Xem mẫu

ĐỖ HỮU VINH

BẢO HIỂM VÀ GIÁM ĐỊNH
HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP
KHẨUVẬN CHUYỂN BẰNG
ĐƯỜNG BIỂN

NHÀ XUẤT BẢN TÀI CHÍNH

LỜI GIỚI THIỆU
Thị trường thế giới ngày nay mờ rộng không ngừng, sự phân công lao
động và sự hợp tác quốc tế ngày càng phát triển. Do đó yếu tố ngoại thương
trở thành một đòi hỏi khách quan, một yếu tố không thể thiếu được của quá
trình tái sản xuất ở tất cả các nước. Các tổ chức ngoại thương thế giới thông
qua những hiệp định hay hợp đồng mua bán, vận tải, bảo hiểm để thực hiện
nhiệm vụ giao thương hàng hóa giữa các nước. Tuy nhiên trong quá trình
thực hiện hợp đồng, hàng hóa thường phải trải qua nhiều khâu: từ người sản
xuất đến ngưu 1 xuất khẩu, người vận tải, người giao nhận rồi mới đến tay
người tiêu thu sản phẩm nên việc tổn thất, mất mát, hư hỏng là điều không
thể tránh khỏi. Những nhà xuất nhập khẩu, người làm công tác giao nhận sẽ
giải quyết vấn đề này ra sao, phải làm gì khi hàng hóa xuất nhập khẩu bị tổn
thất Các thủ tục cần thiết phải tiến hành để có thể đòi được người bảo hiểm
bồi thường nếu hàng hóa đó được bảo hiểm Biên bản hàng hư hỏng đổ vỡ,
thư kháng nghị thật ra chỉ là chứng từ pháp lý ban đầu về tình trạng hư hỏng
của hàng hóa. V vậy, người nhận hàng bao giờ cũng muốn hàng hóa của
mình được xác nhận cụ thể xem bị hư hỏng thế nào, đến mức độ nào và do
nguyên nhân nào gây nên.
Về phía người vận chuyển cũng vậy, họ muốn có sự xác định cụ thể về
hàng hóa bị hư hỏng để yên tâm rằng mình khỏi bị chủ tàu ràng buộc trách
nhiệm từ lúc phát hiện hàng hư hỏng. Từ đó vấn đề giám định tổn thất hàng
hóa cần được xúc tiến nhanh sau khi hàng được xếp dỡ hoặc được nhậplxuất
từ kho bãi, nhà máy; để có được một biên bản giám định hàng hóa tổn thất
làm cơ sở cho việc khiếu nại, đòi bồi thường thiệt hại về sau.
Từ những vấn đề nói trên, chúng tôi mới mạnh dạn biên soạn quyển
"BẢO HIỂM VÀ GIÁM ĐỊNH HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU VẬN
CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN dựa theo tài liệu nổi tiếng của hãng Lloyd
(Anh quốc) nhằm mục đích cung cấp cho sinh viên chuyên ngành kinh tế, cán
bộ làm công tác xuất nhập khẩu, cán bộ hải quan, hãng tàu và độc giả quan
tâm đến lĩnh vực này có một tài liệu để học tập và tham khảo bổ ích. Hy vọng
sách sẽ đem đến nhiều điều bổ ích và thú vị cho bạn đọc. Chúng tôi rất mong
nhận được sự góp ý từ phía bạn đọc để lần tái bản sau sách sẽ được hoàn
chỉnh hơn.
TÁC GIẢ

2

Phần I
LỊCH SỬ BẢO HIỂM

Chương 1. NGUỒN GỐC BẢO HIỂM
1 . GIỞI THIỆU KHÁT QUÁT
Vào cuối thế kỷ15 khi châu Âu thực hiện những cuộc viễn chinh tới
châu Á và châu Mỹ, tạo ra cái gọi là “cuộc cách mạng thương mại” (xảy ra
trước cuộc cách mạng công nghiệp nổi tiếng), ý tưởng quỹ chung và rủi ro đã
đồng loạt xuất hiện. Ví dụ một đội tàu nhỏ có thể đi từ châu Âu tới
Indonexia, trao đổi hàng hóa tại đó và trở về với nhiều hàng hóa, tuy nhiên ở
đây tiềm tàng nhiều rủi ro: Một số tàu không hoàn thành toàn bộ chuyến đi
về. Một số tàu có thể bị chìm do bão tố, cạn kiệt nguồn cung cấp (hoặc đội
thủy thủ chết vì bệnh tật), lạc đường, bị chìm do quá tải, hoặc bị mọt ăn
thủng. Những người tham gia đầu tư vào những chuyện như kể trên cám nhận
thấy cần thiết phải cùng nhau chia sẻ rủi ro tránh tình trạng một số nhà đầu tư
mất trắng toàn bộ chuyến hàng do một hiện tượng khá phổ biến: tàu bị mất
tích. Người ta đã tìm ra hai cách nhằm giải quyết nhu cầu này.
Cách thứ nhất là tạo lập một chuyến hàng dưới hình thức cổ phần, một
nhóm nhà đầu tư cùng đầu tư vào một nhóm thuyền chở hàng chung cùng
chia sẻ rủi ro tổn thất và phân chia lợi nhuận thu được sau chuyến buôn. Cách
thứ hai là bảo hiểm, một hệ thống theo đó chủ tàu hay chủ hàng (có thể là
một cá nhân hay một công ty) trả một số tiền mặt cho người khác nếu họ thỏa
thuận sẽ bồi thường khi con tàu đã nêu trên không hoàn thành một chuyến đi
cụ thể nào đó. Theo cách thức này, thay thế việc phát triển cạnh tranh, cổ
phần, bảo hiểm tiền mặt và cam kết sẽ bồi thường cho chủ tàu trong trường
hợp tàu mất tích. Những công ty bảo hiểm nảy đã tạo lập một quỹ chung
dùng để thanh toán cho người được bảo hiểm khi xảy ra tổn thất. Vào thời kỳ
đầu, người nhận bảo hiểm phải bán một số tài sản (hoặc rút tiền từ tài khoản
ngân hàng) để thanh toán bồi thường cho người được bảo hiểm khi tổn thất
xảy ra. Nguyên tắc này vẫn đang được áp dụng tại Lloyd s ở Luân đôn nộp
hiện nay hình thức cam kết thanh toán bồi thường vẫn lả cơ sở của hợp đồng..
Các cá nhân có tên tại Lloyd s cam kết bồi thường bằng tiền của chính mình
khi những rủi ro họ nhận bảo hiểm xảy ra. Thuật ngữ "khai thác bảo hiểm"
mang nghĩa chính xác của từ: Người ta soạn ra một văn bản giấy tờ nêu rủi ro
(điều được bảo hiểm, hoàn cảnh thời gian bảo hiểm) và người nhận bảo hiểm
(hoặc đại diện của mình) ghi ở dưới những thông số, rủi ro mà anh ta nhận.
Một số nhả kinh doanh bảo hiểm nhanh chóng nhận ra rằng nhiều
thành viên cộng đồng không muốn một mình bảo hiểm những rủi ro lớn như
vậy theo như kiểu khai thác bảo hiểm của Lloyd s. V vậy ở một hoàn cảnh
khác khái niệm cổ phần đã trở nên sống động hơn. Người ta kêu gọi mọi
người mua cổ phần của các công ty bảo hiểm. Công ty bảo hiểm được thuê
chuyên gia để khai thác bảo hiểm và bồi thường cho người được bảo hiểm
bằng tiền trích từ quỹ chung đã được đầu tư Quỹ này xây dựng trên cơ sở tiền
1

công ty thu được sau k/11 bán cổ phần cho cổ đông cộng thu nhập nhờ đầu tư
tiền quỹ và phí đóng bảo hiểm. Chỉ cần khai thác viên chuyên nghiệp tính
toán tất trong việc nên chấp nhận rủi ro nào và phải bảo hiểm là bao nhiêu thì
quỹ này sẽ luôn có khả năng bồi thường tổn thất và trả lãi cổ phần để cho các
cổ đông hải lòng với việc đầu tư của họ.
Vào những ngày đầu, lĩnh vực đầu tiên của công ty bảo hiểm là bảo
hiểm hỏa hoạn. Tại những thành thị đông đúc của thế kỷ 17, hầu hết nhà cửa
đều dựng bằng gỗ, người ta dùng lứa để sưởi, đun nấu và dùng nến để chiếu
sáng vì vậy rủi ro nhả bắt lửa rất cao. Ở xã hội lâng xóm trước khi thành thị
hóa khi một ngôi nhà bị cháy, hàng xóm sẽ giúp xây dựng lại. Nguyên tắc trợ
giúp tương hỗ trực tiếp được áp dụng. Ngược lại ở thành phố, hàng xóm của
gia đình có nhà bị cháy đểu có những nghề nghiệp chuyên môn riêng (Ví dụ:
thợ dệt, thợ chữa giầy thư ký hoặc buôn cá), họ không có khả năng chuyên
môn cúng như thời gian để giúp hàng xóm xây lại ngôi nhà sau khi bị cháy.
Thay thế vào đó họ đóng phí bảo hiểm cho một công ty bảo hiểm để nhận
được hai cam kết:
- Cung cấp dịch vụ hỏa hoạn (như dập lửa ngăn lan sang nhà khác và hạn
chế đến mức thấp nhất mức độ vụ cháy).
Bồi thường bằng tiền mặt cho người được bảo hiểm để thuê mướn
những thợ chuyên môn cần thiết (thợ xây, thợ ngói, thợ mộc... v.v) sửa chữa
lại hư hỏng (hoặc xây lại trong trường hợp nghiêm trọng).
Điều khoản bồi thường đã được sửldụng vài lần và sẽ được giải thích rõ
hơn ở phần sau. Trong bảo hiểm phi nhân thọ nó có nghĩa bảo đảm cho người
được bảo hiểm có tình hình tài chính giống như khi rủi ro được bảo hiểm
không xảy ra. Mục đích của nó là khôi phục lại (càng sát càng tốt) vị trí giống
như khi rủi ro bảo hiểm chưa xảy ra. Ngoài thanh toán bằng tiền mặt, công ty
bảo hiểm còn có khả năng lựa chọn khác, điều này sẽ được đề cập đến ở
chương sau. Cùng với bảo hiểm hỏa hoạn, các quỹ bảo hiểm nhân thọ ra đời.
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ không phái là hợp đồng bồi thường. Mục
đích của nó là cung cấp một khoản tiền cụ thể khi xảy ra những trường hợp
nêu tại hợp đồng bảo hiểm. Không ai biết được tuổi thọ của con người. Ai
cũng sẽ chết nhưng rõ ràng là người ta không thể chắc chắn được tuổi thọ của
một ai đó là bao nhiêu. Chỉ một phần trong số nhân loại qua đời mỗi năm, số
này bao gồm mọi lứa tuổi từ một ngày tuổi đến 110 tuổi (mặc dù tuổi thọ
trung bình là dưới 80 tuổi). Các nguyên tắc tính toán để thành lập quỹ bảo
hiểm nhân thọ chung sẽ được đề cập chi tiết ở chương sau. Tuy nhiên ở đây
ta cũng cần phải chú ý một điểm là: vào giữa thế kỷ 18, người ta đã thiết lập
các công ty, tổ chức tương hỗ đế thực hiện bảo hiểm nhân thọ cho công
chúng.
2

nguon tai.lieu . vn