- Trang Chủ
- Kinh tế học
- Động lực văn hóa đối với kinh tế và định hướng xây dựng nền văn hóa phù hợp với yêu cầu phát triển
Xem mẫu
- Bản tin Khoa học Trẻ số 1(2), 2015 27
ĐỘNG LỰC VĂN HÓA ĐỐI VỚI KINH TẾ VÀ ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG NỀN
VĂN HÓA PHÙ HỢP VỚI YÊU CẦU PHÁT TRIỂN
Nguyễn Quốc Toàn
Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM
Email: toannq@buh.edu.vn
(Ngày nhận bài: 26/11/2015; Ngày duyệt đăng: 18/12/2015)
TÓM TẮT
Dựa vào lý thuyết về nguồn gốc văn hóa trong sự phát triển kinh tế của Gregory Clark, bài
viết phân tích những tác động của văn hóa đối với tiến trình phát triển ở Việt Nam, đồng thời
cung cấp những kiến giải về cơ sở hình thành bản sắc dân tộc, nhằm khuyến nghị những định
hướng giúp xây dựng một nền văn hóa phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong thời
buổi hội nhập khu vực và quốc tế.
Từ khóa: phát triển, bản sắc văn hóa, văn hóa và kinh tế
ABSTRACT
Based on the theory of Gregory Clark, the article clarifies the role of culture for economic
development, which analyzes the impact of culture on the development process in Vietnam, is
also provided these explaining the basis of ethnic identity formation, to recommend the guide
to help build a culture of compliance with the requirements of national development in times
of regional integration and international.
Keywords: development, cultural identity, culture and economy
GIỚI THIỆU Dani Rodrik (kinh tế gia người Thổ Nhĩ Kỳ
Đi tìm căn nguyên của sự phát triển kinh tế là và giáo sư Quỹ Ford về kinh tế chính trị quốc
công việc khó khăn, đòi hỏi phải có những tế tại trường John F. Kennedy về quản trị
nghiên cứu phức tạp, lâu dài và chất lượng. chính quyền thuộc Đại học Harvard) thì thể
Đứng trên từng lĩnh vực và giác độ nghiên chế mới là yếu tố quan trọng nhất dẫn đến
cứu khác nhau, nhiều nhà khoa học đã đưa ra thành công trong tiến trình phát triển kinh tế.
hàng loạt các giả thuyết phong phú về nguồn Như vậy, có thể kể ra một loạt các yếu tố ảnh
gốc của sự phát triển. Chẳng hạn, theo Giáo hưởng đến mức độ và tốc độ phát triển như:
sư Jeffrey Sachs – Giám đốc Viện Trái đất con người, tài nguyên thiên nhiên, công
thuộc Đại học Columbia, Hoa Kỳ thì đó nghệ, thể chế… Đó là những yếu tố quan
chính là yếu tố địa lý. Ông cho rằng vị trí trọng nhưng sử dụng chúng để trả lời cho câu
nhiệt đới, không có bờ biển, và sự tùy thuộc hỏi về thành tố sâu xa nhất, căn bản nhất của
vào tài nguyên thô là những yếu tố trực tiếp phát triển thì chưa thuyết phục. Vậy chắc hẳn
cản trở phát triển. Không phải tình cờ mà hầu có một yếu tố cốt lõi đứng đằng sau tất cả các
hết các nước chậm phát triển đều ở vùng yếu tố trên. Theo chúng tôi và dựa trên
nhiệt đới. Nhưng, kinh tế gia cao cấp của nghiên cứu của Gregory Clark thì yếu tố đó
Ngân hàng Thế giới, đã có thời gian làm việc chính là văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc.
ở Việt Nam – David Dollar thì lại khẳng định Nghiên cứu vai trò của văn hóa đối với sự
rằng căn nguyên phát triển của một quốc gia nghiệp phát triển ở Việt Nam có tầm quan
là khối lượng thương mại giữa quốc gia ấy và trọng đặc biệt trong bối cảnh hội nhập hiện
thế giới. Tức là, mức độ hội nhập thương mại nay. Đây không phải là một công việc mới
quốc tế làm gia tăng năng suất, tiến bộ công mẻ, nhưng cần thiết phải được thực hiện trở
nghệ và nâng cao thu nhập quốc dân. Ở khía lại, để khẳng định, xây dựng và phát huy
cạnh khác, theo Daron Acemoglu (giáo sư những môi trường và bản sắc văn hóa phù
môn kinh tế học ứng dụng tại Học viện Công hợp với yêu cầu và xu thế phát triển.
nghệ Massachusetts, đồng tác giả cuốn PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nguồn gốc của Quyền lực, Thịnh vượng và Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng
Nghèo đói – Tại sao các quốc gia thất bại) và phương pháp phân tích và tổng hợp làm
- Bản tin Khoa học Trẻ số 1(2), 2015 28
phương pháp nghiên cứu chủ đạo. Phương biện pháp ấy chỉ làm giàu các quan chức
pháp này được sử dụng để khảo sát và chọn tham nhũng ở các nước đó mà thôi. Tốt hơn,
lọc tư liệu, từ đó tổng hợp thành những nội theo Clark, là cho phép tự do di dân, cho họ
dung cốt yếu để tiến hành phân tích và rút ra cơ hội tiến thân ở các nước tiên tiến.
những định hướng cần thiết. Từ lý thuyết của Clark, chúng ta có thể thấy
rằng văn hóa là nền tảng, là phương thức cơ
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN bản để mỗi dân tộc lựa chọn cung cách đi ra
Căn nguyên văn hóa của phát triển kinh tế khỏi quá khứ của mình. Văn hóa với tư cách
Bằng việc nghiên cứu lịch sử kinh tế thế giới, là động lực của sự phát triển thì phải là văn
Gregory Clark (Giáo sư Lịch sử Kinh tế, Đại hóa được hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa tổng
học California ở Davis – tác giả cuốn A thể, bao gồm toàn bộ các hoạt động và các
farewell to alms: A brief economic history of giá trị sáng tạo còn lại qua lịch sử, thể hiện
the world) cho rằng yếu tố tạo hình nền kinh trên các lĩnh vực lao động, sinh hoạt vật chất
tế của một quốc gia là văn hóa và sự tiến hóa và tinh thần. Văn hóa tác động đến hiệu quả
xã hội của quốc gia ấy chứ không phải yếu tố kinh tế bằng các cách thức sau:
thể chế. Một là, văn hóa thúc đẩy các giá trị được
Clark đã đưa ra hai ví dụ cực đoan trong lịch chia sẻ trong cộng đồng, những giá trị này
sử loài người để chứng tỏ rõ ràng vai trò quy định hành vi mà thành viên của cộng
khống chế của văn hóa. Ví dụ đầu tiên về nền đồng thực hiện trong các quá trình sản xuất
công nghiệp sợi ở Bombay (Ấn Độ). Từ năm mang tính kinh tế. Truyền thống đóng một
1857 đến 1947, công nghiệp tơ sợi ở Bombay vai trò lớn lao đối với cung cách làm việc, và
đã phát triển trong một môi trường hết sức tự điều đó đến lượt mình sẽ ảnh hưởng đến
do, hơn nữa, tổn phí sản xuất hầu như là thấp năng suất lao động, nhất là trong giai đoạn
nhất hoàn cầu. Thế nhưng công nghiệp tơ sợi tích luỹ ban đầu.
ở Bombay không cạnh tranh nổi với Anh, dù Hai là, văn hóa có thể ảnh hưởng đến tính
lương ở Anh cao gấp 5 lần. Ví dụ thứ hai là công bằng, mà tính công bằng này lại được
trường hợp các nước Bắc Âu. Ở Bắc Âu nổi xem xét trong các quyết định liên quan đến
tiếng là thuế cao và hoạt động kinh tế thì bị phân phối các nguồn lực để đạt được thành
kiềm chế khá chặt chẽ bởi nhiều thứ luật lệ, quả chung của cộng đồng.
quy định… Nhưng các nước ấy lại rất phồn Ba là, văn hóa là nhân tố quyết định đến mục
vinh, năng suất đầu người không thua gì Mỹ tiêu kinh tế và xã hội. Văn hóa góp phần định
và tăng trưởng đều đặn. Clark tóm lại, mức hướng nhu cầu tiêu dùng, thông qua đó kích
độ giàu nghèo của một quốc gia không do sự thích phát triển sản xuất và khoa học kỹ
khác biệt ở thể chế khích lệ, song ở cách con thuật.
người đáp ứng các khích lệ ấy. Dù khích lệ Bốn là, việc tăng trưởng kinh tế thuần túy
có thể là yếu ớt, song nếu người dân làm việc cũng cần đến những ảnh hưởng trực tiếp
năng nổ, tích lũy, có tinh thần canh tân, thì hoặc gián tiếp của văn hóa.
kinh tế sẽ phồn thịnh. Ngược lại, dù thể chế Năm là, nếu xem phát triển là một quá trình
có thúc đẩy mạnh mẽ đến đâu, nhưng người tổng thể thì trong đó, văn hóa là tiêu chí hàng
dân biếng nhác, ít tiết kiệm, và không chịu đầu.
vứt bỏ những công nghệ lỗi thời, thì nền kinh Tóm lại, theo Nguyễn Trần Bạt (2011), văn
tế sẽ thất bại. Từ kết luận này, Clark đề xuất, hoá là động lực của sự phát triển chính là quá
để những xã hội nghèo có thể tăng trưởng, thì trình trong đó con người được và tự trang bị
phải thay đổi văn hóa bằng cách giúp những cho mình những kiến thức, những hệ giá trị
người ở các xã hội hậu tiến tiếp cận với các để có thể trở thành một nhân tố tạo ra sự phát
xã hội tiền tiến bởi vì không có xã hội nào có triển
thể phát triển mà không trải qua biến thể văn Văn hóa và phát triển kinh tế ở Việt Nam
hóa. Đồng thời, vì cho rằng văn hóa chứ Trong mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển
không phải thể chế, mới là chìa khóa của kinh tế ở Việt Nam, chúng ta nhận thấy mấy
tăng trưởng, Clark khuyến nghị các tổ chức đặc trưng như sau:
quốc tế không nên cố gắng cải tổ thể chế các Thứ nhất, theo Trần Quốc Vượng (2000), văn
quốc gia chậm tiến bằng viện trợ vì những hóa Việt Nam cổ truyền, về bản chất, là một
- Bản tin Khoa học Trẻ số 1(2), 2015 29
nền văn hóa xóm làng, sức mạnh hay điểm nhận thức xã hội. Nhận thức xã hội kiềm chế
yếu của truyền thống Việt Nam cũng từ đó ở đây chính là lòng đố kỵ, thói quen chê bai
mà ra. Nền văn hóa này dựa trên một cơ sở và “bới lông tìm vết”. Những tật xấu đó có
kinh tế tiểu nông và cơ cấu xã hội làng xóm. nguồn gốc từ nền kinh tế tiểu nông cục bộ,
Ở Việt Nam, cho đến đầu thế kỉ XVI, chỉ có ngắn hạn; từ cơ chế tập trung quan liêu bao
một “kẻ chợ”, một đô thị là Thăng Long, còn cấp. Hai nguyên nhân này, đến lượt nó thì
tất cả là “kẻ quê” với một hệ thống chợ quê cũng là những yếu tố cản trở rất lớn sự phát
và những luồng buôn bán nhỏ, chứ hầu như triển của kinh tế Việt Nam như đánh giá của
không có những luồng thương mại lớn. Trí Ban Kinh tế Trung ương tại Hội thảo Kinh tế
thức Việt phần lớn nằm ở làng quê, là các sư Việt Nam 2016 – 2020 tổ chức vào ngày
sãi, thầy đồ, thầy lang, thầy cúng, thầy bói… 4/9/2015 vừa qua: “Việt Nam vẫn là nền kinh
gắn với nông dân. Ít sách vở, ít lý luận khái tế khuyến khích nhập khẩu để gia công lắp
quát. Bởi những đặc điểm trên đã hình thành ráp và mang tính đầu cơ. Vẫn mang đậm chất
nên một cơ cấu tâm lý dân tộc tiểu nông, hạn nền kinh tế tiểu nông, nhỏ bé, “đóng kín”,
hẹp, chủ tình, ưa dung hòa, làm ăn nhỏ, biện thiếu liên kết, chưa có tầm nhìn toàn cầu.
pháp nửa vời. Công nghiệp nội địa vẫn nặng về khai thác
Thứ hai, xã hội tiểu nông với nền kinh tế tự tài nguyên và gia công, lắp ráp. Chưa thoát
cung tự cấp, đồng thời lại phải thường xuyên được nền hành chính “hành hạ” doanh
chống lại ách xâm lăng nên hầu như trên nghiệp”
dưới vua dân đều có tâm lý nghi kị người Thứ năm, vì chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Nho
nước ngoài, điều đó đưa tới chính sách bế giáo và cơ chế bao cấp nên giáo dục ở Việt
quan tỏa cảng. Về trật tự xã hội thì trọng Sĩ, Nam là giáo dục nặng về nhồi nhét và không
về kinh tế xã hội thì trọng Nông, Công – khuyến khích sự sáng tạo – một trong những
Thương thì chỉ là hạng ba, hạng tư. Mọi hoạt đặc tính để phát triển. Việc du nhập không có
động của người dân đều xoay quanh mục tiêu chọn lọc văn hóa ngoại lai cùng với cơ chế
“An cư lạc nghiệp”, tính di động, lưu động, thị trường đã tạo ra ở Việt Nam nhiều biểu
lãng du là nền móng của một nền kinh tế đô hiện lệch lạc về giá trị đạo đức như thói sĩ
thị hầu như không tồn tại. diện hảo, thói vô trách nhiệm, bệnh vô cảm,
Thứ ba, thành phần chính yếu trong xã hội là bệnh thành tích, tham ô, hối lộ, tham nhũng,
nông dân, mà nông dân thì phải lo toan mọi văn hóa “phong bì”, văn hóa “chạy”. Tất cả
điều, từ thiên tai, thủy lợi đến vua quan, thuế những tệ nạn này đã làm nền kinh tế - xã hội
má nên phát sinh tâm lý cần kiệm, để dành, Việt Nam không thể phát triển tương xứng
an phận thủ thường, có của thì chôn giấu với tiềm năng hiện có của đất nước.
không dám đưa ra kinh doanh. Trong đời Bên cạnh những đặc tính văn hóa gây cản trở
sống thường nhật, người dân cố kết nơi làng cho sự phát triển của xã hội, vẫn có những
xóm, mối quan hệ như vậy có cái tốt là mọi biểu tượng đặc trưng văn hóa Việt Nam phù
người gắn bó, cộng cảm, tương trợ đỡ đần hợp với sự nghiệp phát triển. Chủ nghĩa Mác
lẫn nhau, nhưng cũng có mặt xấu là hay đố – Lênin, một tinh hoa văn hóa – văn minh
kỵ, xét nét lẫn nhau. Chính bởi thế, sự dấu phương Tây đã được truyền bá vào Việt
lén phát sinh và dẫn tới buôn lậu – căn tính Nam, kết hợp với tinh hoa văn hóa phương
của xã hội nông nghiệp. Hơn nữa, giới tinh Đông mà chủ yếu nhất là tinh hoa văn hóa
hoa của xã hội là Sĩ, Sư thì lại có tâm lý “nhà truyền thống Việt Nam đã tạo nên tư tưởng
nho thanh bạch”, vui với cảnh nghèo, cá tính Hồ Chí Minh, dẫn tới những thắng lợi kỳ
làm giàu hầu như không có. Làm kinh tế thị diệu của Cách mạng Việt Nam trong thế kỷ
trường thì cần phiêu lưu và có tầm nhìn dài XX. Và, đã từ lâu trong xã hội Việt Nam, cái
hạn, nhưng rủi thay, cái gốc xã hội nông sự HIỆN ĐẠI là đồng nhất với CHỦ NGHĨA
nghiệp của Việt Nam thì không khuyến khích XÃ HỘI – con đường định hướng xã hội chủ
điều đó. nghĩa trở thành kim chỉ nam cho một sự tái
Thứ tư, một trong những điểm khiến cho cấu trúc xã hội muốn vươn tới hiện đại, bởi
kinh tế Việt Nam chưa thể cất cánh là thiếu vì văn hóa Việt Nam truyền thống không
sự hỗ trợ và ủng hộ hiệu quả cho các công ty chấp nhận một sự khác nhau quá sâu sắc giữa
khởi nghiệp, cả về mặt cơ chế chính sách lẫn kẻ giàu và người nghèo. Nên chăng, chúng ta
- Bản tin Khoa học Trẻ số 1(2), 2015 30
hãy bắt đầu suy nghĩ đến nền kinh tế xã hội Ba là, chủ nghĩa Mác – Lênin du nhập vào
“kinh tế - văn hóa” mà nhà sử học Trần Quốc Việt Nam và Việt Nam lựa chọn con đường
Vượng đã đề xuất. phát triển chủ nghĩa xã hội. Đó không chỉ là
Cơ sở hình thành bản sắc văn hóa Việt sự tương xứng với căn tính quốc gia, dân tộc
Nam mà còn đảm bảo được xu thế phát triển của
Văn hóa là thành tố sâu xa nhất của sự phát nhân loại. Điều này đã được Shiba Ryotaro
triển. Nhưng điều gì đã quy định và hình khẳng định trong buổi tọa đàm với chủ đề
thành nên văn hóa. Đứng trên quan điểm duy “Chiến tranh Nhật-Nga và chiến tranh Việt
vật lịch sử, có thể luận giải cơ sở hình thành Nam”: “Nhằm cận đại hóa giai đoạn sản xuất
của bản sắc văn hóa ở Việt Nam dựa trên ở Á châu, không có phương cách gì ngoài
những thành tố sau: chủ nghĩa cộng sản không giáo điều, tức là
Một là, yếu tố địa lý. Việt Nam nằm sát chủ nghĩa cộng sản đã được Á châu hóa”.
Trung Quốc về phía Nam với một diện tích Một số định hướng cơ bản
chỉ vào khoảng chừng một huyện của Trung Từ việc nghiên cứu động lực của văn hóa đối
Quốc, vì vậy hai biện pháp đã được áp dụng với sự nghiệp phát triển kinh tế và cội nguồn
liên tục qua các triều đại trong quá trình giữ của nó, chúng tôi khuyến nghị một số định
nước và dựng nước của Việt Nam là: (i) triệt hướng nhằm xây dựng và phát triển ở Việt
để chống trả mọi xâm lăng quân sự, nhưng Nam một nền văn hóa phù hợp với xu thế và
đồng thời (ii) chấp nhận và tiếp thu các yêu cầu phát triển:
khuôn mẫu văn hóa của Trung Quốc. Hai Thứ nhất, tiếp tục thực hiện Cuộc vận động
biện pháp trên có vẻ mâu thuẫn với nhau học tập và làm theo tấm gương đạo đức của
nhưng lại rất bổ sung cho nhau bởi ba lý do: Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng cách hướng nó
thứ nhất, điều kiện địa lý liền sông liền núi vào chiều sâu của việc thực hành trong đời
của Việt Nam đối với Trung Quốc; thứ hai, sống và công việc hàng ngày;
trong trật tự của thế giới Đông Á cổ truyền, Thứ hai, khuyến khích, cổ vũ và đi đến xây
tình hình bang giao với Trung Quốc thường dựng một nền giáo dục thực học thực dụng,
mang ý nghĩa quyết định đối với sự sống còn thực nghiệp và sáng tạo bằng một sự đổi mới
của nước ta và thứ ba, Trung Quốc là trung về nội dung và phương pháp học tập.
tâm của văn minh Đông Á. Việc chấp nhận Thứ ba, hình thành và lan tỏa văn hóa đọc
các khuôn mẫu văn hóa Trung Quốc có điểm trong dân chúng bằng việc dịch thuật các tác
tiêu cực là thế giới quan của người Việt bị phẩm tiêu biểu của nhiều nền văn minh.
giới hạn bởi thế giới quan Nho giáo và thể Thứ tư, trong việc tiếp thu tinh hoa văn hóa
chế “triều cống” với Trung Quốc là trung nhân loại phải lấy tôn chỉ giữ gìn và bảo tồn
tâm. Điều đó dẫn đến một nền giáo dục bảo bản sắc văn hóa dân tộc làm đầu.
thủ, trọng khoa cử, không khuyến khích sáng Thứ năm, xây dựng một nền văn hóa thực
tạo. Hơn nữa, điều kiện thời tiết khí hậu và hành bằng việc thiết lập các tiêu chuẩn, tiêu
địa hình đất nước thuộc vùng nhiệt đới gió chí tương xứng với các lĩnh vực hoạt động và
mùa, thích hợp cho việc trồng lúa nước, đã các vị trí xã hội khác nhau. Không hô vang
đưa đến sự hình thành một “bầu khí quyển bằng khẩu hiệu mà tập trung trọng tâm vào
tiểu nông” trong tâm lý xã hội Việt Nam. Và hành động thực tiễn.
tâm lý tiểu nông thì không phù hợp với việc Thứ sáu, xây dựng văn hóa doanh nghiệp,
phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường. văn hóa kinh doanh Việt Nam, nâng cao nhận
Hai là, cơ sở kinh tế nông nghiệp trồng lúa thức của xã hội về giới doanh nhân.
nước và mối quan hệ khăng khít nước – làng Thứ bảy, nâng cao vai trò và vị thế, chăm lo
– nhà là một đặc điểm tiêu biểu tạo dựng nên đời sống vật chất và tinh thần cho tầng lớp trí
nhiều đức tính riêng của cộng đồng dân tộc thức của nước nhà.
Việt Nam. Như đã phân tích ở trên, bầu khí
quyển tiểu nông và cơ sở xã hội làng xóm có KẾT LUẬN
điểm hay nhưng cũng có điểm dở, và điểm Tìm hiểu sự phát triển kinh tế từ giác độ văn
dở này lại là lực cản rất lớn cho cơ chế thị hóa để có những chính sách đúng đắn nhằm
trường. giúp các quốc gia thoát nghèo là công việc
đang được tiến hành mạnh mẽ và thu hút
- Bản tin Khoa học Trẻ số 1(2), 2015 31
chuyên gia từ nhiều ngành khác nhau. Trong Việt Nam, đã, đang và sẽ đối mặt với những
giới hạn lý thuyết của Gregory Clark và thực thách thức ghê gớm từ quá trình hội nhập và
tiễn vấn đề ở Việt Nam, chắc chắn là sẽ cạnh tranh quốc tế, thiết nghĩ cần phải thực
không đủ để hiểu đúng đắn và sâu sắc về hiện những cuộc tiếp biến văn hóa để bồi bổ
động lực của văn hóa đối với tiến trình phát cho căn tính dân tộc những phẩm chất quý
triển kinh tế nhưng sẽ góp phần làm sinh giá cần cho sự nghiệp phát triển bền vững và
động thêm luận cứ cho mối tương quan văn lâu dài.
hóa – kinh tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. HUỲNH KHÁI VINH (2001). Những vấn đề văn hóa Việt Nam đương đại. Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội, 2001.
2. NGUYỄN TRẦN BẠT. Văn hóa và Con người. Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2011.
3. PHẠM THANH HÀ (2011). Giữ gìn bản sắc dân tộc Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu
hóa hiện nay”. Nxb Chính trị quốc gia, 2011.
4. PHAN NGỌC (2004). Bản sắc Văn hóa Việt Nam. Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội,
2004.
5. TRẦN HỮU DŨNG. Văn hóa và Tăng trưởng – Đọc “Vĩnh biệt bố thí” (Farewell to
Alms) của Gregory Clark”. Tạp chí Thời đại mới, số 24, tháng 3 năm 2012.
6. TRẦN QUỐC VƯỢNG (2000). Văn hóa Việt Nam – Tìm tòi và suy ngẫm. Nxb Văn hóa
Dân tộc, Hà Nội, 2000.
7. VĨNH SÍNH (2001). Việt Nam và Nhật Bản – giao lưu văn hóa”. Nxb Văn Nghệ TP.HCM
và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học.
8. VÕ VĂN SEN. “Một vài kinh nghiệm của Nhật Bản và con đường hiện đại hóa của Việt
Nam. Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghê, tập 12, số 15 – 2009, Đại học Quốc gia
TP.HCM.
nguon tai.lieu . vn