Xem mẫu

  1. Hoàng Mi Trường Đại học Kinh tế - Tài chính thành phố Hồ Chí Minh - UEF Tóm tắt: Nghiên cứu này tìm hiểu về khả năng áp dụng e- service learning (e-S- L) (học tập phục vụ cộng đồng trực tuyến) thông qua trường hợp một lớp học về kỹ năng tại trường đại học. Kết quả cho thấy đa số sinh viên cảm thấy hài lòng với sự hiện diện của e-S-L và muốn tiếp tục tích hợp e-S-L trong các môn học khác trong tương lai. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng nhận thấy e-S-L không nên được tiến hành trực tuyến 100% vì trải nghiệm tương tác trực tiếp với cộng đồng rất có giá trị đối với sinh viên. Từ khóa: e-service learning, Việt Nam, UEF, sáng kiến chống biến đổi khí hậu, thiết kế dự án 1. Giới thiệu Học tập phục vụ cộng đồng (Service Learning - SL) là một phương pháp giảng dạy kết hợp dịch vụ phục vụ cộng đồng với học thuật. Thuật ngữ này lần đầu tiên được nêu lên vào năm 1967 và đến những năm 1990 đã chứng kiến sự phát triển vượt bậc trong SL, giờ đây SL được coi là một phần quan trọng trong thay đổi giáo dục Trong đó, học tập phục vụ cộng đồng trực tuyến (e-S-L) đã và đang là một lĩnh vực đang phát triển trong bối cảnh giáo dục đại học vì tính linh hoạt và khả năng tiếp cận không biên giới của nó. (Semenski và cộng sự, 2017). Do đại dịch Covid-19, nhiều trường đại học trên thế giới đã sử dụng e-S-L thay vì học tập phục vụ cộng đồng truyền thống (Grenier, Robinson, & Harkins, 2020). Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện chưa có trường đại học nào chuyển sang e-S-L vì nhiều lý do như chưa ứng dụng nhiều học tập phục vụ cộng đồng trước đây, chưa có sự phát triển đồng đều về mặt cơ sở kỹ thuật giữa các bên trong phương pháp học này. Nghiên cứu này nhằm xem xét một một khóa học trong một trường đại học ở Việt Nam, tích hợp học tập phục vụ cộng đồng trực tuyến. Kết quả của nó được sử dụng cho các khuyến nghị trong việc áp dụng e-S-L ở cấp đại học tại Việt Nam hiện nay. 590
  2. 2. Cơ sở lý thuyết 2.1. Các loại e-S-L 2.1.1. Loại e-S-L 1 - hướng dẫn kiến thức online, thực hiện phục vụ cộng đồng trực tiếp tại địa bàn Trong phương pháp này, sinh viên sẽ được hướng dẫn online và sẽ trực tiếp đến cộng đồng để thực hiện dịch vụ. Những hoạt động như reflection hoặc các nhận xét từ cộng đồng cũng sẽ thực hiện online. Đã có một số nghiên cứu thực hiện theo cách này như nghiên cứu Bennett và Green, (2001) cho khóa học quản lý thể thao trực tuyến nhưng có thực hiện dịch vụ cộng đồng tại địa phương hoặc Burton (2003) đã thiết kế khóa học với khóa học trực tuyến với trải nghiệm nhóm 10 ngày tại một địa phương. 2.1.2. Loại e-S-L 2 - hướng dẫn kiến thức trực tiếp, thực hiện phục vụ cộng đồng online Trong cách học này, khóa học được thực hiện một cách trực tiếp trên lớp và dịch vụ được thực hiện hoàn toàn trực tuyến. Loại service learning này thường được áp dụng với dịch vụ cộng đồng mang bản chất công nghệ thông tin như xây dựng trang web, thực hiện khảo sát online…Ví dụ Mosley (2005), trong một khóa học tại Khoa Khoa học Máy tính và Hệ thống Thông tin đã yêu cầu các sinh viên sử dụng các kiến thức trong khóa học để thiết kế web cho các tổ chức phi lợi nhuận tại địa phương mà không cần phải gặp gỡ các tổ chức này. Lazar và Preece, (1999) cũng kết hợp service learning trong khóa học hệ thống thông tin và yêu cầu sinh viên phát triển nhóm cộng đồng trực tuyến cho các nhóm cộng đồng cần sự giúp đỡ như nhóm vận động xã hội cho hội chứng Down, nhóm cộng đồng bác sĩ gây mê…. 2.1.3. Loại e-S-L 3 - hướng dẫn kiến thức và thực hiện phục vụ cộng đồng một phần trên online và một phần trực tiếp Theo phương pháp này, khóa học sẽ được thực hiện theo cả 2 hình thức, online và offline. Service learning cũng sẽ thực hiện theo cả 2 hình thức như khóa học. Ví dụ như Blackwell (2008) đã kết hợp giảng dạy kiến thức y khoa lâm sàng tại lớp với hướng dẫn kinh nghiệm trực tuyến để cung cấp cho sinh viên cơ hội thực hành chăm sóc điều dưỡng toàn diện trong chương trình giáo dục điều dưỡng. Ông yêu cầu sinh viên phải tham dự năm giờ giảng tại lớp và bốn giờ tại phòng khám. Ngoài ra, sinh viên có thể tham gia hệ thống quản lý khóa học trực tuyến cho phép sinh viên truy cập để tải tài liệu, nộp bài tập và lên kế hoạch trước khi đến phòng thí nghiệm. Đối với phần phục vụ cộng đồng, sinh viên phải luân chuyển trong các cơ sở điều dưỡng y tế cộng đồng, điều dưỡng sức khỏe tâm thần cộng đồng, hoặc đơn vị chăm sóc dài hạn. Trong một khóa học nghiên cứu về tiếp thị, McGrett (2006) đã giao nhiệm vụ cho các sinh viên phát triển kế 591
  3. hoạch tiếp thị cho một tổ chức lịch sử địa phương. Các sinh viên đã gặp gỡ khách hàng trực tuyến và trực tiếp trong suốt học kỳ. Khóa học cũng được thực hiện cả trực tuyến và trong lớp học, vì vậy sinh viên đã gặp mặt trực tiếp với người hướng dẫn ít nhất một lần một tuần. McGrett nhận thấy rằng hiệu suất của sinh viên trong khóa học này không khác biệt đáng kể so với các khóa học nghiên cứu tiếp thị khác được cung cấp hoàn toàn trực tuyến hoặc ở dạng truyền thống. 2.1.4. e-S-L - hướng dẫn kiến thức và thực hiện phục vụ cộng đồng online 100% Theo phương pháp này, cả khóa học hướng dẫn kiến thức và dịch vụ phục vụ cộng đồng đều được tiến hành trực tuyến hoàn toàn. Đã có một số nghiên cứu về cách thực hành này trước đây bao gồm Malvey at al. (2006) cho khóa học về giáo dục quản lý sức khỏe, Hunter (2007) với lớp tiếp thị trực tuyến. Trong khóa học của Hunter (2007), Học sinh được giao trách nhiệm thực hiện các phương pháp về nghiên cứu về tiếp thị. Sinh viên cũng soạn thảo các tờ giới thiệu, tài liệu quảng cáo, một tờ rơi, một trang web, một quảng cáo, một mẫu thư cảm ơn cho những người nhận nuôi / tặng vật nuôi cho một tổ chức xã hội chăm sóc thú nuôi. 2.2. Tác dụng của e-S-L Mô hình Service-learning được chứng minh là mang lại nhiều lợi ích cho giáo dục cho cả giảng viên và sinh viên bao gồm phát huy sự chấp nhận tính đa dạng, trách nhiệm, sự tin cậy và quan tâm đến người khác, cải thiện sự hài lòng của sinh viên, tăng sự gắn bó của sinh viên, cũng như phát triển mối quan hệ giữa trường đại học với cộng đồng. Nhìn chung, nghiên cứu trước đây (Yusof, Atan and Harun, 2018) cho thấy e-S-L có hiệu quả tích cực trong việc học tập. Mô hình e- S-L cung cấp nền tảng để phát triển các công cụ giúp các nhà giáo dục được trao quyền như người hướng dẫn, sinh viên được tự chủ và tự định hướng, trở thành những người tích cực và tham gia đầy đủ vào việc thực hành và phản hồi. 2.3. Mô hình áp dụng của e-S-L Mô hình của là sự kết hợp của 4 mô hình đã và đang được áp dụng trong hình thức (1) Mô hình học tập phục vụ cộng đồng (Dewey, 1938): phục vụ cộng đồng có thể được tích hợp với giáo dục để tạo ra trải nghiệm học tập đích thực (2) Mô hình Yêu cầu Cộng đồng (Garrison và Arbaugh, 2007): kết quả học tập tốt là sự kết hợp của của giảng dạy, trải nghiệm xã hội và nhận thức. (3) Lý thuyết tự quyết định (Ryan và Deci, 1985): việc giảng dạy và sự hiện diện xã hội tạo ra động lực bên ngoài và bên trong tương ứng đối với quá trình học tập của học sinh. (4) Khung Mô Hình Tích hợp Học tập Dịch vụ với Khóa học Trực tuyến (Yusof, Atan và Harun, 2018): Các sinh viên nghiên cứu nội dung học thuật, thực hiện dịch vụ cộng đồng và đánh giá tương tự như mô hình học tập phục vụ cộng 592
  4. đồng truyền thống (Dewey, 1938) và mô hình Yêu cầu Cộng đồng (Garrison và Arbaugh, 2007), với sự tự quyết định (Ryan và Deci, 1985). Những điều khác biệt ở đây là các phương tiện, là môi trường trực tuyến, với mục đích tối ưu hóa kết quả học tập. 3. Phương pháp: Đối tượng tham gia: 39 sinh viên tại UEF, tuổi từ 18 - 19. Nội dung học tập: khóa học thiết kế dự án, trong đó sinh viên được yêu cầu phát triển một dự án theo 7 bước. Khóa học được tiến hành trực tiếp tại lớp. Bên cạnh đó, sinh viên được nhận thông tin, thảo luận trên diễn đàn trực tuyến (UEF LMS - https://lms.uef.edu.vn/) và trao đổi nhóm trên Zalo (một nền tảng mạng xã hội tại Việt Nam) và gửi bài tập của mình lên UEF LMS Phục vụ cộng đồng: sinh viên được yêu cầu sử dụng các kỹ năng, kiến thức đã học được để đưa ra các sáng kiến và giải pháp xây dựng môi trường sống an toàn, giảm thiểu rủi ro do thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu. Ý tưởng của các em được đóng góp trong cuộc thi “Gia đình an toàn trước thiên tai và biến đổi khí hậu”, do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Tổ chức Plan International Việt Nam tổ chức. Các em sẽ tìm hiểu các thông tin cần thiết về cộng đồng chủ yếu trên môi trường trực tuyến Đánh giá: Trong suốt khóa học, sinh viên đã viết đánh giá, cảm nhân về trải nghiệm của mình hai lần, đây cũng là một phần yêu cầu của khóa học. Bên cạnh đó, học viên được hỏi về trải nghiệm của mình trong một cuộc khảo sát trực tuyến sau khi kết thúc khóa học. Dữ liệu được phân tích về số lượng và chất lượng để tìm ra xu hướng và lý do nằm sau các trải nghiệm của sinh viên. 4. Kết quả Trải nghiệm về nền tảng trực tuyến dành cho việc học: 95,8% người trả cảm thấy hài lòng với việc sử dụng UEF LMS để gửi bài làm và nhận các tài liệu học tập, điều này cho thấy tiềm năng tích hợp một phần của bài học trên nền tảng trực tuyến. Nền tảng trực tuyến UEF LMS 593
  5. Nhóm lớp trên mạng xã hội Zalo để thảo luận Các sáng kiến và giải pháp của học sinh cho cộng đồng ở các khu vực bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu và thiên tai rất đa dạng, từ các chiến dịch truyền thông đến các lớp học kỹ năng dành cho người dân. Trong đó, 33,3% sáng kiến tập trung vào các sản phẩm công nghệ như giếng khoan có lõi lọc, máy hút rác tự động. Điều này cho thấy khả năng đóng góp của sinh viên trong cộng đồng từ những hoạt động phục vụ cộng đồng trực tuyến. Mở lớp dạy kỹ năng sinh tồn cho người dân ở các khu vực bị ảnh hưởng Chiến dịch truyền thông để trồng rừng 594
  6. Làm giếng có lõi lọc Mở một lớp học cho người dân ở các khu vực bị ảnh hưởng để hướng dẫn cách tiết kiệm và đầu tư tiền Kết quả phản ánh vào cuối khóa học cho thấy phần lớn sinh viên hài lòng với e-S-L tích hợp trong môn học Thiết kế Dự án. 95.8% Tỷ lệ sinh viên hài lòng với e-S-L 100% Tỷ lệ sinh viên muốn các khóa học tiếp theo có hoạt động phục vụ cộng đồng tương tự 100% Tỷ lệ sinh viên quan tâm đến cộng đồng nhiều hơn sau khóa học này Tuy nhiên, 95,8% người trả lời cũng muốn có cơ hội gặp gỡ trực tiếp cộng đồng để hiểu hơn về nhu cầu của họ. 25% sinh viên cho biết mặc dù họ hài lòng với hoạt động phục vụ cộng đồng trực tuyến, họ vẫn muốn có nhiều hoạt động 595
  7. thực tế hơn trong lĩnh vực này. Điều này cho thấy hoạt động phục vụ cộng đồng không phù hợp để tiến hành trực tuyến 100% vì sẽ không đem lại trải nghiệm học tập như kỳ vọng cho sinh viên. 5. Thảo luận Kết quả cho thấy e-S-L là một phương pháp phù hợp trong giáo dục đại học ở Việt Nam khi nền tảng công nghệ đã đủ chín muồi để đưa vào áp dụng. Tuy nhiên, thực hiện e-S-L theo trường phái cực đoan (100% online) sẽ không tạo ra kết quả học tập tốt nhất vì sinh viên muốn có thêm kinh nghiệm thực tế. e-S-L mở ra một cơ hội lớn để nhiều sinh viên được tiếp xúc đối tác cộng đồng hơn để thu được các kinh nghiệm học tập quý giá từ các cộng đồng này. Việc phát triển một phương thức phù hợp để phát triển e-S-L giữa trường và đối tác mang lại cơ hội trau dồi kỹ năng chuyên môn phù hợp và dễ thực hiện. Ngày nay, càng lúc càng có nhiều sinh viên theo học các khóa học trực tuyến, nhưng chỉ một số ít được tiếp xúc với e-S-L. Để duy trì tính phù hợp, học tập phục vụ cộng đồng cũng phải thực hiện trực tuyến. Do đó, cần có nhiều hơn các nghiên cứu trong lĩnh vực này, cả về cơ sở lý thuyết lẫn thực hành trong thực tế để tìm ra cách áp dụng e-S-L đơn giản và phù hợp với môi trường Việt Nam. Tài liệu tham khảo: [1]. Blackwell, C. W. (2008). Meeting the objectives of community-based nursing education. In A. Dailey-Hebert, E. Donnelli-Sallee, & L. DiPadovaStocks (Eds.), Service-eLearn- ing: Educating for citizenship. (pp. 87-94). Charlotte, NC: Information Age Publishing. [2]. Bennett, G., & Green, F. P. (2001). Promoting service learning via online instruction. College Student Journal, 35(4), 491-497 [3]. Burton, E. (2003). Distance learning and service-learning in the accelerated format. New Directions for Adult and Continuing Education, 2003(97), 63-72. [4]. Dewey, J., Education and Experience. Indianapolis, IN: Kappa Delta Pi, 1938. [5]. Hunter, D. (2007). The virtual student/client experience. Journal of American Academy of Business, 12(1), 88-92. [6]. Lazar, J., & Preece, J. (1999). Implementing service learning in an online communities course. In 14th Annual Conference International Academy for Information Management (pp. 22-27). Charlotte, NC. Retrieved from https://www.researchgate.net/profile/Jen- nifer-Preece/publication/249863058_Implementing_Service_Learn- ing_in_an_Online_Communities_Course/links/543bc55b0cf24a6ddb979e80/Imple- menting-Service-Learning-in-an-Online-Communities-Course.pdf [7]. Malvey, D. M., Hamby, E. F., & Fottler, M. D. (2006). E-service learning: A pedagogic innovation for healthcare management education. Journal of Health Administration Ed- ucation, 33(2), 181-198. [8]. Mosley, P. (2005). Redesigning web design. Academic Exchange Quarterly. Retrieved from http://csis.pace.edu/csis/data/comArchive/techReport216.pdf 596
  8. [9]. Grenier, L., Robinson, E., & Harkins, D. A. (2020). Service-learning in the COVID19 era: Learning in the midst of crisis. Pedagogy and the Human Sciences, 7 (1). Retrieved from https://scholarworks.merrimack.edu/phs/vol7/iss1/5 [10]. Garrison, D. R., & Arbaugh, J., Researching the community of inquiry framework: Re- view, issues, and future directions. The Internet and Higher Education, 10(3), 157-172, 2007.doi:10.1016/j.iheduc.2007.04.001. [11]. Ryan, R. M., & Deci, E. L., Self-determination theory and the facilitation of intrinsic motivation, social development, and well-being. American Psychologist, 55, 68-78, 2000. [12]. Semenski, Sara & Harte, Aidan & Mikelic Preradovic, Nives. (2017). Service-learning and digital technologies. 283-289. 10.17234/INFUTURE.2017.28. [13]. Yusof, Azizah & Atan, Noor & Harun, Jamalludin & Doulatabadi, Mehran. (2018). To- wards A Conceptual Framework for Service-Learning in Online Learning Environment. 597
nguon tai.lieu . vn