Xem mẫu

  1. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI ĐỘNG CƠ LỰA CHỌN VÀ SỬ DỤNG TỪ NGỮ TIẾNG ANH CHÊM XEN TRONG GIAO TIẾP TRÊN MẠNG CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TỪ GÓC NHÌN NGÔN NGỮ HỌC XÃ HỘI 1 Dƣơng Quốc Cƣờng, 2Nguyễn Thị Hoàng Anh 1,2 Trƣờng Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng Tóm tắt Sinh viên sử dụng từ ngữ tiếng Anh chêm xen trong giao tiếp trên mạng hiện nay là kết quả của sự giao lƣu, tiếp biến văn hóa – ngôn ngữ trong thời đại toàn cầu hóa. Có thể thấy việc sử dụng từ ngữ tiếng Anh chêm xen trong giao tiếp trên mạng của sinh viên hiện nay là một phần cuộc sống và trạng thái tƣ duy của sinh viên. Sự xuất hiện hiện tƣợng này đã phản ánh đời sống tinh thần, thể hiện tình cảm muôn màu của sinh viên, phát huy tính sáng tạo của sinh viên đối với ngôn ngữ. Đây là một quá trình liên tục, từ chuyển mã, trộn mã đến vay mƣợn. Đặc trƣng nổi bật nhất trong sự lựa chọn ngôn ngữ của sinh viên vẫn là hiện tƣợng trộn mã. Bài báo Động cơ lựa chọn và sử dụng từ ngữ tiếng Anh chêm xen trong giao tiếp trên mạng của sinh viên Đại học Đà Nẵng từ góc nhìn ngôn ngữ học xã hội góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý thuyết cũng nhƣ thực tiễn về phƣơng ngữ xã hội, biến thể của ngôn ngữ giới trẻ trong cảnh huống ngôn ngữ trên mạng hiện đại, góp phần vào việc giữ gìn đƣợc sự trong sáng của tiếng Việt và giáo dục ngôn ngữ trong quá trình hội nhập toàn diện với thế giới. Từ khoá giao tiếp, chêm xen, từ ngữ tiếng Anh, trên mạng, tiếp xúc ngôn ngữ, sinh viên 1. Mở đầu Sự lựa chọn ngôn ngữ là một vấn đề quan trọng và tất yếu sẽ nảy sinh trong giao tiếp ở các môi trƣờng đa ngữ. Đặc biệt, trong giao tiếp đa phƣơng ngữ, khi xuất hiện biến thể, tất yếu sẽ nảy sinh sự lựa chọn ngôn ngữ. Sự lựa chọn ngôn ngữ chịu tác động của nhiều yếu tố, cả chủ quan và khách quan. Trong đó, thái độ ngôn ngữ là một yếu tố chủ quan đóng vai trò quan trọng.Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập thế giới, mở rộng giao lƣu, hợp tác quốc tế, việc sử dụng thành thạo và hiểu biết về tiếng Anh là vấn đề rất quan trọng. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, ngày nay các phƣơng tiện truyền thông đại chúng đã và đang phát triển với tốc độ cao, đặc biệt là các chƣơng trình truyền hình, báo chí, phát thanh... Việc sử dụng từ ngữ tiếng Anh trong các chƣơng trình này đã ngày càng trở nên phổ biến hơn, đặc biệt là các chƣơng trình dành cho giới trẻ. Kinh tế phát triển, đời sống văn hoá, xã hội nâng cao lên rất nhiều, giao lƣu văn hoá và đối thoại văn hoá giữa các dân tộc mở rộng chƣa từng thấy. Cũng từ đó ngôn ngữ trong giao tiếp sinh viên đã nâng cao hơn, ngôn ngữ nói cũng nhƣ viết đƣợc bổ sung thêm rất nhiều từ mới, nghĩa mới, ý mới. Trong khuôn khổ của bài báo, chúng tôi giải quyết vấn đề câu hỏi nghiên cứu đặt ra: mục đích lựa chọn và sử dụng từ ngữ tiếng Anh chêm xen trong giao tiếp trên mạng của sinh viên là gì? Qua đó, nhóm tác giả đề xuất một số khuyến nghị về sử dụng ngôn ngữ sinh viên, đặc biệt là giao tiếp trên mạng. 2. Cơ sở lý luận 2.1. Sự lựa chọn ngôn ngữ 199
  2. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI Giao tiếp là chức năng quan trọng nhất của ngôn ngữ và giao tiếp đƣợc coi là quá trình vận dụng ngôn ngữ. Sự vận dụng này thực tế là một quá trình lựa chọn ngôn ngữ. Nói cách khác trong quá trình sử dụng ngôn ngữ ngƣời sử dụng không ngừng lựa chọn, vì thế, lựa chọn đƣợc coi là một trong những bản chất của việc sử dụng và lý giải ngôn ngữ. Sự lựa chọn ngôn ngữ đƣợc tiến hành ở bất kỳ bình diện nào của ngôn ngữ nhƣ: ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng, v.v… bởi chỉ cần một sự biến đổi nhỏ ở trong một bình diện sẽ tạo nên một ý nghĩa dụng học sâu sắc. Nhìn tổng thể, ―sự lựa chọn ngôn ngữ‖ có thể diễn ra một cách có ý thức theo chủ quan của ngƣời giao tiếp nhƣng cũng có thể diễn ra một cách vô thức, ngoài ý định chủ quan của ngƣời giao tiếp. Từ cách nhìn này có thể quy về hai quá trình lựa chon, đó là: Sự lựa chọn mang tính ngữ cảnh và sự lựa chọn mang tính chiến lƣợc‖ (Nguyễn Văn Khang, 2012, tr. 372 - 373). Cả hai sự lựa chọn này xem ra cũng chỉ là sự lựa chọn của những sự lựa chọn trong khi còn có thêm những sự lựa chọn khác. Vì thế, sự lựa chọn không phải là nhất thành bất biến mà linh hoạt với mục đích cuối cùng là thoả đáng về giao tiếp, tức là ―đúng đắn và hợp lý‖. Trong quá trình giao tiếp con ngƣời phải tiến hành lựa chọn vì ngôn ngữ tự nhiên của chúng ta có ba đặc trƣng nổi trội là dị biến, thƣơng lƣợng và thích nghi. Nhờ ba đặc trƣng này mà con ngƣời có thể vận dụng ngôn ngữ một cách linh hoạt, phù hợp với bối cảnh giao tiếp. Mỗi ngƣời khi giao tiếp đều có ý thức và nhu cầu lựa chọn mã ngôn ngữ cho phù hợp với từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Vì thế, ngay trong một cuộc giao tiếp vì mục đích giao tiếp, ngƣời giao tiếp có thể chọn mã giao tiếp này mà không chọn mã giao tiếp khác hoặc chuyển từ mã này sang mã khác hay trộn mã lại với nhau. Ứng xử ngôn ngữ của mỗi ngƣời đƣợc quy định bởi nhiều nhân tố vừa khách quan vừa chủ quan, trong đó nhân tố chủ quan có tính quyết định. Ứng xử ngôn ngữ là một thành phần của ứng xử văn hóa. Do đó, truyền thống văn hóa, truyền thống ứng xử ngôn ngữ của cộng đồng, của dân tộc có ảnh hƣởng quan trọng đến thái độ ứng xử ngôn ngữ của các thành viên trong cộng đồng. 2.2. Mã và hiện tƣợng chuyển mã, trộn mã trong giao tiếp: Ngôn ngữ học dùng thuật ngữ mã (codes) với nghĩa hệ thống các tín hiệu có thể truyền đạt thông tin. Mỗi ngƣời trong giao tiếp đều có ý thức và nhu cầu lựa chọn mã ngôn ngữ cho phù hợp với từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Vì thế, ngay trong một cuộc giao tiếp, vì mục đích giao tiếp, ngƣời giao tiếp có thể chọn mã giao tiếp này mà không chọn mã giao tiếp khác hoặc chuyển mã này sang mã khác hay trộn các mã lại với nhau. Ngƣời Việt Nam đặc biệt coi trọng giao tiếp và biết ngƣời để lựa chọn đối tƣợng giao tiếp thích hợp. Khi không đƣợc lựa chọn thì ngƣời Việt dùng chiến lƣợc thích ứng một cách linh hoạt (Trần Ngọc Thêm,1999, tr.155-157). Động cơ để thúc đẩy ngƣời nói là một quyết định quan trọng trong việc lựa chọn mã. Có hai cách lựa chọn mã trong giao tiếp là: chuyển mã và trộn mã. Chuyển mã là việc sử dụng hai hoặc trên hai biến thể ngôn ngữ trong một lần đối thoại. Theo Nguyễn Văn Khang, có hai loại chuyển mã: chuyển mã tình huống và chuyển mã ẩn dụ. Chuyển mã tình huống là sự chuyển mã ngôn ngữ theo bối cảnh giao tiếp, tức là dựa trên mối quan hệ xã hội giữa những ngƣời tham gia giao tiếp hội thoại và khung cảnh tiến hành giao tiếp hội thoại để chuyển mã. Còn chuyển mã ẩn dụ là chuyển mã nhằm làm thay đổi phong cách giao tiếp nhƣ khẩu ngữ, ngữ điệu hoặc quan hệ vai giao tiếp. Còn trộn mã là khi ngƣời ta giao tiếp bằng một ngôn ngữ nhƣng lại sử dụng 200
  3. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI một vài thành phần của ngôn ngữ khác và phát âm theo áp lực của ngôn ngữ đang sử dụng (Nguyễn Văn Khang, 2012, tr. 379-388). Quan sát cho thấy, trộn mã không chỉ dừng lại ở đơn vị từ mà còn có thể ở cả các thành phần cao hơn (nhƣ đoản ngữ). Có một câu hỏi đặt ra là, động cơ của chuyển mã, trộn mã, tức là chuyển mã, trộn mã nhằm mục đích gì? Cho đến nay, các công trình của C. Plau (1979), J. Gumpers và E. Hernandez (1969), J. Gumpers (1969)… cũng nhƣ thực tế khảo sát của chúng tôi có thể cho phép khẳng định rằng, chuyển mã, trộn mã trong giao tiếp gắn liền với cơ chế tâm lý và động cơ cũng nhƣ phạm trù hội của ngƣời giao tiếp. Cụ thể là: nhằm nhấn mạnh nội dung mang ngƣời nối muốn thể hiện, nhằm làm nổi bật chủ đề, nhăm làm rõ hơn, làm cho hiểu đúng, khi cảm thấy khó nói ra điều muốn nói, sự khoe khang hay ―tỏ vẻ‖ về bản thân biết ngoại ngữ, do thói quen… Tiếp xúc ngôn ngữ ngày càng đƣợc nhiều ngƣời quan tâm, cả về lý thuyết cũng nhƣ về giá trị ứng dụng.Trộn mã đƣợc xem nhƣ không chỉ là hiện tƣợng ngôn ngữ thuần tuý mà còn là hiện tƣợng của đời sống xã hội và có thể coi là một sản phẩm của sự tiếp xúc ngôn ngữ. Tiếp xúc ngôn ngữ đƣợc hiểu là ―sự tiếp hợp giữa các ngôn ngữ do đƣợc phân bố liền kề nhau về mặt địa lý, sự tƣơng cận về mặt lịch sử xã hội dẫn đến nhu cầu của các cộng đồng ngƣời có những thứ tiếng khác nhau khi giao tiếp với nhau‖ (Bùi Khánh Thế, 2011, tr.46). Xét về bản chất, tiếp xúc ngôn ngữ đƣợc bắt đầu từ việc học thêm một ngôn ngữ khác, nhƣ vậy khi học ngôn ngữ khác thì nội bộ trong một cá nhân đã bắt đầu hình thành quá trình tiếp xúc giữa hai hoặc hơn hai ngôn ngữ. Tuy nhiên, việc học một ngôn ngữ khác này mới chỉ là điều kiện cần để tiếp xúc ngôn ngữ diễn ra, do đó, để tiếp xúc ngôn ngữ xảy ra còn cần phải đƣợc mở rộng ra toàn xã hội - đó chính là ―sự khuếch tán ngôn ngữ‖. 2.3. Chêm xen tiếng Anh là việc giới trẻ sử dụng những đơn vị ngoại lai có gốc tiếng Anh trong giao tiếp trên mạng. Đây là kết quả của sự giao lƣu, tiếp biến văn hoá – ngôn ngữ trong thời đại toàn cầu hoá. Hiện tƣợng này có thể đƣợc hình dung nhƣ một quá trình liên tục, từ chuyển mã, trộn mã đến vay mƣợn, nhƣng đặc trƣng nổi bật nhất trong sự lựa chọn ngôn ngữ của giới trẻ là hiện tƣợng trộn mã (Đỗ Thuỳ Trang, 2018). Chêm xen từ ngữ tiếng Anh trong giao tiếp trên mạng là một biểu hiện của cách ứng xử văn hoá trong xã hội. Trong bối cảnh xã hội hiện nay, khi các định hƣớng giá trị văn hoá – xã hội còn ở trong tình trạng cái cũ vẫn còn, cái mới chƣa ổn định, thì hiện tƣợng chêm xen, thái quá, một cách vô lối, còn có điều kiện phát triển mạnh. 3. Phƣơng pháp nghiên cứu Để nghiên cứu động cơ lựa chọn và sử dụng từ ngữ tiếng Anh chêm xen trong giao tiếp trên mạng của sinh viên Đại học Đà Nẵng và đề xuất các giải pháp phù hợp về sử dụng ngôn ngữ sinh viên nhằm phục vụ công tác chuẩn hoá và giáo dục sử dụng ngôn ngữ hiện nay, phƣơng pháp điều tra khảo sát, tổng hợp phân tích đã đƣợc sử dụng trong nghiên cứu này. Phiếu điều tra gồm 15 câu hỏi, đƣợc thiết kế dựa trên thiết kế mẫu khảo sát của Likert. Tức là, theo sau mỗi câu hỏi có các phƣơng án lựa chọn đƣợc chia thành 5 mức là A. Hoàn toàn đúng, B. Đúng, C. Không hoàn toàn đúng, D. Sai và E. Hoàn toàn sai. Ngƣời tham gia trả lời câu hỏi đồng ý với ý kiến nào thì khoanh tròn vào một trong các chữ cái A, B, C, D, E. 201
  4. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI Nội dung của các câu hỏi đƣợc chia làm các phần sau: 1. Thông tin khái quát; 2. Động cơ sử dụng tiếng Anh; 3. Mức độ sử dụng tiếng Anh; 4. Phạm vi giao tiếp sử dụng tiếng Anh; 5. Hứng thú sử dụng tiếng Anh; 6. Sử dụng tiếng Anh với đối tượng giao tiếp nào. Chúng tôi xác định mẫu khảo sát, tức đối tượng khảo sát, là lựa chọn hai cơ sở giáo dục đại học thành viên của Đại học Đà Nẵng: Trƣờng Đại học Ngoại ngữ và Trƣờng Đại học Kinh tế. Sinh viên học các chuyên ngành đào tạo ngoại ngữ ở Trƣờng Đại học Ngoại ngữ và tất cả sinh viên Trƣờng Đại học Kinh tế đều đƣợc học theo Chƣơng trình đào tạo chất lƣợng cao - đủ đại diện của khách thể nghiên cứu được chúng tôi lựa chọn để xem xét làm rõ bản chất. Để có đƣợc dữ liệu cho nghiên cứu chúng tôi điều tra khảo sát ngẫu nhiên 400 sinh viên Trƣờng Đại học Ngoại ngữ và 300 sinh viên Trƣờng Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng, thu về đƣợc 625 phiếu khảo sát. Nhóm nghiên cứu đã tổng hợp và tiến hành phân tích số liệu bằng SPSS. 4. Kết quả nghiên cứu 4.1. Động cơ sử dụng từ ngữ tiếng Anh Trƣớc hết chúng tôi đi nghiên cứu động cơ của sinh viên Đại học Đà Nẵng sử dụng từ ngữ tiếng Anh chêm xen trong giao tiếp trên mạng từ góc độ chủ quan của những chủ thể giao tiếp. Hiện tƣợng lựa chọn rồi chuyển mã từ ngữ tiếng Anh chêm xen trong giao tiếp trên mạng của sinh viên thƣờng là kết quả của một số động cơ nào đó. Do phiếu điều tra cho phép lựa chọn nhiều phƣơng án nên trong số các sinh viên,với những câu hỏi chỉ cho phép lựa chọn một phƣơng án duy nhất. Trong một số trƣờng hợp, chúng tôi đã có những cuộc trò chuyện trao đổi với sinh viên nói về những hội thoại có chuyển mã, qua đó đề nghị sinh viên cung cấp thêm thông tin về những ý định, mục đích, lý do của mình khi cần thiết. Để tìm hiểu động cơ lựa chọn sử dụng từ ngữ tiếng Anh, chúng tôi nêu câu hỏi: Anh/ chị cho biết động cơ sử dụng từ ngữ tiếng Anh chêm xen trong giao tiếp trên mạng? Kết quả thể hiện trong bảng 4.1. Bảng 4.1. Động cơ sử dụng từ ngữ tiếng Anh trong giao tiếp trên mạng TT Động cơ Tỉ lệ (%) 1 Đề cập đến một chủ đề nhất định. 15,5 2 Do thói quen của ngƣời nói. 19 3 Để luyện tiếng Anh. 19,5 4 Lặp lại thông điệp nhằm nhấn mạnh. 9,5 5 Giảm nhẹ ý thô tục. 5,0 6 Lấp đầy khoảng trống từ vựng. 10,5 7 Thể hiện tâm trạng ngƣời giao tiếp. 5,5 8 Thấy có vẻ sành điệu, phù hợp với sinh viên. 15,5 Nhƣ vậy, kết quả quan sát từ góc nhìn chủ quan của ngƣời nói thông qua một cuộc khảo sát trƣờng hợp bằng phiếu câu hỏi cho thấy sự lựa chọn từ ngữ tiếng Anh của sinh viên – chủ thể giao tiếp là vô cùng đa dạng. Sinh viên những chủ thể giao tiếp trong các hội thoại có sự lựa chọn và chuyển mã có những động cơ thể hiện khá thoải mái, tự nhiên, không cần che giấu. Chúng ta thấy động cơ lựa chọn sử dụng từ ngữ tiếng Anh trong giao tiếp trên mạng đối với sinh viên Đại học Đà Nẵng là để luyện tiếng Anh chiếm tỉ lệ cao nhất 19,5%. 202
  5. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI Khi hai hay nhiều hơn hai ngôn ngữ cùng tồn tại trong cộng đồng giao tiếp, các thành viên trong cộng đồng đó có quyền đƣa ra sự lựa chọn ngôn ngữ cho cá nhân mình. Hơn thế nữa, khi các ngôn ngữ tiếp xúc với nhau, chúng sẽ bổ sung, lấp đầy những khoảng trống từ vựng còn tồn tại ở một trong hai ngôn ngữ. Xét từ khía cạnh ngôn ngữ – văn hóa thì sự lựa chọn rồi chuyển mã có phần tiêu cực ở chỗ hiện tƣợng này là một phần nguyên nhân khiến trên mạng bị mất đi sự trong sáng vốn có của nó. Sự thay thế, loại bỏ những từ trên mạng đã có sẵn bằng các mã tiếng Anh có nghĩa tƣơng đƣơng ngày càng đƣợc sinh viên ƣa dùng bởi tính cập nhật, sự ngắn gọn và tiện ích mà chúng mang lại. Vấn đề cần quan tâm ở đây, theo chúng tôi đó là ý thức của sinh viên làm sao cân bằng đƣợc mức độ và giới hạn của chuyển mã để khi giao tiếp họ vừa gìn giữ, bảo tồn đƣợc tiếng mẹ đẻ lại vừa tiếp thu những cái mới, cái hay của ngôn ngữ toàn cầu nhƣ tiếng Anh. 4.2. Về mức độ sử dụng Để tìm hiểu mức độ sử dụng từ ngữ tiếng Anh chêm xen trong giao tiếp trên mạng, chúng tôi nêu câu hỏi: Anh/ chị vui lòng đánh giá mức độ sinh viên sử dụng từ ngữ tiếng Anh chêm xen trong giao tiếp trên mạng? Kết quả thể hiện ở bảng 4.2. Bảng 4.2. Mức độ sử dụng từ ngữ tiếng Anh chêm xen trong giao tiép trên mạng Đánh giá Tổng số Mức độ Thƣờng xuyên Thỉnh thoảng Ít khi Chƣa khi nào sinh viên sử dụng Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ lƣợng % lƣợng % lƣợng % lƣợng % lƣợng % Chêm xen từ ngữ tiếng 205 32,8 340 54,4 76 12,2 4 0,6 625 100 Anh Qua bảng trên, chúng ta thấy, chiếm số lƣợng sinh viên đông nhất vẫn là thỉnh thoảng sử dụng (54,4 %); số sinh viên thường xuyên sử dụng chiếm tỉ lệ thấp hơn (32,8 %); tiếp đến là những sinh viên cho rằng ít khi sử dụng chiếm tỉ lệ thấp (12,2); và cuối cùng là những sinh viên khẳng định chưa khi nào sử dụng chiếm tỉ lệ thấp nhất (0,6%). Hiện tƣợng sử dụng từ ngữ tiếng Anh chêm xen vào giao tiếp trên mạng là hiện tƣợng phổ biến, hầu nhƣ sinh viên đều ít nhất một vài lần sử dụng. Tuy nhiên, việc sử dụng chêm xen này diễn ra không thƣờng xuyên, chỉ dừng lại ở mức độ thỉnh thoảng. Hiện tƣợng này xuất hiện lan tràn trên các trang điện tử, các diễn đàn,... thậm chí trên cả một số phƣơng tiện giáo dục - truyền thông nhƣ báo chí, đặc biệt là những tờ báo hƣớng tới đối tƣợng chủ yếu là giới trẻ với mức độ sử dụng khác nhau. 203
  6. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI 4.3. Phạm vi sử dụng Về phạm vi sử dụng từ ngữ tiếng Anh chêm xen trong giao tiếp trên mạng, chúng tôi nêu câu hỏi: Anh/ chị thường sử dụng từ ngữ tiếng Anh chêm xen trong giao tiếp trên mạng ở đâu? Kết quả thể hiện trong bảng 4.3. Bảng 4.3. Phạm vi sử dụng từ ngữ tiếng Anh chêm xen trong giao tiếp trên mạng Phạm vi sử dụng Không Nhà trƣờng Gia đình Các nơi khác Mọi nơi Nội dung nơi nào Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ lƣợng % lƣợng % lƣợng % lƣợng % lƣợng % Chêm xen từ ngữ tiếng 125 20 95 15 349 56,1 4 0.6 52 8,3 Anh Khi trả lời câu hỏi về phạm vi sử dụng từ ngữ tiếng Anh chêm xen vào giao tiếp trên mạng, chỉ có 4 sinh viên, tỷ lệ 0,6% khẳng định mình sử dụng từ ngữ tiếng Anh vào giao tiếp trên mạng ở mọi nơi, 15% sinh viên khảo sát sử dụng từ ngữ tiếng Anh chêm xen vào giao tiếp trên mạngở gia đình, 20% ở nhà trường, 56,1% các nơi khác. Kết quả trên cho thấy, sinh viên có ý thức sử dụng chêm xen này ở đâu cho phù hợp. Trong đó, hầu hết sinh viên đều sử dụng ở những nơi môi trƣờng tạo sự thân mật, suồng sã. Một số ít sinh viên sử dụng ở gia đình, nhà trƣờng - nơi có nhiều bạn bè cùng trang lứa, cùng quan điểm, họ dễ dàng chia sẻ, hiểu nhau hơn. Nhƣ vậy, không chỉ khác nhau về mức độ sử dụng, việc sinh viên sử dụng từ ngữ tiếng Anh chêm xen tronggiao tiếp trên mạng cũng có sự khác nhau về phạm vi sử dụng. 4.4. Đối tƣợng giao tiếp Khi lấy ý kiến về đối tƣợng cùng giao tiếp của sinh viên khi sử dụng từ ngữ tiếng Anh vào chêm xen trong giao tiếp trên mạng, chúng tôi nêu câu hỏi: Anh/ chị thường sử dụng từ ngữ tiếng Anh chêm xen trong giao tiếp trên mạng với ai? Kết quả thể hiện trong bảng 4.4. Bảng 4.4. Đối tƣợng giao tiếp Đối tượng Số lƣợng Tỉ lệ % Ngƣời ít tuổi hơn 125 20 Bạn bè 535 85,6 Anh/ chị 234 37,4 Ngƣời lớn tuổi hơn: cha, mẹ, ông, bà... 5 0,8 Với 85,6% ý kiến sinh viên sử dụng từ ngữ tiếng Anh chêm xen vào giao tiếp trên mạng với bạn bè cùng trang lứa và 37,4% sinh viên sử dụng từ ngữ tiếng Anh chêm xen trong giao tiếp trên mạng với anh/chị, 20% với đối tƣợng giao tiếp là ngƣời ít tuổi hơn, còn đối với ngƣời lớn tuổi chỉ có 0,8%. Điều này phản ánh phần nào đó thái độ của sinh viên trong sử dụng ngôn ngữ: thân mật, suồng sã với bạn bè, tôn trọng với ngƣời đối thoại lớn tuổi nhƣ ông, bà, cha, mẹ… và có 204
  7. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI ý thức trong việc biết chọn lựa đối tƣợng giao tiếp. 4.5. Mức độ hứng thú Khi đƣợc chúng tôi nêu câu hỏi: Trong giao tiếp trên mạng anh/ chị có thích sử dụng từ ngữ tiếng Anh chêm xen vào không? Kết quả thể hiện trong bảng 4.5. Bảng 4.5. Mức độ hứng thú sử dụng từ ngữ tiếng Anh chêm xen vào giao tiếp trên mạng Đánh giá Mức độ hứng thú Rất thích Thích Không thích Chêm xen từ ngữ tiếng Số lƣợng Tỉ lệ % Số lƣợng Tỉ lệ % Số lƣợng Tỉ lệ % Anh vào giao tiếp trên 115 18,4 340 54,4 170 27,2 mạng Kết quả trên cho thấy mức độ hứng thú về việc sử dụng từ ngữ tiếng Anh chêm xen vào giao tiếp trên mạng cũng có sự khác nhau: có 54,4% ý kiến sinh viên trả lời thích dùng từ ngữ tiếng Anh chêm xen vào giao tiếp trên mạng, 18,4% sinh viên cho rằng rất thích và có 27,2% sinh viên khẳng định mình không thích sử dụng từ ngữ tiếng Anh chêm xen trong giao tiếp trên mạng. Nhƣ vậy, không phải tất cả sinh viên đều hứng thú với việc sử dụng từ ngữ tiếng Anh chêm xen trong giao tiếp trên mạng. 5. Một số khuyến nghị Ngôn ngữ là một hiện tƣợng xã hội. Cùng với sự biến đổi của thời gian, đời sống xã hội, ngôn ngữ tất yếu cũng có sự thay đổi. Là lứa tuổi thích cái mới, cái lạ, thích học hỏi và tiếp thu những thứ đó và tạo ra cái của riêng mình, dần dần nó xuất hiện trong lời nói, câu chữ. Sinh viên ngày nay đang sống trong một xã hội hiện đại với nhịp sống hối hả, năng động nên ngôn ngữ của sinh viên giống nhƣ mốt thời trang. Và một khi ngoại ngữ đã trở thành tiêu chí để đánh giá năng lực và trình độ của con ngƣời trong thời đại toàn cầu hoá, việc vay mƣợn, trộn mã hay chuyển mã trở thành quá trình tự nhiên, việc sinh viên có những ―sáng tạo‖ riêng khi sử dụng từ ngữ tiếng Anh để việc giao tiếp sinh động hơn, để thể hiện cá tính cũng là điều dễ hiểu. Những nét đẹp truyền thống đƣợc hun đúc, tích tụ hàng ngàn năm của tiếng Việt có thể bị phá vỡ, thay vào đó là một sự pha tạp, lai căng chắp vá. Trên cơ sở những phân tích tổng hợp trên đây, chúng tôi đề xuất một số khuyến nghị về sử dụng ngôn ngữ sinh viên. 5.1. Làm rõ sự khác biệt biệt giữa ngôn ngữ mạng với ngôn ngữ truyền thống tiếng Việt: Hiện tƣợng chêm xen từ ngữ tiếng Anh trong giao tiếp trên mạng là hiện tƣợng ngôn ngữ ―đặc biệt‖, tồn tại một cách thực sự trong cuộc sống của chúng ta. Ngôn ngữ có những từ ngữ tiếng Anh chêm xen có tính phong phú, đa dạng, nhƣng cũng không kém phần dị biệt, đồng thời có tính khẩu ngữ rõ rệt, đƣợc sử dụng một cách rộng rãi trong sinh viên và cộng đồng mạng, từ đó trở thành ngôn ngữ chính thức. Khi ngôn ngữ mạng không ngừng phát triển, thì cũng là lúc nó đem đến cho ngôn ngữ học truyền thống nhiều thách thức, đòi hỏi chúng ta phải chú trọng đến sự khác biệt đó khi giảng dạy kiến thức liên quan cho sinh viên. 205
  8. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI 5.2. Hƣớng dẫn sinh viên sử dụng hợp lý khi giao tiếp: Ngôn ngữ mạng có chêm xen từ ngữ tiếng Anh là ngôn ngữ cá nhân nhƣng lại nằm trên mạng xã hội nên có sức lan tỏa rất lớn. Nếu dùng nhiều sẽ thành quen, có thể dẫn đến việc sinh viên sử dụng chệch hƣớng biến nó thành ngôn ngữ trong nhà trƣờng, trong các văn bản.Rất cần phải làm cho sinh viên hiểu đƣợc cách sử dụng chính xác ngôn ngữ trong trƣờng hợp phục vụ nhu cầu giao tiếp thực tế, góp phần thúc đẩy công tác giảng dạy tiếng Việt nói chung, quy phạm hóa ngôn ngữ mạng nói riêng. 5.3. Tăng cƣờng ý thức quy phạm ngôn ngữ cho sinh viên: Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất trong xã hội, luôn có tính quy phạm nhất định, ngôn ngữ mà thiếu đi tính quy phạm rõ ràng thì khó mà phát huy đƣợc công năng truyền đạt thông tin, giao lƣu tƣ tƣởng, văn hóa (Hà Nguyễn Hằng Nga, Đỗ Tiến Quân, 2018). Đồng thời, phải luôn nắm chắc nguyên tắc xuất phát từ góc độ văn minh mạng để hƣớng dẫn và quy phạm ngôn ngữ mạng, văn hoá giao tiếp chuẩn cho sinh viên. Vì vậy, cần phải tăng cƣờng giáo dục đạo đức văn hoá ngôn ngữ cho sinh viên khi tham dự các cuộc giao tiếp nhƣ vậy với ngƣời Việt Nam, góp phần làm trong sạch môi trƣờng văn hóa, văn minh giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng Việt hiện đại. 5.4. Có thái độ cởi mở tiếp thu những điểm tích cực đối với hiện tƣợng ngôn ngữ này: Chúng ta đã hiểu rõ, ngôn ngữ luôn luôn vận động và biến đổi ở một chừng mực nhất định, có lƣợng từ vựng, lớp ngữ pháp thay đổi theo thời gian, ngôn ngữ giao tiếp trên mạng có chêm xen từ ngữ tiếng Anh cũng không nằm ngoài quy luật đó, việc xuất hiện một số từ ngữ, một số cách diễn đạt mới trên mạng trên mạng tiếng Việt hiện đại cũng chỉ là sự phản ánh hiện trạng, nhu cầu, tâm lý… của cƣ dân mạng, của sinh viên, là một trong những biểu hiện của ngôn ngữ, của văn hóa xã hội… ở một thời điểm nhất định. Do đó, phải có thái độ đúng đắn, tiếp thu những điểm tích cực, hạn chế những tiêu cực của hiện tƣợng ngôn ngữ này. 6. Kết luận Ngày nay, cùng với quá trình toàn cầu hoá và mạng Internet đã trở thành phƣơng tiện truyền thông vô cùng quan trọng trên thế giới. Từ đó rất nhiều các yếu tố tiếng Anh xâm nhập vào các ngôn ngữ. Tiếp xúc và vay mƣợn ngôn ngữ là hiện tƣợng bình thƣờng, phổ biến của hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới. Quá trình giao thoa, va đập của ngôn ngữ bao hàm cả sự dung nạp, thải loại những gì không phù hợp. Hiện tƣợng chêm xen từ ngữ tiếng Anh ngày càng bộc lộ rõ sức thẩm thấu và ảnh hƣởng rất lớn của mình, từ trên mạng và cả ngoài đời sống xã hội và xâm nhập vào ngôn ngữ hàng ngày của những ngƣời trẻ tuổi. Trong quá trình ấy, với tiếng Việt, điều cần nhất là nâng cao khả năng tự điều chỉnh dựa trên nền tảng có tính chuẩn mực đƣợc vun đắp qua bao đời nay. Đứng trƣớc thực trạng thay đổi khá nhanh chóng gần đây của ngôn ngữ,rất nhiều ngƣời lo lắng và lên tiếng cảnh báo về hiện tƣợng sử dụng ngôn ngữ tuỳ tiện, cẩu thả làm ―vẩn đục‖ tiếng Việt, thậm chí nhiều ngƣời còn cho rằng ―tiếng Việt đang bị làm hỏng‖, ―sự xuống cấp trầm trọng của tiếng Việt‖. Nhằm bảo đảm giữ gìn và phát huy sự trong sáng của tiếng Việt, chúng ta phải có thái độ kiên quyết và phải giúp giới trẻ hiểu thật sự đầy đủ và sâu sắc về tiếng Việt.Từ đó chúng tôi đã đề xuất một số khuyến nghị, đó là: 1/ Làm rõ sự khác biệt biệt giữa ngôn ngữ mạng với ngôn ngữ truyền thống tiếng 206
  9. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI Việt; 2/Hƣớng dẫn sinh viên sử dụng hợp lý khi giao tiếp; 3/ Tăng cƣờng ý thức quy phạm ngôn ngữ cho sinh viên; 4/ Có thái độ cởi mở tiếp thu những điểm tích cực đối với hiện tƣợng ngôn ngữ này, nhằm góp phần phục vụ công tác chuẩn hoá và giáo dục, sử dụng ngôn ngữ hiện nay. Tài liệu tham khảo Hà Nguyễn Hằng Nga, Đỗ Tiến Quân (2018). Bàn về một số đặc điểm của ngôn ngữ mạng trong tiếng Hán hiện đại. Khoa học ngoại ngữ quân sự, 15, 39 - 46. Nguyễn Văn Khang (2014). Chính sách ngôn ngữ và lập pháp ngôn ngữ ở Việt Nam. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội. Nguyễn Văn Khang (2012). Ngôn ngữ học xã hội. Hà Nội: NXB Giáo dục. Trần Ngọc Thêm (1999). Cơ sở văn hóa Việt Nam. Hà Nội: NXB Giáo dục. Bùi Khánh Thế (2011). Ngôn ngữ học tiếp xúc và vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam. Tp. Hồ Chí Minh: NXB Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh. Vƣơng Toàn (2015). Tiếng Việt trong tiếp xúc ngôn ngữ từ giữa thế kỷ XX. Hà Nội: NXB Dân Trí. Đỗ Thuỳ Trang (2018). Ngôn ngữ giới trẻ qua phƣơng tiện truyền thông. Tóm tắt luận án tiến sĩ ngôn ngữ học. Trƣờng Đại học Khoa học, Đại học Huế. MOTIVATIONS IN CHOOSING AND USING CODE-MIXING OF ENGLISH WORDS IN VIETNAMESE ON THE INTERNET BY STUDENTS AT DA NANG UNIVERSITY: A SOCIOLINGUISTICS PERSPECTIVE Abstract The fact that students use code-mixing of English words in present Vietnamese online communication is the result of cultural-linguistic exchange and contact in the era of globalization. It can be seen that the students‘ use of code-mixing of English words and phrases in Vietnamese communication on the internet is part of student‘s life and thought. The appearance of this phenomenon reflected their spiritual life, showed their colorful feelings, and promoted their creativity in the use of language. This is an ongoing process, from code-switching, code-mixing to borrowing. The most prominent feature in their language choice is still the code-mixing. The paper clarifies some theoretical and practical issues related to sociolects, students‘ sociolects in the contemporary linguistic context and contributes to the preservation of the purity of Vietnamese and language education in the process of all-sided integration with the world. Keywords communication, code-mixing, English words and phrases, language contact, students 207
nguon tai.lieu . vn