- Trang Chủ
- Triết học
- ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG - Quá trình chuyển sang thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN
Xem mẫu
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG CAO ĐẲNG KTKT BÌNH DƯƠNG
KHOA KINH TẾ - QUẢN TRỊ
BÀI TIỂU LUẬN
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI
Trình bày kết quả,ý nghĩa,phân tích những hạn chế,nguyên nhân của
quá trình chuyển sang thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN
ở nước ta sau 20 năm đổi mới?
Giảng viên hướng dẫn: Lê Thị Hiền
Thành viên nhóm G6:
Sinh viên MSSV
Lê Thị Mai : C08K09A 4720
Trần Thị Sang : C08K09A 4056
Trần Thị Ngát : C08K09A 4736
Nguyễn Thị Hà: C08K09A 1019
Trần Thị Mỹ Linh: C08K09A 4704
Hồ Nguyễn Diệu Hiền:C08K09A 4664
Bình Dương, Ngày 20 tháng 04 năm 2010
1
- NỘI DUNG
QUÁ TRÌNH CHUYỂN SANG THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA SAU 20 NĂM ĐỔI MỚI
I.KẾT QUẢ VÀ Ý NGHĨA
II.HAN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN
III. NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH THÀNH CÔNG CỦA SỰ NGHIỆP ĐỔI
MỚI
IV.BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Kết quả và ý nghĩa
I.
1.Kết quả
Sau 20 năm đổi mới kể từ Đại hội Đảng VI năm 1986, Việt Nam đã
ra khỏi khủng hoảng kinh tế, đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, tăng
cường cơ sở vật chất được tăng cường, đời sống của các tầng lớp nhân
dân không ngừng được cải thiện.
Từ sau Đại hội Đảng VI (12/1986) đến nay đã có rất nhiều thay đổi
quan trọng trong sản xuất và tiêu dùng, tiết kiệm đầu tư, chính sách tiền
tệ và ngoại thương. Chính sách đổi mới đã tạo ra nguồn động lực sáng
tạo cho hàng tiêu dùng Việt Nam thi đua sản xuất đưa kinh tế đất nước
tăng trưởng trung bình trên 7%/ năm từ 1987.
Thứ nhất: Đổi mới đã chuyển nền kinh tế Việt Nam từ nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung quan lieu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu
trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể, kinh tế tư
nhân đều được khuyến khích phát triển không hạn chế.
Thứ hai:Chế độ sở hữu với nhiều hình thức và cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần được hình thanh trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
2
- kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân đều được khuyến khích phát triển không
hạn chế. Đã chuyển một nền kinh tế khép kín, thay thế nhập khẩu là chủ
yếu sang nền kinh tế mở, chủ động hội nhập, hướng mạnh về xuất khẩu.
Thứ ba:Các loại hình thị trường đã ra đời và từng bước phát triển
thống nhất trong cả nước, gắn với thị trường khu vực và thế giới.Cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước đã và đang đi vào cuộc sống thay
thế cho cơ chế kế hoạch hoá tập trung.Các doanh nghiệp,doanh nhân
được tự chủ sản xuất, kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh.
Thứ tư: Văn hoá và xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt; việc gắn phát
triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tốt, nhất là
trong công cuộc xoá đói, giảm nghèo; đời sống các tầng lớp nhân dân
được cải thiện. Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được
tăng cường; quan hệ đối ngoại có bước phát triển mới.
Cùng với đổi mới kinh tế đã từng bước đổi mới hệ thống chính trị với
trọng tâm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Trong công cuộc đổi mới đó, Đảng ta đã vận dụng đúng đắn, hợp lý
quan điểm toàn diện, đặc biệt là quan điểm toàn diện trong đổi mới kinh
tế ở nước ta hiện nay.
Đảng đã tập trung lãnh đạo xây dựng cơ sở vật chất của CNXH, từng
bước hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, cải thiện đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân lao động.
Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) đã đưa ra đường lối đổi mới
toàn diện đất nước, mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
2. Ý nghĩa
Trải qua 20 năm (1986 - 2006), công cuộc đổi mới toàn diện đất nước
do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo, được nhân dân đồng tình hưởng ứng, đã
đạt được những thành tựu to lớn, và có ý nghĩa lịch sử trọng đại. đặc biệt
3
- là việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và Đại hội X của Đảng trong
những năm gần đây đã đạt được những thành tựu quan trọng trên các mặt
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại.
Những thắng lợi đó đã làm cho thế, lực và uy tín của đất nước ta trên
trường quốc tế không ngừng được nâng cao; cán bộ, đảng viên và nhân
dân phấn khởi, đồng thuận, tin tưởng vào công cuộc đổi mới và triển
vọng phát triển của đất nước, vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của
Nhà nước.
Những thắng lợi đó đã góp phần đẩy lùi đáng kể những nhận thức
lệch lạc, những biểu hiện tiêu cực trong xã hội; làm tăng thêm lòng yêu
nước,lòng tự hào dân tộc, tình đoàn kết và tương thân, tương ái của người
Việt Nam; phát huy tính năng động, tích cực và sáng tạo của người lao
động, cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân, làm thay đổi rõ rệt bộ
mặt của toàn xã hội.
Nhờ đổi mới mà nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội,
kinh tế tăng trưởng nhanh, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ
thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng
cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững.
Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao.
Thắng lợi trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc đã khẳng định sự lãnh
đạo của đảng là một tất yếu khách quan, một nhân tố quyết định sự thành
công của cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới.
Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng
đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp
với thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận
về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ
4
- III. Hạn chế và Nguyên nhân
1.Hạn chế
Một là: Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Quy mô nền kinh tế còn
nhỏ.. Trình độ khoa học, công nghệ, năng suất lao động còn thấp; Nhiều
nguồn lực và tiềm năng trong nước chưa được huy động và khai thác tốt.
Đầu tư của Nhà nước dàn trải, bị thất thoát nhiều. Lãng phí trong chi tiêu
ngân sách nhà nước và tiêu dùng xã hội còn nghiêm trọng.
Hai là: Cơ chế, chính sách về văn hóa - xã hội chậm đổi mới; nhiều
vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt. Thành tựu xóa đói, giảm
nghèo chưa thật vững chắc, nguy cơ tái nghèo còn lớn. Chênh lệch về thu
nhập, mức sống giữa các tầng lớp nhân dân, giữa các vùng có xu hướng
tăng. Nhu cầu bức xúc về việc làm ở các thành thị và nông thôn chưa
được đáp ứng tốt. Nhiều vấn đề xã hội quan trọng chưa được giải quyết
thỏa đáng.
Giáo dục và đào tạo chất lượng còn thấp, cơ cấu chưa hợp lý Khoa
học và công nghệ chưa đáp ứng kịp yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.Quản lý nhà nước đối với một số lĩnh vực trong y tế,
thể dục thể thao còn yếu kém.Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn
trọng.
nghiêm
Ba là: Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt
hạn chế.Sự phối hợp giữa an ninh, quốc phòng và đối ngoại trong việc
giải quyết một số vấn đề cụ thể thiếu chặt chẽ.Tệ nạn xã hội chưa
được đẩy lùi, gây tâm tư lo lắng và bức xúc cho nhân dân. Tội phạm và
một số tệ nạn xã hội có chiều hướng tăng. Tai nạn giao thông gây ra
nhiều thiệt hại về người của.
và
Bốn là: Tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân còn một số khâu chậm đổi mới. Việc thực hiện vai
trò giám sát của Quốc hội còn lúng túng.. Cải cách hành chính chậm, cải
5
- cách tư pháp mới bước đầu được triển khai, chưa đáp ứng yêu cầu phát
triển. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở nhiều
nơi còn thụ động, mang tính hành chính, hình thức. Dân chủ trong xã hội
còn bị vi phạm. Kỷ cương, kỷ luật ở một số cấp và lĩnh vực không
nghiêm.
Năm là: Chất lượng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa đáp ứng
được yêu cầu đề ra. Nhiều tổ chức cơ sở đảng thiếu sức chiến đấu và
không đủ năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh.Công tác
tư tưởng thiếu sắc bén và tính chiến đấu chưa cao; phương pháp thiếu
linh hoạt, còn bị động và kém hiệu quả. Công tác lý luận chưa làm sáng tỏ
được một số vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới..Chất lượng và
hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao.
2.Nguyên nhân
Việc hoạch định và thực hiện các chủ trương, chính sách thúc đẩy
phát triển và vận hành hệ thống thị trường chưa đồng bộ; một số nguyên
tắc của thị trường bị vi phạm; tư duy bao cấp chưa được khắc phục triệt
để.
Việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN là vấn đề
hoàn toàn mới chưa có tiền lệ trong lịch sử. Nhận thức về kinh tế thị
trường định hướng XHCN còn nhiều hạn chế do công tác lý luận chưa
theo kịp đòi hỏi của thực tiễn.
Năng lực thể chế hoá và quản lý, tổ chức thực hiện của Nhà nước còn
chậm, nhất là trong việc giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc
Đội ngũ cán bộ làm công tác lý luận còn bất cập so với yêu cầu; công
tác lãnh đạo, quản lý các hoạt động lý luận chậm đổi mới. Công tác
truyền thông, báo chí có một số mặt yếu kém, khuyết điểm kéo dài chậm
được khắc phục.
6
- Tình trạng nói nhiều làm ít, làm không đến nơi đến chốn hoặc không
làm còn diễn ra ở nhiều nơi. Hiệu lực quản lý nhà nước còn thấp đối với
một số lĩnh vực như: quy hoạch, đất đai, xây dựng cơ bản, giá cả, tài
chính, ngân hàng, tài nguyên quốc gia, quyền sở hữu trí tuệ, vệ sinh an
toàn thực phẩm, an toàn giao thông, báo chí, xuất bản... Công tác kiểm tra,
thanh tra chưa thường xuyên và còn thiếu hiệu lực.
Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các
cấp yếu kém về phẩm chất và năng lực, vừa thiếu tính tiên phong, gương
mẫu vừa không đủ trình độ, năng lực hoàn thành nhiệm vụ.
IV. Nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới
Đảng Đề ra cương lĩnh, đường lối đúng để lãnh đạo đất nước, dẫn
dắt cả dân tộc đi lên, tránh được sai lầm, là trách nhiệm cao cả và là vấn
đề cốt tử của Đảng cầm quyền.
Tại Đại hội VI(12/1986)trên cơ sở nhìn thẳng vào sự thật, dũng cảm
thừa nhận sai lầm, khuyết điểm, bằng trí tuệ và tinh thần đoàn kết, nhất
trí cao, Đảng ta đã tìm ra con đường đổi mới trong xây dựng chủ nghĩa xã
hội, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, từng bước tiến lên.
Quyết định đúng đắn của Đại hội VI và sự lãnh đạo, tổ chức thực
hiện kiên quyết của Đảng phù hợp với thực tiễn đã từng bước làm thay
đổi cục diện đất nước với sự tăng tiến của nền kinh tế, đặc biệt là trên
những lĩnh vực liên quan trực tiếp tới sự đảm bảo đời sống của nhân dân
như lương thực và hàng hóa tiêu dùng.
Với định hướng và những nguyên tắc đúng đắn của đổi mới được xác
định ngay từ đầu cùng với sự kiên định chính trị trước những biến động
dữ dội khi hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã đã làm cho Đảng ta tránh
được những thất bại mà các đảng cộng sản ở Đông Âu và Liên Xô mắc
phải. Đây là một vấn đề căn bản để giữ vững sự ổn định của đất nước -
7
- mà nhờ đó, Đảng ta tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới trong xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thành công của sự nghiệp đổi mới còn do Đảng ta đã tiến hành những
bước đi đúng đắn, phù hợp với thực tiễn. Đó là việc kết hợp chặt chẽ
ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế
làm trọng tâm đồng thời từng bước đổi mới chính trị một cách thận trọng
và vững chắc.
8
- Mặt khác, Đảng ta luôn bám sát thực tiễn, đúc rút những bài học kinh
nghiệm trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới.
Điều đó càng chứng tỏ, trong điều kiện hiện thực ở nước ta, chỉ có
Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, đội
tiên phong của giai cấp công nhân là lực lượng duy nhất có khả năng lãnh
đạo nhân dân ta đi tới mục tiêu độc lập dân tộc, dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
V. Bài học kinh nghiệm
Một là: Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Đổi mới không phải là xa rời mà là nhận thức đúng, vận
dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành
động cách mạng.
Hai là:Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức
và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động
thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến
hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị. Đổi mới tất
cả các mặt của đời sống xã hội nhưng không làm đồng loạt, dàn đều, mà
phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp; bảo đảm sự
gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ : phát triển kinh tế là
trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hoá - nền tảng
tinh thần của xã hội.
Ba là:Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát
huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy
bén với cái mới. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do
nhân dân. Dựa vào nhân dân, xuất phát từ thực tiễn của nhân dân, thường
9
- xuyên tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy
luật các mặt của cuộc sống để đi lên - đó là chìa khoá của thành công.
Bốn là:Phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức khai thác ngoại lực,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
Phát huy nội lực, xem đó là nhân tố quyết định đối với sự phát triển; đồng
thời coi trọng huy động các nguồn ngoại lực, thông qua hội nhập và hợp
tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát huy nội lực mạnh
hơn, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và
bền vững. Hội nhập và hợp tác quốc tế phải dựa trên các nguyên tắc tôn
trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; giữ vững độc lập dân tộc và
định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và phát triển nền văn hoá dân tộc.
Năm là: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân
dân. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là khâu then chốt, là nhân tố
quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới.Phát huy vai trò Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân,
phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành
công sự nghiệp đổi mới.
Xác lập những mối quan hệ hợp lý giữa Đảng, Nhà nước và Mặt trận
Tổ quốc cùng các đoàn thể nhân dân thông qua hệ thống cơ chế thích hợp,
làm cho tất cả các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị ngày càng vững
mạnh, quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện ngày một tốt hơn, từ
đó tạo ra động lực mạnh mẽ cho công cuộc đổi mới.
VI. Kết luận và một số giải pháp khắc phục những hạn chế
Đổi mới (1986 - 2006) tạo thêm nhiều thuận lợi cho đất nước ta đổi
mới, phát triển kinh tế - xã hội với nhịp độ nhanh hơn, chất lượng cao
10
- hơn. Tuy nhiên, nước ta đang đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen
nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất
cứ thách thức nào. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính
trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên gắn liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn đang diễn ra
nghiêm trọng chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Những biểu hiện xa rời
mục tiêu lý tưởng của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục. Các thế
lực thù địch vẫn đang ráo riết thực hiện âm mưu "diễn biến hoà bình", gây
bạo loạn, lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền", "dân
tộc", "tôn giáo" hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.
Từ các mặt nêu trên, chúng ta khẳng định rằng : Những năm tới tuy
khó khăn còn nhiều nhưng đất nước ta có nhiều cơ hội để tiến lên. Đòi
hỏi bức bách của toàn dân tộc ta lúc này là phải tranh thủ cơ hội, vượt qua
thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn, phát
triển với tốc độ nhanh hơn và bền vững hơn.
Để đổi mới,hoàn thiện quá trình chuyển sang thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHXN chúng ta cần tập trung vào một số giải pháp
khắc phục những hạn chế sau:
Về chính sách đầu tư : Phải nâng cao hiệu quả các chương trình
quốc gia, bảo đảm tính hợp lý trong cơ cấu đầu tư tránh dàn trãi vốn mà
tập trung vốn cho các chương trình trọng điểm, trực tiếp đầu tư vào một
số lĩnh vực thiết yếu, nhất là cơ cấu hạ tầng để tạo ra môi trường ổn
định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn phát đạt, chuyển cơ chế phân
bổ nguồn vốn vay Nhà nước mang tính hành chính sang cho vay theo cơ
chế thị trường, thường xuyên quan tâm xử lý tốt vốn đầu tư, tránh thất
thoát vốn, tăng cường quản lý nợ chính phủ; hoàn thiện cơ chế quản lý
nợ nước ngoài cho phù hợp với tình hình mới.
11
- Về xã hội :Chúng ta chủ trương kết hợp chặt chẽ, hợp lý các mục
tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh
vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước và từng chính sách phát triển.
Khuyến khích mọi người dân làm giàu theo pháp luật, đồng thời thực
hiện có hiệu quả các chính sách xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tốt hơn
công bằng xã hội.
Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng; phát triển mạnh hệ thống
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân. Đổi mới
và hoàn thiện hệ thống y tế theo hướng công bằng, hiệu quả và phát
triển, tạo cơ hội cho mọi người dân được bảo vệ, chăm sóc và nâng cao
sức khoẻ. Xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khoẻThực hiện
tốt các chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, các chính sách ưu đãi
xã hội.
Về văn hoá:Chúng ta chủ trương tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng
cao chất lượng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết
chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới nội dung
và phương thức quản lý của Nhà nước về văn hoá... xây dựng và hoàn
thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá.
xây dựng môi trường, lối sống và đời sống văn hoá của mọi người
dân ở cơ sở, phát huy tinh thần tự nguyện, tính tự quản và năng lực làm
chủ của nhân dân; khuyến khích sáng tạo văn học, nghệ thuật, tạo ra
những tác phẩm, công trình có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật; xây
dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hoá, chú trọng các công
trình văn hoá lớn, tiêu biểu.
Về giáo dục và đào tạo: Chúng ta cần đổi mới cơ cấu tổ chức, nội
dung, phương pháp dạy và học theo hướng "chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã
12
- hội hoá". Phát huy trí sáng tạo, khả năng vận dụng, thực hành của người
học. Đề cao trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội. Phát triển
giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và hệ thống hướng nghiệp, dạy
nghề.
Đổi mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học; gắn đào tạo,
nghiên cứu khoa học công nghệ với sử dụng. Đổi mới cơ chế quản lý
giáo dục.
Nhà nước tăng đầu tư tập trung cho các mục tiêu ưu tiên, các chương
trình quốc gia phát triển giáo dục, hỗ trợ các vùng đồng bào dân tộc thiểu
số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; thực hiện miễn giảm việc đóng
góp và cấp học bổng cho học sinh nghèo, các đối tượng chính sách, học
sinh giỏi.
Về khoa học và công nghệ: Phấn đấu đến năm 2010, năng lực khoa
học và công nghệ nước ta đạt trình độ của các nước tiên tiến trong khu
vực trên một số lĩnh vực quan trọng.
Chúng ta cần đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ theo
hướng Nhà nước đầu tư vào các chương trình nghiên cứu quốc gia đạt
trình độ khu vực và thế giới, xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ
của một số lĩnh vực trọng điểm. Đa dạng hoá các nguồn lực đầu tư, huy
động các thành phần kinh tế tham gia và đẩy mạnh hội nhập quốc tế
trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.
Có chính sách trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng
công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và công nhân kỹ
thuật có tay nghề cao; thu hút các nhà khoa học, công nghệ giỏi ở trong
nước, ngoài nước và trong cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước
ngoài.
Về quốc phòng và an ninh:Chúng ta chủ trương kết hợp phát triển
kinh tế - xã hội với tăng cường sức mạnh quốc phòng và an ninh trên cơ
13
- sở phát huy mọi tiềm năng của đất nước, xây dựng thế trận quốc phòng
toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân; đẩy mạnh xây
dựng các khu vực phòng thủ địa phương,tỉnh, thành phố.
Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, là lực lượng nòng cốt của sức mạnh
quốc phòng - an ninh; nâng cao chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu để
lực lượng vũ trang thực sự là lực lượng chính trị trong sạch, vững mạnh,
tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, luôn
được nhân dân tin cậy, yêu mến.
Về công tác đổi mới,xây dựngchỉnh đốn Đảng: Kiện toàn và đổi
mới hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ
đảng viên, làm cho mỗi tổ chức cơ sở đảng có trách nhiệm tổ chức và quy
tụ được sức mạnh của toàn đơn vị hoàn thành nhiệm vụ chính trị được
giao, mỗi đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, có phẩm chất, đạo
đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm
vụ.
Nâng cao chất lượng nghiên cứu lý luận và đổi mới công tác giáo dục lý
luận chính trị, công tác tư tưởng trong Đảng, nhất là cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo và quản lý chủ chốt các cấp.
Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; tăng
cường quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân; nâng cao chất lượng và
hiệu quả công tác kiểm tra.Lãnh đạo các cấp phải lắng nghe ý kiến của
cấp dưới, của đảng viên và nhân dân; hoàn thiện quy chế kiểm tra, giám
sát trong Đảng; kết hợp giám sát trong Đảng với giám sát của Nhà nước
và giám sát của nhân dân.
Đổi mới tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ. Sắp xếp, đổi mới tổ
chức, bộ máy của Đảng, đặc biệt là các ban đảng, đảng đoàn, ban cán sự
đảng, đảng uỷ khối ở Trung ương và cấp uỷ các địa phương gắn với kiện
14
- toàn tổ chức bộ máy của cơ quan nhà nước, đổi mới tổ chức và hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, bảo đảm tinh gọn, hoạt
động thiết thực, hiệu quả; khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lắp;
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan và người
đứng đầu không rõ. Xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, có cơ cấu hợp lý,
chất lượng tốt. Có cơ chế, chính sách bảo đảm phát hiện, đánh giá, tuyển
chọn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng người có đức, có tài, dù là đảng
viên hay người ngoài Đảng.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, trong đó tập trung đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà
nước bằng đường lối, quan điểm, các nghị quyết; lãnh đạo thể chế hoá,
cụ thể hoá thành Hiến pháp, pháp luật; bố trí đúng cán bộ và thường
xuyên kiểm tra việc tổ chức thực hiện. Đảng lãnh đạo nhưng không bao
biện, làm thay Nhà nước; trái lại, phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động,
sáng tạo của Nhà nước trong quản lý đất nước và xã hội. Đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể xác định đúng
mục tiêu, phương hướng hoạt động; đồng thời phát huy tinh thần tự chủ,
sáng tạo của Mặt trận và các đoàn thể trong xây dựng, đổi mới tổ chức và
hoạt động của mình.
15
nguon tai.lieu . vn