu cái xích tay Hùm Xám không động lách cách dễ tưởng như hai người đi xem tử tù. Trung đội
trưởng không nói, nhưng tỏ vẻ bực mình vỗ vào cái súng lục ổ quay bao da đeo lủng lẳng bên thắt lưng. Lại
hỏi:
- Súng gì thế, thưa ông! Sanh tiên hay poọc học? Cái lão tử tù này mắc bệnh hỏi.
Giữa bãi cỏ, bên cạnh bảy cái cọc tre mới đóng, hai mâm đồng dọn ra giữa những viên gạch vỡ kê làm
ghế ngồi. Xôi đỗ xanh, thịt gà luộc, trám muối. Cả bát nước xuýt. Một nải chuối đặt cạnh những chai rượu
trắng. Không hiểu sao những sáu bảy chai - giúp cho người ta quên chết hay còn thừa thì chốc nữa vệ quốc
đoàn để rửa tay, để uống nốt? Chỉ một loáng, đám tù đã chén tiệt hai mâm xôi dỡ trên lá chuối. Cả những
cái chai không lăn lóc. Từng người đứng ngồi nhấp nhô, ai cũng râu ria xồm xoàm, mặt đỏ phừng, mặt tái
ngắt phì phèo tuôn khói thuốc lá cuốn sẵn, thanh thản lạnh lùng như những người xa lạ ngồi đợi tàu ở ga.
Hùm Xám lơ láo nhìn quanh, bỗng cong cổ gào: Đời đẹp quá! Đời đẹp quá ít! Lão Tư âm, hai tay xích để
trên đầu gối, im lặng. Mặt rượu tím Quan Công, nổi bộ râu ba chòm, con mắt sắc như dao liếc. Lão ngẩng
nhìn cái đài nước đổ đằng cuối bãi. Lão giơ ngang tay xích, cười khểnh, nói: Cái đài nước kia to thật lực

mà cũng đổ nhỉ? Rồi lại trầm ngâm. Hùm Xám ngoái cổ lại hỏi trung đội trưởng Luân: Ông cho coup de
grace hả? Nhờ ông cho nhanh một tý. Lão cựu giáo học thì cứ thở hổn hển. Không biết lão say rượu hay lão
lên cơn nghiện.
Trung đội trưởng Luân đứng nghiêm, hỏi to:
- Phạm nhân có dặn dò, có nhắn gì nữa không?
Đội Thất, người đã beng đầu Nguyễn Thái Học năm xưa, hét:
- Việt Nam quốc dân đảng vạn tuế, vạn vạn... ối giời ôi!
Bấy giờ ông cố đạo rửa tội, mới đến. Ông quăng vội cái xe đạp giữa bãi cỏ, bánh trước nghênh lên
quay tít. Ông ở tận nhà thờ bên phủ Đoan sang, có lẽ đã đạp xe suốt đêm qua. Quần ông xắn cao trên đầu
gối. Ông lấy cái áo choàng đen trong ba lô ra mặc, áo chùng buông xuống, ống quần vẫn xoe trên bắp chân
bê bết bùn. Ông cố đạo còn trẻ, chẳng nghỉ ngơi nửa phút, ông đến trước mặt từng người tù làm dấu thánh,
rì rầm, rì rầm. Lão đội Thất được rửa tội sau cùng. Tự dưng, đội Thất kêu lên: Không, không, tao đéo xưng
tội với mày! Rồi giơ hai tay xích nện xuống cái mũ lá của ông cố đạo. Ông cố đạo thản nhiên lùi xa, lại
làm dấu thánh, cúi đầu đọc kinh nho nhỏ. Toán cảnh vệ bồng súng chào giữa trời rồi quay lại từ từ quỳ một
bên gối xuống mặt cỏ. Cách mấy thước, những người tù đã bị bịt mắt miếng vải đen, trói ngoặt cánh tay,
cẳng chân vào cọc. Phút hốt hoảng khủng khiếp bất thần đến. Tiếng kêu la thất thanh trong tiếng súng vang
từng chặp. Nghe rõ tiếng lão đội Thất: Chưa trúng tôi? Chưa trúng? Ối giời tôi, tôi oan, hay là tôi oan...
Nhưng cái đầu lão đã ngoẹo trên cọc, máu tuôn òng ọc. Trong làn sương lẫn khói súng, bác sĩ Triển áo ba
đờ xuy dạ đen, kính trắng, như thần chết vác lưỡi liềm ra. Chiếc ống nghe gí vào ngực từng cái xác. Trung
đội trưởng Luân bước trước, mỗi cái xác bồi một phát súng lục vào gáy.
Mù sớm loãng dần, nhìn ra đám cỏ xanh eo éo. Ven đồi, những cây cọ bị gió đánh xơ xác rũ rượi, như
tốp người nữa đợi đến lượt xử bắn.
Làn sương đêm dày đặc tỏa vào cửa sổ toa tầu. Chúng tôi ngợp trong sương, ho sặc sụa. Tôi nhớ cảm
giác lạnh lẽo u ám sương mù thế này năm trước, cái hôm bọn tử tù bị trói trên cọc. Rồi tôi nhớ Nam Cao,
Tây đã bắn chết Nam Cao có lẽ cũng tương tự như thế, khi mới chặp tối trên đồng nước Hoàng Đan. Rồi
nghe Thôi Hữu kể lúc Trần Đăng bị quân quốc dân đảng Trung Quốc đem bắn ở chân núi Nà Lầu trên biên
giới. Rồi ở Tuy Hòa, Ninh Hòa hay Nha Trang, lại Trần Mai Ninh tử nạn.
Đoàn tàu đã qua thị xã Phú Thọ. Vừng trăng mười tư lên giữa trời trong veo.
Ngày ấy nhiều vùng đường xuôi tản cư dần lên ngược, cứ cái tên được đặt cho cũng dễ tìm được đường
đi, Hà Nội Đồng Quan, Vân Đình, Hà Nội Phú Thọ, Hà Nội Đại Từ, Hà Nội Bắc Cạn, Hà Nội họp chợ lập
phố giữa đường. Trận quân Pháp vận động lớn đánh vu hồi khép gọng kìm Việt Bắc mùa đông 1947, những
bèo bọt Hà Nội ấy tan đi hay tụ lại, không biết đâu là chừng. Mặt sông vừa tạnh sương lúc mặt trời hé ra,
từng đoàn người các bến về đã đổ lên chợ Mè trong thị xã. Nhộn nhịp chợ búa, người ở xuôi tản cư ra chợ,
mua bán, hò hẹn, thề bồi nhất quyết đi nữa hay đành dinh tê về thành. Bao nhiêu nông nỗi không ai biết đấy
là đâu. Sân bay Phú Thọ hôm có cuộc xử bắn vẫn đương còn sầm uất. Pháp lên chiếm Việt Trì rồi mấy hôm
sau nhảy dù ban ngày xuống ngay chợ Mè giữa thị xã.
Đoàn cải lương Kim Chung tản cư ra đương diễn ở thị xã. Dãy phố cô đầu Chín Gian cửa hé cửa khép
như chưa biết Tây đã lên Việt Trì. Chủ nhiệm báo Cứu Quốc mà tôi đương làm phóng viên, Xuân Thủy
Nguyễn Trọng Nhâm thuở trẻ hoạt động ở Phú Thọ và để có cái độ nhật đã mở hiệu bào chế thuốc bắc Thọ
Xuân Đan, lại xin được chân phóng viên nhặt tin vặt cho báo Đông Pháp. Có thể cắt nghĩa được, ở nhà tù
Sơn La, trong các dịp vui với bạn tù, Xuân Thủy hay đóng vai ả đào óng ả, véo von hát nói, ngâm thơ, có
khi lại làm khách làng chơi nghiêng tang trống cầm chầu điệu nghệ. Cũng là nhờ xưa kia ông nhà báo lá cải
đi chơi che tàn với các thày thừa, ông lục, ông ký ga, ông chủ sự dây thép. Thỉnh thoảng, lặn lội ở Hạ Giáp
trong Phù Ninh ra, Xuân Thủy hay đưa tôi đến xóm cô đầu Chín Gian tom chát cùng ông Ba Triệu - một tay
buôn và địa chủ có hạng ở ghềnh sông, ghềnh Ba Triệu quãng Lâm Thao lên, giàu có không kém chủ tịch
Mặt trận Liên Việt tỉnh Đào Đình Quang ở đồn điền Thái Ninh. Cũng chẳng mới lạ và ham hố chơi bời gì,
vẫn vui chân thế thôi. Mới mấy tháng trước, ở Hà Nội, không mấy tối chúng tôi vắng mặt dưới Khâm

Thiên. Cả tòa soạn đi hát. Văn Tân thọt chân cũng có. Văn Tân với tôi ngồi cùng một xe tay. Xe ghé vỉa hè
nhà hát, tôi xuống trước, Văn Tân vịn vai tôi, một tay chống batoong bước ung dung vào như người hai
chân đi bình thường. Chùm trò Xuân Thủy rồi Nguyễn Văn Hải, Nguyễn Ngọc Kha... Roi chầu anh Đan - bí
danh của Xuân Thủy, sảng khoái, hào hoa lắm. Trần Huy Liệu ở cơ quan Tổng bộ Việt Minh tầng trên tòa
báo. Trần Huy Liệu giơ tay chào, cười cười, mỗi tối thấy chúng tôi đi chơi. Ông anh thèm đi theo. Nhưng
các chức Phó chủ tịch nước và Bộ trưởng Bộ tuyên truyền, lại chủ tịch hội Văn hóa Cứu Quốc không cho
phép. Đến hồi thành phố căng thẳng, đề phòng Pháp đánh úp đêm phải rời ra ngủ chùa Thông làng Mọc,
xâm xẩm chúng tôi đạp xe qua Khâm Thiên. Trong ánh đèn nhấp nhoáng, các cô ả đào chạy ra nhìn mặt
khách quen, gọi í ới: Anh Mão ơi! Anh Thiên ơi! Anh ơi! Anh ấy ơi! Tối hôm sau phải đạp đi tránh quàng
đường Sơn Tây ra Cầu Giấy...
Cho nên, cái khi mới tản cư, tạt qua thị xã Phú Thọ, ông Nguyễn Trọng Nhâm cựu phóng viên báo Đông
Pháp có ôn lại mấy ngón roi chầu mà ông ấy và tôi được đi che tàn cụ Ba Triệu, âu cũng là cái thú nghiệp
dĩ. Năm 1954, trở về Hà Nội, một dạo ở Khâm Thiên còn có nhà hát. Tiếng tom chát dưới nhà trên gác
khêu gợi. Không sợ, cũng chẳng ngại, nhưng tôi không còn hào hứng. Như Nguyễn Tuân hồi ấy lên nằm bàn
đèn với ông Hy Chả Cá. Ông Hy Chả Cá, cũng như ông Mác xen hàng Bạc - những Mạnh Thường Quân của
làng báo ngày trước. Ông Hy hút thuốc phiện trong gác xép cạnh gian bán chả cá - sau cái bàn thờ như cây
hương. Nguyễn Tuân và tôi nằm ngồi một bên chiếu cạp điều. Nguyễn Tuân nạo sái, hơ thuốc chín nâu sẫm,
nhồi vào tẩu, quay dọc tẩu sang mời ông Hy.
Ông Hy trầm ngâm nói:
- Cái tay còn nghề lắm. Vẫn hút hả?
Ông Hy hút rồi nhồi điếu thuốc mới, mời lại:
Nguyễn Tuân lắc đầu. Ông Hy phũ một câu:
- Tiên sư ông, bàn tĩnh tại gia đây, sợ chó gì!
- Không phải, thấy không thích.
Ông Hy thở dài, nghiêng cái đầu hói trên gối, kéo nốt điếu thuốc. Bà Hy ló đầu vào chào rồi hỏi khách:
Hồi này các ông anh đóng ở đâu mà lâu không thấy đến? Mấy hôm sau, khối phố gọi ông Hy đi trại cai
nghiện. Ông Hy uống một bữa rượu nhắm chả rán, nem Sà Goòng - chứ không phải chả cá, rồi chết trong
buồng ấy bên cạnh bàn đèn. Năm vừa rồi, vào Sài Gòn, Nguyễn Tuân cũng chỉ nằm chuyện và tiêm cho Tô
Hà hút ở chợ Cũ. Tô Hà là thằng Điều làng tôi, nó hút để chữa đau bụng. Ra về, Nguyễn Tuân xin tiệm hút
cái gối sành đem ra Hà Nội làm kỷ niệm. Rồi cái gối sành trắng bóng nghìn năm không vỡ của tiệm hút,
Nguyễn Tuân cũng vứt ra ngoài hiên, giữa lũ vỏ chai bia, nước mắm, vang dâu đợi bán đồng nát. Đã bảo
không thấy thích nữa thì chối, thế thôi. Một lần, ở phố Kỳ Đồng, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước tổ chức một buổi
hát ca trù. Ban tổ chức bày biện như họp hội trường, ghế kê thành từng dãy, không có đánh trống chầu.
Xong mỗi khổ hát, người ngồi các ghế đứng lên rào rào vỗ tay hoan nghênh bà Quách Thị Hồ. Nguyễn
Tuân lừng lững đi về. Bà ả đào Phúc ra ngoài, nhìn bộ ria đen của Nguyễn, khẽ nói lỡm như ngày xưa: Râu
với ria, rõ nỡm. Về hay sao? Câu hỏi níu lại tình tứ đấy. Những năm ấy bà Hồ, bà Phúc còn phảng phất đôi
nét xoan, chưa phải bà lão tám mươi như bây giờ. Nhưng chúng tôi không thể đủ hứng nán lại ngồi xem hát
nhà trò mậu dịch.
Đoàn tàu Lào Cai rầm rập vào khuya. Ngoài cửa sổ, ánh trăng ướt loang loáng trên lưng tàu lá chuối.
Hình như đương qua ga Đan Thượng. Tưởng sắp về đến nhà như hồi đi tản cư. Trong bóng tối vườn chuối
trong Đại Phạm, mộ bố tôi ở đấy. Bố mẹ, vợ con tôi đã tản cư ở lâu vùng này. Con gái lớn tôi sinh ra ở
Đan Thượng, tên là Đan Hà. Cũng như Nguyên Hồng có cô con gái tên là Nhã Nam, cái Nhã Nam. Các con
tôi đều được đặt những tên để nhớ. Đan Thanh nửa đêm mẹ trở dạ ở túp lều nhà ven đồi Phú Thịnh ra Ba
Quanh Thanh Cù, Xuân Đán, Xuân Áng bên kia sông, nơi có trại văn nghệ kháng chiến, Phan Khôi, Thanh
Tịnh, Võ Đức Diên, Tạ Mỹ Quật, Nguyễn Nghi, Nguyễn Khang, Nguyễn Xuân Khoát - xưởng vẽ của Tô
Ngọc Vân, tiền thân trường đại học Mỹ Thuật, có Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên... Bố mẹ tôi được
Nguyễn Văn Mãi quản lý hội Văn Nghệ về Hà Đông đón lên Vĩnh Chân, rồi sang Xuân Áng ở nhờ nhà ông

Cầu trong xóm cùng nhà với anh chị Nguyễn Xuân Khoát. Con Sông Thao sinh ở Hà Nội, chúng tôi vẫn giữ
hơi hướng những gian nan và thiên nhiên sông Thao. Khổ thì khổ thật, thế mà nhớ lại vẫn nhớ.
Trăng đã xế bên kia. Tiếng bánh rít ghê ghê, tàu lắc lư xốc người lên. Chúng tôi vẫn uống bia. Mọi rác
rưởi thừa ứa trong người chốc chốc được đứng lên tống ra ngoài cửa sổ, sạch sẽ cả. Đoàn tàu ào ào trong
đêm... Có thể Nguyễn Tuân và Văn Cao đương tưởng lại bệnh viện Thuận Châu giữa đường lên nông
trường Điện Biên mà hai người mới đi lao động ở trên ấy về. Mới qua Suối Rút, sáng sớm Văn Cao vừa
trở dậy xúc miệng đã thủng dạ dày, ngã ra. Chiếc xe tải của quân đội chở người phải mổ cấp cứu leo các
dốc Đá, Hát Lót, Sơn La lên châu Thuận... Mỗi nơi có trạm xá lại được y tá ra xe tiêm cho người sắp chết
một phát hồi sức. Suốt ngày đường, xẩm tối mới tới Thuận Châu - phúc bảy mươi đời, bệnh viện vừa mới
được trang bị đồ mổ và bác sĩ chuyên khoa cũng mới ở Hà Nội lên, chưa đụng đến dao kéo. Nguyễn Huy
Tưởng và Nguyễn Tuân phải là người thay mặt gia đình, theo thủ tục, ký giấy đồng ý cho mổ Văn Cao.
Phòng mổ căng vải dù trắng như trạm sơ cứu tiền phương. Một đèn măng xông không đủ sáng. Nguyễn Huy
Tưởng và Nguyễn Tuân phải đứng cầm đuốc soi cho ca mổ, như Quan Vân Trường đốt đuốc trước xe Cam,
My phu nhân. Bác sĩ đánh thuốc mê đến sáu lần, con bệnh mới thiếp đi được. Nguyễn Huy Tưởng kể lại
nói chắc là trong máu thằng này từ thuở trẻ đã tích tụ lắm sái, lắm cồn quen thuốc mê quá rồi. Văn Cao nằm
lại châu Thuận mấy tháng, đến khi về Hà Nội lại phải mổ ra khâu lại. Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng,
Lưu Quang Thuận, Nguyễn Văn Tý thì vào lao động ở nông trường Điện Biên... Rồi sau Nguyễn Tuân ra ở
với đội làm đường ở Xuân Tre. Giữa đêm, cháy lán, Nguyễn Tuân mất sổ tay, lửa lém bỏng cả mu bàn tay:
Chắc thấy lửa giữa rừng ma quái quá, con rượu mê mải ngồi xem lơ đãng đến mức lửa bén cả vào tay mà
không biết - tôi nói đùa. Bởi không hiểu sao Nguyễn Tuân lại để cháy đến tận màn và mu bàn tay còn sần
sùi một vết sẹo bỏng.
Rồi những lần ra biên giới Việt Lào ở Tây Trang, những chuyến lên các làng dân tộc Mông ở trên núi
lòng chảo bọc cánh đồng Điện Biên. Con suối Nậm Rôm vắt ngang Mường Thanh chảy ra suối Nậm Mu
sang tận ngã ba sông Mêkông - Nậm Mu phía trên cố đô Luang Prabang một quãng không xa. Nguyễn Tuân
đã dầm chân trên suối Nậm Rôm. Còn tôi, đã có lần ngồi thuyền qua giữa ngã ba sông Mêkong - Nậm Mu
kia. Một cái thư Nguyễn Tuân viết ở lán làm đường Xuân Tre.
Công trường 426 Xuân Tre - Tuần Giáo
Chủ nhật 20 tháng ba.
Tô Hoài,
Cho đến hôm nay mình mới đọc scenario (kịch bản phim) Vợ chồng A Phủ. Thích đấy. Hơn cái
facture (xây dựng, cấu tạo) nouvelle (truyện vừa) được giải thưởng. Có lẽ anh scenario này mới là anh
ăn đích cái giải thưởng cũ. Những lúc này mình ước giá có Tô Hoài ở đây rượu suông cũng uống được
nửa cây. Hôm đi Than Uyên cũng gặp người quen Tô Hoài. Hôm ngủ Nậm Din, mậu dịch Khôn cũng cứ
hỏi mình sao bác Tô Hoài không lên với ông?
Ở Tuần Giáo, hôm mình vừa tới lại gặp cả vợ chồng A Phủ. Mình chưa biết Jeuscenique (khả năng
sắm vai) cô Hoàn ra sao, nhưng cũng tin là cô đóng được.
Mấy hôm nay gió Lào nổi lên nhức đầu quá. Hôm ở Than Uyên, gió Than Uyên buốt. Hại tiền cao
hổ cốt quá. Ông có thì giờ, nhìn hộ tôi mặt mũi Sông Đà (quyển Sông Đà đang in) nó ra sao?
Nguyễn Tuân
Bao nhiêu đường trường. Chỉ trên đường mới cảm thấy thơ thới, trong thành phố tù túng không tìm đâu
ra những thảnh thơi được. Ở trên núi xuống, lại vào giới tuyến. Những lần lặn lội ngược xuôi sông Hiền
Lương lên thấu cột mốc đầu sông lại xuôi Cửa Tùng, hai bên bờ đồn địch đồn ta đóng đăng đối, những
chiếc loa vành rộng hơn bánh xe đạp cứ thi nhau chõ qua mặt nước lúc chửi lúc lại hát, như điên.
Nhớ sao những chiều Nguyễn Tuân, Kim Lân và tôi ra tha thẩn ngoài Cửa Tùng đợi đoàn thuyền đánh cá
về. Mặt nước, mặt người vàng xuộm. Trên cửa sông, những cái đồn gác con con lợp mái tôn. Mỗi tuần, tốp
lính bên Bắc bên Nam lại đổi phiên bờ này sang bờ kia. Tôi đứng một chỗ thấy cát không lún gót, nhận ra
cát bể Đông ở Cửa Tùng hạt vàng thô, không mịn như cát Sầm Sơn, Trà Cổ ngoài Bắc.

nguon tai.lieu . vn