Xem mẫu

  1. ĐỜI SỐNG, LỄ HỘI, PHONG TỤC TẬP QUÁN CỦA NGƯỜI CHĂM Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 3
  2. biến trong sinh hoạt và trong các lễ nghi phong tục cổ truyền. L ịch sử: Dân tộc Chăm vốn sinh tụ ở duyên hải miền Trung Việt Nam từ rất lâu đời, đã từng kiến tạo nên M ặc: Nam nữ đều quấn váy tấm. Ðàn ông mặc áo cánh ngắn xẻ một nền văn hoá rực rỡ với ảnh hưởng sâu sắc của văn hoá Ấn Ðộ. Ngay từ những thế kỉ thứ XVII, người Chăm đã từng xây dựng nên vương quốc Chămpa. Hiện tại cư dân gồm có hai bộ phận chính: Bộ phận cư trú ở Ninh Thuận và Bình Thuận chủ yếu theo đạo Bàlamôn (một bộ phận nhỏ người Chăm ở đây theo đạo Islam truyền thống gọi là người Chăm Bà ni). Bộ phận cư trú ở một số địa phương thuộc các tỉnh Châu Ðốc,Tây Ninh, An Giang, Ðồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh theo đạo Islam (Hồi giáo) mới. H oạt động sản xuất: Người Chăm có truyền thống nông nghiệp ruộng nước, giỏi làm thuỷ lợi và làm Nghề dệt thổ cẩm của người Chăm đang phát triển và thích ứng với kinh tế vườn trồng cây ăn trái. Bên cạnh việc làm hàng hoá, phục vụ đáng kể cho nhu cầu du ruộng nước vẫn tồn tại loại hình ruộng khách khắp cả nước. khô một vụ trên sườn núi. Bộ phận người Chăm ở Nam Bộ lại sinh sống chủ yếu ngực cài khuy. Ðàn bà mặc áo dài chui bằng nghề chài lưới, dệt thủ công và đầu. Màu chủ đạo trên y phục là màu buôn bán nhỏ, nghề nông chỉ là thứ yếu. trắng của vải sợi bông. Ngày nay, trong sinh hoạt hằng ngày, người Chăm ăn mặc N ghề thủ công phát triển ở vùng Chăm nổi tiếng là dệt lụa tơ tằm và nghề gốm nặn tay, nung trên các lò lộ như người Việt ở miền Trung, chỉ có chiếc áo dài chui đầu là còn thấy xuất hiện trong giới nữ cao niên. thiên. Việc buôn bán với các dân tộc láng giềng đã xuất hiện từ xưa. Vùng duyên hải miền Trung đã từng là nơi hoạt động Ở : Người Chăm cư trú tại Ninh Thuận, Bình Thuận, ở nhà đất (nhà trệt). Mỗi gia đình có những ngôi của những đội hải thuyền nổi tiếng trong nhà được xây cất gần nhau theo một trật lịch sử. tự gồm: nhà khách, nhà của cha mẹ và Ă n: Người Chăm ăn cơm, gạo được nấu trong những nồi đất nung lớn, nhỏ. Thức ăn gồm cá, thịt, rau các con nhỏ tuổi, nhà của các cô gái đã lập gia đình, nhà bếp và nhà tục trong đó có kho thóc, buồng tân hôn và là chỗ ở củ, do săn bắt, hái lượm và chăn nuôi, của vợ chồng cô gái út. trồng trọt đem lại. Thức uống có rượu cần và rượu gạo. Tục ăn trầu cau rất phổ Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 4
  3. Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu và hoả táng theo giáo luật, còn các nhóm cư thường xuyên vẫn là cái gùi cõng trên dân khác thì thổ táng. Những người trong lưng. Cư dân Chăm cũng là những người cùng một dòng họ thì được chôn cất cùng thợ đóng thuyền có kỹ thuật cao để hoạt một nơi theo huyết hệ mẹ. động trên sông và biển. Họ làm ra những chiếc xe bò kéo, trâu kéo có trọng tải khá lớn để vận chuyển trên bộ. N hà mới: Người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận khi dựng nhà mới phải thực hiện một số nghi lễ cúng Quan hệmang hội: Gia đìnhmẫu hệ, Chăm xã truyền thống người thần như: cúng Thổ thần để đốn gỗ tại rừng. Khi gỗ vận chuyển về làng phải mặc dù xã hội Chăm trước đây là xã hội làm lễ đón cây. Lễ phạt mộc được tổ đẳng cấp, phong kiến. Ở những vùng chức để khởi công cho việc xây cất ngôi theo Hồi giáo Islam, tuy gia đình đã nhà. chuyển sang phụ hệ, vai trò nam giới được đề cao, nhưng những tập quán mẫu hệ vẫn tồn tại khá đậm nét trong quan hệ L ễ tết: Người ta thực hiện nhiều nghi lễ nông nghiệp trong một chu kỳ năm như: lễ khai mương đắp đập, gia đình, dòng họ với việc thờ cúng tổ lễ hạ điền, lễ mừng lúa con, lễ mừng lúa tiên. Cư dân Chăm vốn được phân thành ra đòng. Nhưng lễ lớn nhất vẫn là lễ Bon hai thị tộc: Cau và Dừa như hai hệ dòng katê được tổ chức linh đình tại các đền Niee và Mlô ở dân tộc Ê đê. Về sau thị tháp vào giữa tháng mười âm lịch. tộc Cau biến thành tầng lớp của những người bình dân, trong khi thị tộc Dừa trở thành tầng lớp của quý tộc và tăng lữ. Dưới thị tộc là các dòng họ theo huyết hệ L ịch: Người Chăm có nông lịch cổ truyền tính theo lịch âm. mẹ, đứng đầu là một người đàn bà thuộc dòng con út. Mỗi dòng họ lại có nhiều chi H ọc: Dân tộc Chăm có chữ từ rất sớm. Hiện tồn tại nhiều bia kí, kinh bằng chữ Chăm. Chữ Chăm được họ. Xã hội cổ truyền Chăm được phân sáng tạo dựa vào hệ thống văn tự Sascrit, thành các đẳng cấp như xã hội Ấn Ðộ cổ nhưng việc sử dụng chữ này còn rất hạn đại. Họ có những vùng cư trú riêng và có hẹp trong tầng lớp tăng lữ và quý tộc xưa. những ngăn cách rõ rệt: không được thiết Việc học hành, truyền nghề, vẫn chủ yếu lập quan hệ hôn nhân, không sống cùng là truyền khẩu và bắt chước, làm theo. một xóm, không ăn cùng một mâm... C ưới xin: Phụ nữ chủ động trong quan hệ luyến ái. Hôn nhân cư trú V ăn nghệ: Nhạc cụ Chăm nổi bật có trống mặt da Paranưng, trống vỗ, kèn Saranai. Nền dân ca - nhạc cổ phía nhà vợ, con sinh ra đều theo họ mẹ. Chăm đã để lại nhiều ảnh hưởng đến dân Sính lễ do nhà gái lo liệu. Gia đình một ca - nhạc cổ của người Việt ở miền Trung vợ một chồng là nguyên tắc trong hôn như trống cơm, nhạc nam ai, ca hò Huế... nhân. Dân vũ Chăm được thấy trong các ngày hội Katê diễn ra tại các đền tháp. M a chay: Người Chăm có hai hình thức đưa người chết về thế giới bên kia là thổ táng và hoả táng. C hơi: Trẻ em thích đánh cù và thả diều, đánh trận giả, thi cướp cờ, Nhóm cư dân theo đạo Bàlamôn thường chơi trò bịt mắt bắt dê. http://cema.gov.vn/modules.php?name=Content&op=details&mid=48 Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 5
  4. LEÃ HOÄI KATEÂ CUÛA NGÖÔØI CHAÊM BaøLaMoân TS. Nguyễn Đức Toàn K atê là mùa lễ hội lớn trong năm của người Chăm Bà La Môn tại Ninh Thuận và Bình Thuận. Lễ hội Katê có ý nghĩa kính nhớ ông bà tổ tiên, những người đã khuất, tưởng nhớ đến các vị anh hùng dân tộc (được người Chăm suy tôn thành thần) như Pô Rô mê và Pô Klong Garai: các vị vua đã có nhiều công lao đối với người Chăm thuở xa xưa như kiến thiết đất nước, hướng dẫn làm thủy lợi và sản xuất nông nghiệp. Lễ hội Katê còn Theo truyền thống, ngày 1 tháng 7 có ý nghĩa tưởng nhớ đến ông bà tổ tiên lịch Chăm là ngày chính lễ của lễ hội bên ngoại (tức bên cha, vì người Chăm Katê, được tổ chức tại các đền tháp của theo mẫu hệ). Tương tự ý nghĩa kính nhớ người Chăm. Vì thế, ngày này còn được ông bà tổ tiên trong Katê, người Chăm có gọi là ngày lên tháp. Tính theo dương lễ Chabur (vào 15/9 lịch Chăm) để tưởng lịch, ngày lên tháp tương ứng với khoảng nhớ ông bà tổ tiên bên nội (bên mẹ). thời gian từ giữa tháng 9 đến giữa tháng Chabur đồng thời là dịp sùng kính thần 10 dương lịch. Năm nay (2004), ngày lên mẹ xứ sở Pô Nagar – vị thần lớn nhất của tháp nhằm vào ngày 13/10 dương lịch. người Chăm. Lễ hội Chabur thường được Đến ngày lên tháp, ngay từ khi trời chưa tổ chức với quy mô nhỏ hơn so với lễ hội kịp sáng, khắp các palay Chăm (làng Katê. Chăm) của người Chăm Bà La Môn tại Ninh Thuận đã nhộn nhịp tiếng mọi Những nghi lễ chính của Katê được người gọi nhau để chuẩn bị “lên tháp” diễn ra nơi các đền tháp. Ở Ninh Thuận, (các tháp Chăm thường được xây dựng có ba địa điểm hành lễ là đền thờ Pô trên các ngọn đồi). Nagar (ở làng Chăm Hữu Đức thuộc xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Đến khoảng 7 - 8 giờ sáng hôm lên Ninh Thuận), tháp Pô Romê (ở gần làng tháp, y phục của các “thần vua” được Chăm Hậu Sanh, thuộc địa bàn huyện rước từ danok lên trên tháp để hành lễ. Ninh Phước, cách trung tâm thị xã Phan Theo truyền thống, y phục vua Chăm do Rang gần 20 Km về phía tây nam theo người Raglai gìn giữ và được đem đến đường bộ) và tháp Pô Klong Garai (ở thị danok vào ngày kế trước hôm lên tháp. Ở trấn Tháp Chàm, cách Phan Rang 5 Km Ninh Thuận có ba danok: danok vua Pô theo đường quốc lộ 27 từ Phan Rang đi Rô mê ở làng Chăm Hậu Sanh, danok nữ Đà Lạt). thần Pô Nagar ở làng Chăm Hữu Đức và danok vua Pô Klong Garai tại làng Phước Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 6
  5. Đồng, cả ba danok đều nằm trên địa bàn đến khi đóng cửa tháp, từng dòng người huyện Ninh Phước. Đoàn rước “y-trang” đông đảo tiếp tục tuôn về các đền tháp. (trang phục của vua) lên tháp gồm dàn cờ Người lớn mang lễ vật đến cầu khấn ngũ sắc, các cô gái Chăm múa lễ duyên được buôn may bán đắt, gia đình bình an, dáng và rực rỡ trong chiếc áo dài Chăm hòa thuận hoặc dâng lễ để tạ ơn thần đã nhiều màu, các vị chức sắc Bà La Môn đáp ứng lời cầu xin; thanh niên nam nữ Giáo và những thầy lễ dân gian trang cầu thần ban cho văn hay, chữ tốt, nghề trọng trong bộ lễ phục bước cạnh kiệu nghiệp tinh thông, tình duyên mặn nồng... rước y trang, nối tiếp kiệu rước là các các phụ nữ hiếm muộn cũng tranh thủ dịp đông đảo đồng bào Chăm và du khách từ này để đến tháp cầu tự. Thông thường, các nơi quy tụ về. những ai có nhu cầu được buôn may bán Ngay khi đoàn rước đến vừa đến đắt, học hành tấn tới thì đến cầu với Pô trước cửa tháp, các cô gái Chăm phụ Klong Garai, muốn có sức mạnh, uy trách múa lễ liền biểu diễn các vũ điệu dũng thì tìm đến Pô Romê, còn muốn cầu Chăm truyền thống để chào đón các vị tự thì tìm đến với Pô Nagar. Sau khi cầu thần linh về dự lễ hội Katê. Tiếp đến là khấn cùng thần linh, mọi người lưu lại nghi thức rảy nước trong Lễ Mở Cửa chút ít thời gian để cùng nhau chuyện trò, Tháp do thầy Cả Sư (Pô Dhia) và các ghi hình kỷ niệm hoặc sum họp ăn thầy Bà Xế (Pasêh) thực hiện và nghi uống… . Không chỉ có người Chăm lên thức tắm tượng (Pamưnay Yăng) được tháp, mà còn có một số người Việt ở khu tiến hành nơi tượng thờ (bên trong lòng vực lân cận các tháp Chăm cũng đến cầu tháp hoặc tại chính điện của các đền thờ). xin, cúng bái. Các du khách thường đến Những nghi thức này xuất phát từ các tập viếng tháp Pô Klong Garai mà ít đến tháp tục bản địa vốn có nguồn gốc sâu xa là Pô Romê, do tháp Pô Klong Garai có vị nền văn minh nông nghiệp lúa nước liên trí gần quốc lộ và trung tâm thị trấn Tháp quan đến thuật cầu đảo (cầu mưa). Y Chàm, thuận tiện cho các loại xe vào sát phục vua Chăm được Pô Dhia làm lễ ban chân đồi tháp. phước và trao cho Muk Pajâu (Bà múa lễ Sẽ là một thiếu sót lớn nếu chỉ đến dự cộng đồng) mặc vào tượng vua trong tháp Katê vào ngày lên tháp, bởi vì theo thờ. Sau khi tiến hành nghi thức tắm truyền thống hàng năm, trong ngày tiếp tượng, cuộc tế lễ bắt đầu. đón y phục vua Chăm do đồng bào Trong khung cảnh trang nghiêm tại Raglai mang từ trên núi xuống (kế trước lòng tháp, tiếng thầy Kadhar kể tiểu sử và ngày lên tháp), tại làng Chăm Hữu Đức ca tụng công đức các vị thần hòa quyện (Ninh Phước - Ninh Thuận) bao giờ cũng với tiếng kèn saranai, đàn kanhi réo rắt và có tổ chức múa Chăm (múa quạt) với quy tiếng trống ginăng rộn rã. Trong khi đó, ở mô lớn. Các du khách sẽ bị choáng ngợp trước thềm cửa tháp, các phụ nữ Chăm bởi khung cảnh hoành tráng và sự uyển bày biện la liệt các lễ vật cúng thần linh chuyển của hàng trăm thiếu nữ Chăm với để cầu xin ơn lành, cầu cho gia đình một những vũ điệu duyên dáng hòa nhịp cùng năm mới an khang thịnh vượng. Lễ vật tiếng trống ginăng rộn rã. Cuộc múa diễn có cả món ngọt lẫn món mặn như: ngạnh ra dưới ánh nắng cháy bỏng giữa trưa hè (dê), cơm, canh, món mặn, xôi, chuối, (khoảng 12 - 13 giờ trưa) của vùng đất bánh ngọt, trái cây… . Thời gian cúng lễ Phan Rang khô hạn trong sự tham gia cổ trên tháp được kéo dài cho đến xế chiều động của cả ngàn người. Tiếp theo tiết và kết thúc vào khoảng 15 - 16 giờ cùng mục múa Chăm là các hoạt động thi đấu ngày bằng nghi lễ đóng cửa tháp. Trong thể thao. Buổi tối ngày hôm đó, cũng tại khoảng thời gian từ lúc mở cửa tháp cho Hữu Đức, mọi người sẽ cùng dự đêm văn Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 7
  6. nghệ truyền thống Chăm để thưởng thức Ở làng dệt cổ truyền Mỹ Nghiệp (thuộc các điệu múa Chăm từ múa dân gian cho thị trấn Phú Quý - Ninh Phước - Ninh đến múa cung đình, những làn điệu dân Thuận), đôi khi còn có hội thi tay nghề ca từ cổ truyền cho đến hiện đại… . dệt và triển lãm các mặt hàng thổ cẩm do Katê có ba cấp độ là Katê đền tháp, người Chăm sản xuất. Xưa kia, người Katê làng và Katê gia đình. Những ngày Chăm ăn tết Katê trong một tháng, nay tiếp theo “ngày lên tháp” (Katê đền tháp), được gói gọn lại trong vài ngày. người Chăm tiến hành Katê làng. Tuần tự Đến dự lễ hội Katê là đến với nền văn từng làng Chăm theo từng nhóm đền tháp hóa truyền thống của dân tộc Chăm. Katê tổ chức cúng Katê làng ở kajang (nhà lễ) là dịp để mọi người gần gũi, gắn bó, đoàn của mỗi làng. Sau Katê làng, bà con kết, thương yêu nhau hơn. Đồng thời, người Chăm tiếp tục Êw Lithay (cúng Katê cũng là dịp vui chơi, giải trí sau một ông bà) tại gia đình, gọi là Katê gia đình. năm lao động miệt mài. Lễ hội Katê còn Trong những ngày mừng tết Katê, ai đó là môi trường sống động trong việc bảo có việc phải đi đâu xa cũng đều tranh thủ lưu và phát triển văn hóa truyền thống tìm về mái ấm gia đình. Người ta đến Chăm, là một biểu hiện gìn giữ bản sắc thăm hỏi nhau, tiệc tùng, vui chơi giải dân tộc của cộng đồng người Chăm, góp trí… Trong những ngày diễn ra lễ hội phần làm phong phú kho tàng văn hóa Katê, tại các làng Chăm thường có các Việt Nam đa dạng và giàu bản sắc. hoạt động thể thao, giao lưu văn nghệ… . http://gilaipraung.com/ Ñoäc ñaùo nhöõng neùt vaên hoùa Chaêm D ântộc thiểu số Chăm có duy trì phát triển Hồi giáo trong việc học khoảng trên 100.000 dân, xếp tập giới luật và tìm hiểu kinh thánh thứ 17 trong 54 thành phần Koran nên đã dùng chữ Ả Rập và chữ Mã tộc người nước ta; sống tập trung đông Lai. Cho đến bây giờ Chăm Tây sử dụng nhất ở 3 tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận và loại chữ Mã Lai khá thành thạo trong An Giang. Ngoài ra họ còn cư trú một việc ghi chép và thư từ… Chăm Ðông thì phần ở các tỉnh từ Nam Trung Bộ đến sử dụng chữ Thrah và xem đó là loại chữ Ðông và Tây Nam Bộ. Hiện nay người truyền thống. Chăm còn sống rải rác ở nhiều nước khác Người Chăm luôn tự hào về những như Campuchia, Thái Lan, Malaysia… ngôi tháp Chăm-pa cổ kính xây dựng Những nét đặc sắc của văn hoá Chăm bằng đất nung độc đáo. Hình ảnh vũ nữ thể hiện từ tiếng nói, chữ viết, từ nghệ Chăm-pa cổ xưa đã được chạm khắc vào thuật và kỹ thuật tạo dáng của các ngôi các đền tháp, trong đó bức phù điêu Vũ tháp bằng đất, các pho tượng bằng đá, nữ Trà Kiệu là một trong những tuyệt tác. đến các sản phẩm vải thêu, dệt hoa văn, Là một bộ phận của nền văn hoá dân tộc, dệt thổ cẩm hoặc đồ gốm và các vật dụng kiến trúc dân gian của người Chăm cũng phục vụ cho cuộc sống hàng ngày. có một lịch sử và truyền thống lâu đời. Người Chăm có tiếng nói và chữ viết Bàn tay và khối óc sáng tạo của dân tộc riêng của mình. Chăm Tây cùng với sự Chăm làm sáng tỏ tính phong phú, đa dạng, giúp chúng ta thấy được sự giao Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 8
  7. lưu văn hoá, quá trình phát triển của tộc chồng, ai cũng biết dệt vải. Những tấm người. khăn, cái áo làm ra được coi là thước đo Người ta còn thấy nhiều nét trạm trổ của sự đảm đang tháo vát của các cô gái và các bức tượng bằng đá thể hiện nếp Chăm. Nghề dệt thổ cẩm đòi hỏi sự tỉ mỉ sinh hoạt ca múa và chơi nhạc dân gian và khéo léo. Ðể có một tấm chăn, các cô rất sinh động. Người Chăm luôn mang gái phải cần mẫn ngồi bên khung cửi từ trong máu của mình một tâm hồn văn sáng đến chiều tối với sự nhịp nhàng, nghệ dân tộc đặc biệt. Nghệ thuật truyền chuẩn xác trong từng thao tác. Chỉ cần thống luôn được người Chăm nuôi một mối chỉ bị rối, mặt vải sẽ không còn dưỡng, trân trọng và liên tục truyền cho mịn nữa. Các sản phẩm dệt của người nhau từ bao đời nay. Chăm khá phong phú, đáp ứng rộng rãi cho nhu cầu trang phục, trang sức của Múa Chăm phong phú và độc đáo. người Chăm. Hầu như mỗi làng Chăm có một đội múa riêng. Những điệu múa cổ xưa nhất Vào dịp hội hè, lễ lạc, trai gái Chăm thường được trình diễn trong các lễ hội. còn trang sức bằng các thắt lưng do Các nghệ nhân Chăm đã sáng tác thêm người Chăm tự dệt. Hầu như phần lớn những điệu múa đặc sắc như múa chàm các sản phẩm vải của người Chăm không rông, múa đoa pụ (đội bình nước trên thể thiếu các loại hoa văn trang trí, nhất đầu). Múa quạt là điệu múa phổ thông là trên các y phục cổ truyền của các thiếu của người Chăm. Khi múa, các vũ nữ nữ. dùng quạt làm đạo cụ để biểu diễn những Nghề truyền thống khác của người loại múa khác nhau. Múa bóng mang tính Chăm là nghề làm đồ gốm. Làng Chăm tôn giáo và cũng rất phổ biến của người Bầu Trúc duy nhất có nghề làm đồ gốm Chăm. Trong những nét đặc trưng của từ lâu đời. Hầu như gia đình nào cũng múa Chăm là múa ổn định theo nhạc. làm, phần lớn do phụ nữ đảm đang. Từ Dàn nhạc đệm cho múa thương gồm hai chiếc lu đựng nước, chiếc nồi đất, bộ trống Pa-ra-nưng và một kèn sa-ra-nai. khuôn đổ bánh xèo đến siêu sắc thuốc, Nhìn chung, vũ điệu Chăm-pa nhằm phô chiếc cà om đều rất dụng công với những diễn vẻ đẹp của con người. hoa văn độc đáo của dân tộc. Sản phẩm Người Chăm có nhiều lễ hội trong gốm Chăm còn được trao đổi rộng rãi với năm, như hội Rija, Roya, Ramadan, lễ nhiều vùng và nhiều tộc người khác nữa. Pơk Băng Yang, lễ Katê… Trong đó, lễ Trong quá trình nghiên cứu, chúng ta hội Katê là một trong những lễ hội lớn thấy rằng người Chăm đã có một nền văn nhất của người Chăm được tổ chức hoá thật phong phú về nội dung, đa dạng thường xuyên vào đầu tháng 7 (lịch âm) về diện mạo. Nền văn hoá ấy đã được thể tức là vào trung tuần tháng 9 (âm lịch) và hiện trong nhiều lĩnh vực, nhất là lĩnh tháng 10 (dương lịch) để tưởng nhớ các vực kiến trúc; đó là kết quả của quá trình vị anh hùng dân tộc và ông bà tổ tiên. hoạt động có định hướng trong một thời gian lịch sử lâu dài. Thổ cẩm là nghề truyền thống của người Chăm. Thiếu nữ đến tuổi lấy http://www.nguoicham.com/nc Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 9
  8. N hà thơ, nhà nghiên cứu văn hóa Inrasara nhận định: “Sự ra đời sớm của chữ viết đã tạo điều kiện cho văn học viết của người Chăm phát triển. Chính chữ viết đã cho người Chăm có một nền văn minh rực rỡ và độc đáo một thời”. Xưa nay, chúng ta biết đến sự đặc sắc thất truyền. Nguyên liệu chính để làm của văn hóa Chăm qua các điệu múa của giấy là lá buông (loại lá phổ biến tại địa vũ nữ Apsara, sự độc đáo của lễ hội Rija bàn cư trú của người Chăm), ngoài ra Nưgar, Katê hay sự bí ẩn của các ngôi người Chăm còn làm giấy từ vỏ cây bồ tháp cổ. Tuy nhiên, nền văn minh đề có màu trắng đục, dày và dai, trơn Chămpa xưa còn là ngôn ngữ Chăm và mặt, ít thấm nước. Mực viết được chế từ nền văn học viết có từ rất sớm. Tất cả vỏ cây akuh rất tốt vì chóng khô, đen đang được giới thiệu tới công chúng Thủ đậm, không bay màu. Đầu bút là đầu các đô trong triển lãm Không gian văn hóa que tre vót nhọn và về sau sử dụng đầu Chăm, tại 36 Điện Biên Phủ, Hà Nội. kim loại. Chămpa là dân tộc có chữ viết sớm Các thư tịch cổ nhất bằng chữ Chăm nhất Đông Nam Á. Theo các nghiên cứu còn lại cách ngày nay khoảng 300 năm. về văn bia cổ, ngay từ thế kỷ thứ IV Các cuốn sách cổ từ vài trang đến vài người Chăm đã có chữ viết của mình. trăm trang giấy chứa đựng toàn bộ văn Tiếng Chăm có 65 ký hiệu và 24 chân hóa Chăm với các chủ đề chính là kinh ngữ bắt nguồn từ hệ thống chữ thảo của luật tôn giáo, ngoài ra còn có các nội Ấn Độ. Chữ viết Chăm cũng không dung về văn học, triết học, hướng dẫn ngừng hoàn thiện và phát triển. Theo ông nghi lễ, những bài tụng ca, lịch pháp, Thập Liên Trưởng, chuyên gia ngôn ngữ thiên văn, phong thủy, âm nhạc, y - dược của Trung tâm Nghiên cứu văn hóa học, pháp thuật, tử vi - bói toán, gia huấn Chăm tại Ninh Thuận: “Khoảng đầu thế ca… Văn học cũng xuất hiện nhiều trong kỷ XVII, chữ Akhan thrah - chữ Chăm các thư tịch cổ của người Chăm, trong đó hiện đại, đã thoát khỏi vỏ bọc của chữ có chép lại các sử thi của Ấn Độ như Phạn và được sử dụng phổ biến trong các Ramayana, Mahabharata, Bhagavata… thư tịch cổ và bia ký còn lưu lại ngày Bên cạnh sách cổ, các văn bia cổ chính là nay”. mảng quan trọng của văn học Chăm. Các Người Chăm cổ có một kỹ thuật làm bia ký Chămpa bằng chữ Phạn được viết giấy điêu luyện và độc đáo, tiếc là nay đã chủ yếu theo những thể thơ của Ấn Độ, nội dung nhuốm màu sắc tâm linh huyền Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 10
  9. hoặc, lời thơ mỹ miều, văn hoa. Trong Inrasara, Đồng Chuông Tử, Trà Vigia, các sáng tác văn thơ, các tác giả Chăm Nguyễn Phú Hải, Tuệ Nguyên… thường sử dụng nhiều điển tích và ẩn dụ Nhà thơ, nhà nghiên cứu văn hóa của văn học Ấn Độ để thể hiện sự hiểu Chăm Inrasara đã tham gia biên soạn gần biết và thông thái của mình. Song song 40 đầu sách về văn hóa Chăm như Văn với nó là một dòng văn học dân gian, với học Chăm khái luận, Từ điển song ngữ ca dao, dân ca truyền miệng bình dân gần Việt – Chăm, tạp chí Tagalau; đồng thời gũi. là một trong những người có công tạo Người Chăm không thích nói về dựng lại văn hóa Chăm và giới thiệu tới những điều thực tế, kỹ thuật hay vật chất. nhiều vùng. Ông nhận định: “Sự ra đời Tính đa chủ đề, khái quát được thể hiện sớm của chữ viết đã tạo điều kiện cho rõ trong từng cuốn sách. Qua những cuốn văn học viết của người Chăm phát triển. sách mỏng nói về các nghi lễ tâm linh, Chính chữ viết đã cho người Chăm có chúng ta còn bắt gặp trong đó một bài một nền văn minh rực rỡ và độc đáo một thơ, một lời chúc phúc, vài ý tưởng, quan thời. Qua các thư tịch cổ, chúng ta có thể điểm tôn giáo, triết học... nhận thấy văn hóa Chăm là văn hóa đùa Chữ viết của người Chăm có một thời vui, chịu chơi cả trong đau khổ”. gian bị bỏ rơi. Từ năm 1978 đến nay, Ban Hiện các thư tịch cổ cùng bia ký chưa biên soạn sách tiếng Chăm đã xuất bản được sự quan tâm tập hợp và gìn giữ các cuốn sách bằng ngôn ngữ Chăm cho đúng mức. Sách cổ vẫn được lưu truyền các lớp tiểu học của con em người Chăm. trong cộng đồng Chăm, nhưng do sự bảo Tạp chí Sáng tác - sưu tầm - nghiên cứu quản thủ công đã khiến nhiều cuốn bị hư Chăm mang tên Tagalau xuất bản từ năm hỏng. Kỹ thuật làm giấy độc đáo của 2000, góp phần gìn giữ văn hóa viết người Chăm hiện chưa được phục dựng Chăm. Bên cạnh đó, dòng văn học bằng để bảo tồn…Đó là những điều mà các tiếng Chăm đã bắt đầu hồi sinh và phát nhà nghiên cứu văn hóa Chămpa còn trăn triển với các nhà thơ đương đại như: trở. http://www.nguoidaibieu.vn/Trangchu/VN Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 11
  10. Hiện nay người Chăm ở Ninh Thuận có số dân đông nhất (57.137), chiếm gần 50% người Chăm ở Việt Nam. Họ sống tập trung thành từng làng palei riêng biệt và bảo lưu đậm nét nhiều tập tục truyền thống như nghi lễ, hội hè, tục cúng tế đền tháp, tục cưới gả, tang ma, tín ngưỡng, tôn giáo, luật tục, văn chương, làng nghề…mang bản sắc văn hoá riêng. 1. Làng Palei Chăm: như Palei Chăm là đơn vị cư trú cổ Hiện nay người Chăm ở Ninh Thuận truyền mang tàn dư của công xã nông có tất cả 22 làng palei thuộc 13 xã và 4 thôn thì gia đình lại là bộ phận hình thành huyện thị (Ninh Phước, Ninh Hải, Ninh nên đặc trưng ấy. Gia đình trong palei Sơn, thị xã Phan Rang - Tháp Chàm). Chăm được tổ chức theo hình thái gia Trong đó được phân chia ra thành hai đình mẫu hệ, bao gồm gia đình lớn cộng đồng: Chăm Ahiêr (Chăm ảnh (mưngawôm pruang) và gia đình nhỏ hưởng Bàlamôn giáo) và Chăm Awal (mư ngawôm sít). Thành viên cơ bản (Chăm ảnh hưởng Hồi giáo). Mỗi cộng trong gia đình được tính theo huyết thống đồng tôn giáo lại sinh sống thành từng bên mẹ. Trong mỗi gia đình có đàn bà palei riêng biệt. Trong tổng số 22 làng lớn tuổi đứng đầu gọi là “Po sang” (chủ palei thì có 15 làng Chăm Ahiêr và 7 làng nhà). Các gia đình có cùng chung một mẹ Chăm Awal. Mặc dù là một dân tộc sinh ra thường bố trí chung nhà cửa trong Chăm Ahiêr và 7 làng Chăm Awal. Mặc một khuôn viên. Tương tự như vậy, các dù là một dân tộc Chăm nhưng phân chia gia đình chung một dòng họ phía mẹ ra làm hai nhóm Chăm, ảnh hưởng đạo thường bố trí nhà cửa cùng dãy với nhau. giáo khác nhau (Ahiêr và Awal), sống Mỗi dòng họ có một tộc trưởng đứng đầu tách biệt nhau. Tuy vậy hai nhóm này gọi là “akauk gơp”. Ngày xưa trưởng tộc vẫn cùng mang một đặc trưng văn hoá là đàn bà, ngày nay được thay thế bởi chung. người đàn ông. Nhiệm vụ của trưởng tộc là quản lí các thành viên, giải quyết Palei Chăm thường định cư trên những vấn đề thắc mắc giữa các thành những vùng gò đất cao, xung quanh là viên và chăm lo, tổ chức cúng tế những lễ ruộng lúa và nương rẫy. Mỗi palei có nghi tín ngưỡng liên quan đến tộc họ. khoảng từ 300 - 400 hộ gia đình, tập hợp Mỗi dòng họ trong làng được phân biệt bởi nhiều tộc họ sinh sống với nhau. Các với nhau bằng nghĩa địa của dòng họ mẹ khuôn viên nhà ở được bố trí theo hướng (kút, ghôr). Mỗi dòng họ có một vật thờ Bắc – Nam. tổ gọi là “Chiết atâu” (Chiếc Atâu là một Trong mỗi palei Chăm đều có một loại giỏ đan bằng tre hình hộp vuông có đền thờ thần (sang Pô yeang) và ở đầu nắp đậy, dùng để bỏ y trang, đồ cúng lễ làng có nhà làng (sang palei). Cách palei của tổ tiên tộc họ. Chiếc Atâu chỉ được không xa thường có một nghĩa địa (kút, đem ra ngoài khi tộc họ có dịp cúng lễ). ghôr). Mỗi palei Chăm đều có đơn vị Đơn vị cơ cấu căn bản của hệ thống quản lí hành chính thôn, đoàn Thanh thân tộc của người Chăm là mẫu hệ gia niên, Hội Nông dân… Bên cạnh đó còn tộc. Những mối quan hệ bên mẹ là quan có Hội đồng phong tục (Hội đồng già hệ thân thuộc và quan trọng nhất. Tổ tiên làng) chăm lo cúng tế và cùng với chính được thờ phụng là tổ tiên bên mẹ. Quyền quyền tham gia giải quyết những vụ bất thừa kế tài sản thuộc về con gái út. Phụ đồng của các thành viên trong làng liên nữ Chăm nắm quyền quyết định trong gia quan đến phong tục, tập quán. Palei đình. Vai trò Cậu (cey) được đề cao và Chăm có luật tục riêng gọi là adat. Nếu Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 12
  11. vẫn còn chi phối mạnh mẽ trong gia đình giống lúa chiêm, lúa mùa (padai bidiên, người Chăm hiện nay.Nói chung sinh padai halim, paday ia ok, padai hoạt làng (palei), gia đình (mưngawôm), kuprok…). Do đó không phải ngẫu nhiên tộc họ (gơp tian) của người Chăm phản mà người Trung Quốc và người Kinh đều ánh đậm nét chế độ mẫu hệ thể hiện trên du nhập giống lúa của người Chăm mà các mặt: sự phân hoá xã hội, quan hệ về họ thường gọi là “lúa Chiêm”.Bên cạnh gia đình và hình thức hôn nhân; hình thái làm ruộng người Chăm còn là những tín ngưỡng; phương thức sản xuất và người làm vườn giỏi. Họ trồng nhiều hoa quyền sở hữu tài sản… Vì vậy cơ chế xã màu và cây ăn trái như ngô, khoai lang, hội truyền thống người Chăm gắn bó chặt đậu xanh, đậu nành, chuối, dừa, hồ tiêu… chẽ với nhau và được vận hành bằng luật Nhờ đó mà dân cư có hoa quả và ăn rau tục (adat). Họ sống trên cơ sở bình đẳng, xanh 4 mùa. Bên cạnh nghề nông, người đoàn kết thương yêu lẫn nhau. Cùng nhau Chăm còn biết khai thác những khu rừng bảo vệ, lưu giữ thuần phong mỹ tục, lớn có các loại gồ mun, trầm hương, vỏ những giá trị văn hoá của tổ tiên. Có thể cây làm thuốc nhuộm… rất được ưa thích nói làng palei, gia đình người Chăm là trên thị trường. Họ cũng biết khai thác tài mắc xích quan trọng, gắn liền chặt chẽ nguyên khoáng sản ở xứ họ để đem bán ở với nhau, tạo nên một cơ cấu xã hội cổ xa. Người Chăm còn làm nghề biển, họ là truyền bền vững, trở thành cái nôi bảo những thủy thủ can trường, là những tồn và lưu giữ văn hoá Chăm, lễ hội người buôn bán giỏi. Những chiếc thuyền Chăm trong suốt những tháng năm thăng buôn của họ thường vượt biển khơi đi trầm của lịch sử dân tộc. đến hải cảng Trung Quốc và có mối quan 2. Đời sống kinh tế: hệ với các nước Java trong thời cổ trung đại. Nói chung kinh tế truyền thống của Người Chăm định cư trên dải đất người Chăm bao gồm cả nghề nông, nghề miền Trung với đặc điểm địa hình là đi biển và khai thác rừng. Ba hình thái miền đất hẹp, kéo dài và được cấu tạo bởi kinh tế đó đã góp phần làm cho đời sống ba vùng: Núi - Đồng bằng - Biển cả. Khí kinh tế Chăm phát triển phồn thịnh và hậu nơi đây khắc nghiệt, khô ẩm, nhiều hiện nay còn in dấu ấn đậm nét trong lễ nắng, ít mưa. Điều kiện tự nhiên, địa lí hội Chăm. Tuy nhiên ngày nay, một số môi sinh đó đã hình thành nên nền kinh ngành kinh tế truyền thống đã bị mất đi. tế của người Chăm. Hiện nay người Chăm không còn làm Trong nền kinh tế truyền thống của nghề biển. Tuy một số làng Chăm ở Ninh mình, người Chăm có một nền nông Thuận như Bỉnh Nghĩa, Tuấn Tú vẫn còn nghiệp phát triển khá sớm. Từ lâu đời họ sống gần biển nhưng họ không làm nghề đã biết đắp đập khai mương để trồng lúa biển mà lại quay lưng với biển. Đa số nước mà đến nay vẫn còn các dấu vết các (khoảng 95%) người Chăm Ninh Thuận công trình thủy lợi trên dải đất miền ngày này sống bằng nghề nông, và một trung như: đập Do Linh (Quảng Trị), đập số ít làm nghề chăn nuôi và khai thác Nha Trinh và đập Marên (Ninh Thuận). rừng. Đến nay họ vẫn còn phát huy Họ còn có kĩ thuật canh tác ruộng nước truyền thống làm lúa nước và chăn nuôi khá cao. Tùy theo loại ruộng như ruộng gia súc, gia cầm. Hoạt động nông nghiệp gò (hamu tamu), ruộng cát (hamu cwah), vẫn là nền kinh tế chủ đạo trong đời sống ruộng sâu (hamu dhong) mà họ có kĩ kinh tế chủ đạo trong đời sống kinh tế thuật canh tác và sử dụng các loại giốngl của người Chăm hiện nay. úa ngắn ngày, cho năng suất cao như loại http://www.vnptninhthuan.com.vn Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 13
  12. L ễ dựng chòi cày (Padang paday tuan): L Lễ dựng chòi cày là lễ mở đầu công việc đồng áng hàng năm của người Chăm. Trước khi khởi đầu công việc cày gieo người Chăm thường dựng lên một cái chòi nhỏ ở gần ruộng của mình để trú ngụ tránh mưa nắng và để dụng cụ lao động trong thời gian cày cấy. Lễ này được thực hiện trên thửa ruộng từng gia đình. Lễ hội cầu đảo Thầy cúng lễ là ông “Cai ễ cúng lúa làm đòng (Padai dôk tian): mương” (Hamu ia) hoặc “Ong Từ”( Camưney). Ngày cúng lễ là ngày thứ tư Lễ này người Chăm cúng lúc lúa hay thứ bảy trong tuần. Lễ vật gồm có 1 đang dậy thì con gái. Họ quan niệm hồn cặp gà, 5 mâm cơm, rượu, trứng, trầu lúa cũng như hồn người. Đây là giai cau… đoạn quan trọng quyết định và ảnh hưởng đến năng suất cây lúa. Lễ này Các vị thần linh được cầu cúng trong khác với lễ trước là lễ vật cúng 1 con lễ này là các vị thần như thần trời, thần dê, 5 mâm cơm, rượu, trứng, trầu cau… cha (Po yang amư), thần mẹ, thần sông Chủ tế lễ là thầy Kadhar kéo đàn Rabap (Po patau ia), thần thủy lợi như Pô (đàn tương tự như đàn nhị người Kinh), KLong Garai, Pô Rômê và các vị khẩn ông Cai mương (Hamu ia) hoặc ông hoang tiền hiền… Mục đích lễ này, họ Camưney. Các vị thần linh được mời về cầu mong cho mưa thuận gió hòa, công dự lễ cũng tương tự như lễ vừa nêu trên việc cày cấy được suông sẻ, mùa màng nhưng nội dung hành lễ này phong phú tốt tươi… hơn, thầy Kadhar vừa kéo đàn Rabap L ễ cúng ruộng lúc lúa đẻ nhánh (Iew po Bhùm): vừa mời các vị thần và hát về những bài thánh ca, ca ngợi công đức của các vị thần mẹ (Po Inư Nưgar) đã dạy người Sau khi ruộng lúa cày gieo xong khoảng tháng sau thì họ tiếp tục làm lễ trồng lúa, cày cấy đem lại lúa gạo cho cúng cho cây lúa đẻ nhánh. Lễ vật cúng người Chăm và hát ngợi ca các vị thần cho lễ này tương tự như lễ cúng dựng thủy lợi như Po Kluang Garai, Po Rame chòi cày. Những thần linh cầu cúng của đã đem nước về cho dân làng tưới tiêu, lễ này chủ yếu là thần mẹ xứ sở Po Inư trồng lúa. Nưgar. Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 14
  13. L ễ thu hoạch lúa (Iew Yang Trun Yuak): Lễ này thường diễn ra vào đền tháp Chăm còn được tổ chức tại các cửa biển. Đây là lễ chung cho cả cộng đồng Chăm Ahiêr (Chăm ảnh hưởng tháng 11 lịch Chăm (tháng 10 âm lịch). Bàlamôn) và Chăm Awal (Chăm ảnh Khi cúng lễ, người Chăm phải chọn hưởng Hồi giáo). ngày tốt (ngày thứ tư hoặc thứ bảy) để Ngày xưa, cứ đến tháng 4 Chăm lịch xuống gặt lúa. Lễ này do ông Cai - mùa khô hạn nắng nóng thì người mương hoặc ông Cai đập cúng (ôn Chăm đến các cửa biển Lâm Ngư (xã Binưk). Lễ vật gồm có 1 cặp gà, rượu, Phương Hải, Ninh Hải) và gần cửa biển trứng, trầu cau, xôi chè… Nội dung Cà Ná (Phước Diêm - Ninh Phước) và cúng tương tự như lễ lúa làm đòng. Khi cửa biển Mỹ Tân (Mỹ Tường, Ninh lễ cúng này kết thúc thì ông thầy cúng Hải) để cúng lễ. bước xuống ruộng, dùng lưỡi liềm cắt Lễ Palau sah là một nghi lễ tổng hợp một bó lúa để khai lễ ngày gặt lúa. Cách của các lễ thức người Chăm. Đây là lễ 3 ngày sau ruộng lúa mới được thu cúng chung cho các vị thần Chăm như hoạch. Bó lúa lễ được chủ ruộng đem các vị thần Bàlamôn (Yang bimon - về nhà để trên trần nhà đến mùa sau thì yang aklak), các thần Hồi giáo - Bàni đem ra cúng. (yang birow - thánh alla); thần núi, thần L ễ lúa mới lên sân (Da a patai tagok lan): sông, thần biển… Các vị chức sắc cúng lễ như tu sĩ Paseh của nhóm Chăm Ahiêr, tu sĩ Acar của nhóm Chăm Awal, Lễ này nội dung tương tự như lễ cúng lúa làm đòng. Mục đích là lễ tạ ơn thầy cúng tín ngưỡng dân gian như các vị thần thánh, tổ tiên đã phù hộ độ Kadhar (thầy kéo đàn Rabap), thầy trì cho họ thóc lúa đầy bồ. Mưduôn (thầy vỗ trống Basanưng), thầy Ka-in (thầy bóng), Muk Pajau (Bà Nói chung qua 5 lễ nghi nông nghiệp bóng), ông Cai đập (binưk), ông Cai của người Chăm như trên, đã phản ảnh mương (Hamu ia)… nhu cầu sinh trưởng của cây lúa (từ lúc cày gieo, lúa đẻ nhánh, lúa đơm đòng Riêng lễ Palau Sah (cầu đảo) ở Bỉnh đến lúa chín). Mặc dù đây là lễ nghi tổ Nghĩa (Ninh Hải) có nội dung khác lễ chức từng gia đình nhưng lại liên quan cầu đảo (Yuơr yang) ở các vùng Chăm đến mùa vụ của cả cộng đồng nên nó khác. Lễ Palau sah ở thôn Bỉnh Nghĩa trở thành lễ hội cộng đồng. Ngày nay, có nội dung tương tự như lễ hội múa kể từ sau năm 1975 thì hệ thống lễ nghi Rija Nưgar (Lễ hội múa tống ôn đầu nông nghiệp này không còn phụ hợp năm). Còn lễ Palau sah ở vùng Chăm có nữa mà đã biến mất. đặc điểm chung như nhau và bao gồm các tiểu lễ như sau: L ễ cầu đảo (Palau Sah): Lễ palau sah là lễ cầu đảo liên quan đến cầu mưa, cầu nước của L ễ Rija harei (lễ múa ban ngày): Lễ này được tiến hành trong một nhà lễ làm bằng tre, mái lợp người Chăm. Lễ được tổ chức vào tháng 4 lịch Chăm. Lễ này ngoài tổ chức ở các bằng tranh hoặc bằng tấm bạt, hướng Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 15
  14. mặt về phía mặt trời lặn. Lễ vật gồm có hiện. Đây là lễ cúng các vị thần Chăm ở 1 con gà, 5 mâm cơm (mỗi mâm có đền tháp (yang Bimon) đặc biệt là cúng cơm, canh cá và cá khô), 3 mâm chuối, tế thần lửa (yang apui) để cầu thần lửa hai mâm trầu, rượu, trứng… và 5 mâm đem lại lửa làm sấm chớp, mây, mưa… xôi chè. Nội dung lễ này tương tự như lễ nghi Lễ do Mưduôn (thầy vỗ trống đốt thần lửa ở đền tháp Chăm. Paranưng) và ông Ka-in (thầy bóng thực hiện). Đặc điểm của lễ này là Mưduôn vỗ trống Paranưng hát mời các L ễ rước gậy thần của tu sĩ Acar (Gay bhong): Lễ này do nhóm tu sĩ Chăm Awal vị thần như thần núi (Po cơk), thần sông thực hiện. Nghi lễ này rất long trọng, Po biển (Po Riyak), thần chèo thuyền (po Acar và dân làng rước gậy thần (Gay tang ahuak), thần giữ rừng trầm (Po bhong) - gậy lễ rao giảng kinh của gilau), đặc biệt là thần thủy lợi như Pô thánh Mohamach từ thánh đường hồi KLong Garai, Pô Rô mê… Khi ông giáo đến cửa sông, cửa biển để cầu Mưduôn hát các tiểu sử ca ngợi các mưa. Nghi thức cúng lễ này tương tự công lao đức độ của các vị thần thì thầy như lễ hội Ramưwan Chăm Awal. Lễ bóng (Ka-in) múa phụ họa trong tiếng vật gồm 5 mâm xôi chè, chuối. Tu sĩ Po trống Ginăng, Paranưng, kèn Saranai Acar đọc kinh Coran, cầu thánh Alla Chăm. Bà con dân làng dự lễ cầu cúng (Pamrơ) về hưởng lễ, dâng làng van vái, khấn vái và tham gia múa mừng. cầu khấn cho thánh Alla hiệu nghiệm, L ễ cúng Rija Dayuap (lễ cúng ban đêm): Lễ này được tiến hành vào lúc ban cho dân làng mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi. Ngoài lễ Palau Sah (Lễ cầu đảo) như chiều tối hoặc ban đêm do Kadhar (thầy trên, vào thời điểm này (tháng 4 lịch kéo đàn Rabap) và bà bóng (Muk Chăm), từng làng người Chăm còn tổ Pajau) thực hiện. Lễ này có sự tham gia chức lễ hội cầu đảo cho riêng mình, chủ của tu sĩ Po Acar nhóm Chăm Awal. Lễ yếu họ cầu cúng Po Nai (Nữ hoàng đi tu vật gồm 1 con dê, 5 mâm cơm, xôi chè, tại núi Chà Bang - Ninh Thuận) và lễ trầu cau, rượu trứng, bánh trái… Thầy cúng Po Riyak (thần sóng biển)… Lễ Kadhar (thầy kéo đàn Rabap) hát mời này diễn biến tương tự như lễ múa ban các vị thần như Po Au loah, Po Bal ngày (Rija harei) do thầy Maduôn và Gina, Po Cah ya, và thần mẹ xứ sở (Po Ka-in thực hiện. Lễ lôi cuốn cả dân làng Inư Nưgar), Pô KLong Garai, Pô Rô mê tham gia trở thành ngày hội của các (Vua Chăm được suy tôn thành thần palei Chăm. thủy lợi), thần núi (Po Cơk), thần sông Nói chung Lễ Palau Sah là lễ nghi (Po Patau Ia), thần biển (Yang tasik)… tổng hợp của người Chăm. Lễ này Ông Kadhar hát thì bà bóng múa phụ không những tập trung các chức sắc, tu họa… sĩ, các loại hình tôn giáo, tín ngưỡng mà L ễ tế thần lửa (cuh yang apui): Lễ này do tu sĩ paseh thực nó còn lôi kéo được dân làng, từng thôn và từng khu vực tham gia. Cùng với lễ Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 16
  15. Palau Sah (cầu đảo), thời điểm này còn dân làng, tín đồ ở các thôn, các vùng có lễ cầu đảo Po Nai, Po Rijak đã góp cùng hưởng chung đập nước tham gia phần làm cho lễ hội Chăm sôi động hẳn cúng lễ. Tất cả bà con dân làng cúng lễ lên. Đây là thời điểm lễ hội Chăm diễn vật đều cầu mong cho trời ban cho mưa ra khắp nơi, từ bãi trống đầu làng đến thuận gió hòa, không gây lũ lụt phá hoại mỏm núi, bờ sông, bờ biển là cho làng mùa màng. Chăm thực sự là mùa trẩy hội. Tháng tư là mùa nắng nóng - mùa cầu mưa, cầu nước - mùa cầu khấn cho dân làng khỏi L ễ tế trâu (Ngak kabaw yang patau): Lễ tế trâu là loại lễ nghi cúng bệnh tật bởi sức nóng khắc nghiệt của tế lớn nhất trong hệ thống lễ nghi nông vùng nhiệt đới. Do vậy thời điểm này là nghiệp của người Chăm. Lễ được tổ mùa diễn ra nhiều nghi lễ hội hè ở khắp chức 7 năm 1 lần. Lễ vật cúng một con mọi nẻo của làng - Palei Chăm. trâu trắng tại núi Đá Trắng thuộc thôn Như Ngọc, Ninh Phước, Ninh Thuận. L ễ chặn nguồn nước (Kap kraung Halau): Nguồn gốc của lễ này theo truyền thuyết kể lại: Ngày xưa khi người Chăm Sau khi làm lễ cầu đảo, trời bắt chưa có vua, ông “kay Klong, kay đầu ban xuống cơn mưa cho dân làng Biên” mới đào đất lấp biển, phá núi để cày cấy. Để tránh mưa nhiều, gây ra bão hình thành đất đai, sông biển cho người lụt thì người Chăm còn tổ chức làm lễ Chăm. Lúc đó ở xứ Chăm có một Chằn chặn nguồn nước. Lễ này được thực tinh (Rak) từ đâu xuất hiện đòi làm vua hiện ở các cửa sông lớn. Lễ được diễn xứ Chăm. Chằn tinh đòi vua Chăm phải ra ở hai cộng đồng Chăm Ahiêr và nộp nhiều thứ thuế và nộp cả người đẹp. Chăm Awal. Lễ này có nghi thức diễn Về sau Chằn tinh còn đòi vua Chăm ra khá long trọng do các tu sĩ po Acar, nộp cả công chúa. Thấy Chằn tinh ngày Ong binưk (cai đập)… thực hiện. Trong càng gieo tai họa cho dân làng, và để lễ này, ngoài việc lễ vật là 5 mâm cơm cứu công chúa ra khỏi tay Chằn tinh. và xôi chè, người Chăm còn rước gậy lễ Vua cầu xin thần linh phù hộ cho dân rao giảng kinh của Mohamach (Gay làng và giúp vua tiêu diệt cho được bhong) ở trong thánh đường (sang Chằn tinh. Vua tập trung dân làng, ra mưgik) đến cửa sông. Trong nghi lễ này tay chiến đấu nhiều ngày đêm với Chằn có 9 tu sĩ Acar nhóm Chăm Awal - tinh. Cuối cùng Chằn tinh bị vua chém Chăm ảnh hưởng Hồi giáo mặc áo màu đầu, Chằn tinh bị giết chết, xương chất đen (aw juk) để thực hiện lễ. Họ đọc đống thành núi màu trắng. Từ sự tích kinh Coran… cầu nguyện thánh Alla đó, tại làng này có một ngọn núi Đá xin đừng mưa nhiều, gây lũ lụt phá hoại Trắng, trên núi có một cái hang sâu mà mùa màng, nhà cửa, xóm làng. Khi lễ dân gian gọi hang đó là đầu và miệng kết thúc tất cả tu sĩ Po Acar ở trần lội của Chằn tinh và lấy tên núi đó là “Cơk xuống sông làm lễ “té nước” và kết thúc yang Patau” (Núi vua chúa). Từ đó dân nghi lễ. làng thoát khỏi tai họa. Về sau để trừ Nghi lễ này ngoài chức sắc, tu sĩ Chằn tinh phá hoại dân làng, mùa thực hiện còn có sự tham gia của một số Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 17
  16. màng, dân làng thường cúng trâu trắng Địa điểm cúng lễ ngoài tại chân núi 7 năm một lần. Đá Trắng - nơi hành lễ chính, họ còn Lễ cúng trâu trắng do Cai lệ (Hamu cúng tại nơi dựng tấm bi “Yang Tikuh” ia), thầy Kadhar (thầy kéo đàn Rabap), một mâm cơm, 1 mâm thịt, 1 mâm cỗ Muk pajau (bà bóng) thực hiện… Lễ bánh (bánh tét, trái cây hoa quả). Và được thực hiện một ngày từ sáng đến cúng tại đỉnh núi đá trắng gồm: 1 mâm chiều. Trong buổi sáng, Ông Cai lệ dắt cơm, một mâm thịt trâu, 1 cỗ bánh, 1 trâu trắng đến chân núi Đá Trắng và thau huyết trâu. làm lễ tâu trình với thần Yang tại tấm bi Nghi thức hành lễ, thầy Kadhar kéo “Yang tikuh” (thần Chuột) bằng lễ vật 3 đàn Rabap hát thánh ca mời các vị thần trứng gà, rượu và trầu cau… Sau khi tâu thì ông Cai lệ (Humua ia) đánh chiêng trình thần Yang, ông Cai lệ trở lại chân và Bà bóng (Muk pajau) dâng lễ vật. Họ núi Đá Trắng, ông Cai lệ đọc lời khấn mời các vị thần như thần đất (Po bhum), làm lễ tẩy uế con trâu và xin phép thần các vị thần núi ở núi đá trắng (Po cơk Yang làm lễ cắt cổ trâu. Nghi thức lễ yang patau), thần sông (Po patau ia), cắt cổ trâu diễn ra rất trọng thể. Trước thần mẹ xứ sở (Po Inư Nưgar), thần khi bị cắt cổ cúng thần, con trâu được thủy lợi (Pô KLong Garai, Pô Rô mê), làm lễ tẩy thể bằng “nước thần” (nước thần chuột phá hoại mùa màng (Yang có pha cát lồi). Sau đó trâu được buột tikuh)… Lễ này có sự tham gia của dân lại bốn chân và vật ngã nằm xuống đất. làng ở khu vực núi Đá Trắng, họ cũng Ông Hamu ia (Cai lệ) cầm cây kiếm dài dâng bánh trái, cầu khấn, múa mừng tạo hướng về phía mặt trời mọc, tay cầm 3 thành một lễ hội mang tính khu vực. Lễ tem trầu cau và một nắm gạo trắng vung này từ lâu đã trở thành phong tục, tín lên trời để cầu siêu cho linh hồn con ngưỡng của người Chăm. Do đó cứ 7 trâu. Ông Hamu ia cầu thánh Alla, thần năm 1 lần, người Chăm tổ chức lễ cúng đất, thần núi Đá Trắng, thần Chằn tinh trâu tại núi Đá Trắng. Dân gian Chăm (Cơk yang patau)… cho phép ông được có câu tục ngữ để tưởng nhớ đến tục lễ cắt cổ trâu và các vị thần sớm cầu siêu trên như sau: cho linh hồn con trâu và các vị thần Bilan năm yang tikuh nhanh mà đến hưởng lễ. Hết lời cầu khấn ông cắt cổ trâu. Trong lúc cắt cổ Bilan tajuh yang patau trâu ông Cai lệ nín thở cho đến khi (Tháng sáu cúng thần chuột phá hoại huyết trâu chảy hết và trâu tắt thở trong mùa màng tiếng chiêng và lời hát lễ của thầy Tháng bảy cúng thần Chằn tinh ở núi Kadhar kéo đàn Rabap. Đá Trắng) Lễ vật cúng thần Yang, thần Chằn http://www.vnptninhthuan.com.vn/SacCha tinh ở núi Đá Trắng, ngoài thịt trâu còn m/Lehoi.htm có hai con gà luộc, bánh chà cung (bánh bột gạo), 2 chén rượu cần, trứng, trầu cau, bánh trái… Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 18
  17. Trong hệ thống lễ hội Chăm lễ Puis, Payak là loại lễ nghi tín ngưỡng của người Chăm có từ lâu đời. Đây là lễ hội của tộc họ được tổ chức theo định kỳ 1 năm, 3 năm hoặc 7 năm một lần. Lễ Puis, Payak là hai loại lễ khác nhau, tuỳ theo phong tục thờ cúng, hệ thống thờ thần mà mỗi tộc họ tổ chức lễ Puis hoặc Payak để tế thần linh. Lễ Puis: Là loại lễ nghi của tộc họ cúng để trả lễ và thết đãi thần Lễ rước y trang Nữ thần Pô Inư Nưgar linh (Jiư muk key) - cụ thể là lễ tế thần Po Rame. Lễ này thường được hiện được bất cứ tháng nào trong năm và tổ chức theo định kỳ 1 năm, 2 năm hoặc phải là ngày chẳn trong tháng 3, 4, 5 trừ 7 năm một lần khi tộc họ làm ăn được tháng 11 và 12 (bilan Puis, mak). Vì hai mùa, phát đạt con cháu sum họp. tháng này người Chăm thường cử hành lễ Lễ Puis được tổ chức phổ biến trong đăng quan, tiến chức cho các vị vua chúa tộc họ thuộc các làng thờ tháp Pô Rô mê cho nên phải kiêng cữ. như Hậu sanh, Mỹ Nghiệp, Vĩnh Thuận, Sau khi được thầy Kadhar ấn định Vụ Bổn, Hiếu Thiện (Ninh Thuận)… ngày tháng tổ chức lễ thì lễ Puis được Còn các tộc họ khác thờ cúng thuộc khu diễn ra trong một nhà lễ (Kajang) trong lễ vực tháp Pô KLong Garai (Đô Vinh - Puis có hai loại: Loại nhà lễ không có lợp Ninh Thuận) thì làm lễ cúng Payak. Tục mái (Kajang mưtưh danah buah) và nhà lễ ấy đã có từ xưa đến nay và đã trở thành lễ lợp mái (kajang bah bauh). Tuỳ theo phong tục, tín ngưỡng của tộc họ. Cứ như tộc họ có tục cúng nhà lễ nào thì dựng thế khi đến chu kỳ cúng lễ hàng năm thì theo nhà lễ kiểu ấy. Ở hai nhà lễ này mặc tộc họ phải thực hiện những lễ cúng trên. dù hình thức khác nhau nhưng nội dung Khi đến một chu kỳ cúng lễ Puis của hành lễ, lễ vật hiến tế đều giống nhau. Ở tộc họ thì trưởng tộc họ (akauk gơp) có đây chỉ khảo tả lại lễ Puis có hình thức nhiệm vụ đi thông báo đến các thành viên nhà lễ một mái. tộc họ và góp tiền của để thực hiện lễ Trong ngày làm lễ, từ sáng sớm tộc họ cúng. Khi đã đủ điều kiện về vật chất và tập trung đông đủ tại nhà được tổ chức lễ. tài chính thì ông trưởng tộc đem lễ vật Phụ nữ được phân công nhau chuẩn bị lễ (trầu, rượu) đến nhà thầy Kadhar Gru - vật như gói bánh, trầu cau, bánh trái… thầy tế lễ Puis để xem ngày lành thàng tốt Còn đàn ông thì làm heo, gà… và dựng cúng lễ. Thông thường thì lễ Puis thực nhà lễ. Nhà lễ không rộng lắm (4m x Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 19
  18. 5m), chủ yếu làm bằng tre, và mái thì lợp một khay trầu, khay rượu, bình trà, chén tranh hoặc tấm bạt và mở một lối ra vào ở lửa đốt trầm. hướng đông – tây. Lễ Puis do thầy kéo đàn Rabap Lễ vật cúng lễ Puis bao gồm: (Kadhar) và bà bóng (Muk pajau) là chủ - 1 bộ y phục đàn ông (1 cái váy tế lễ chính. Sau khi vật đã chuẩn bị xong trắng, 1 dây thắt lưng, 1 cái áo sah, 1 cái thì trong buổi sáng hôm đó chủ nhà đem khăn đội đầu) và 1 bộ trang phục đàn bà lễ vật trầu rượu đến làm lễ đón rước đàn (1 cái váy trắng, 1 dây thắt lưng, 1 cái áo, Rabap và gạo lễ - vật tổ của thầy Kadhar 1 cái khăn đội đầu). Hai bộ trang phục và Muk pajau. Sau đó lễ được tiến hành, này được treo lên trước bàn tổ trong nhà bà bóng khấn vái mời thần linh, tổ tiên lễ (Kajang). trong nhà trình lễ. Sau đó là làm lễ cúng cá khô (ngak yang tachauk rik) và cúng 5 - Ngoài trang phục lễ, lễ vật dâng mâm cơm (ieu tamư salao lithey). cúng còn có cơm canh, rượu trứng, cá khô, bánh chakun (bánh hấp bằng bột Sau lễ cúng các vị thần tổ tiên trong gạo), cơm rượu (tapai thanh) và 3 chén nhà (Po truak patra) thì thầy Kadhar và rượu cần (ia tapay) và hoa quả… Muk pajau bắt đầu cúng mời đãi các vị thần linh sau: Thần Siva (Po Ginôr Tất cả những lễ vật được sắp xếp theo mưtri), Thần trong nhà (Yang di sang), mâm lễ. Tùy theo lễ cúng vị thần nào mà Thần mẹ xứ sở (Po Inư Nưgar taha), mâm lễ vật được xếp trên mâm 5 tầng, 7 Thần mẹ xứ sở Hamu Mưrâu (Po Inư tầng, 8 tầng hoặc 9 tầng. Mỗi tầng lễ vật Nưgar hamu Mưrâu), Thần mẹ xứ sở được sắp xếp xen kẽ nhau bao gồm: bánh Hamu Ram (po Inư Nưgar Hamu Ram), tét (pay nung), bánh chakun (kur), bánh Quan văn (Po Par), Vua Chăm thế kỷ tráng (pay Chăm), cá khô (rik), chuối XVII (Po Rame), Vua Chăm thế kỷ XIV (patey)… Tổng cộng tất cả 16 mâm lễ, (Po Thun Garai), Quan phó vương miền trong đó hai mâm xếp 9 tầng (kaya núi (Po Garai phauk), Po Klaung Kasat, salipan), 2 mâm xếp 7 tầng (kaya tajuh), Cey Thuơr (biệt hiệu thần Po Klaung 4 mâm xếp 8 tầng (kaya dalipan), 3 mâm Garai), Thần Yang in (Po Yang In), Thần xếp 5 tầng (kaya limư) và với 5 mâm rừng trầm, rừng quế (po Tang, Po Galau), cơm (cơm, canh, cá khô, thịt gà luộc…) Thần sóng biển (Po Riyak), Chàng trai trẻ Tất cả mâm lễ vật được đặt hai bàn tổ (Po Dam), Tổ tiên (Po Trauk, Po Patra). (sanai) chính bên trong nhà lễ. Mỗi vị thần trên khi được mời về dự Ngoài những mâm lễ như trên thì ở thầy Kadhar kéo đàn Rabap hát bài thánh chính giữa nhà lễ còn có bàn tổ của Muk ca, ca ngợi công lao tiểu sử của các vị Pajau (bà bóng) - bàn tổ chính của nhà lễ. thần. Trong lúc thầy Kadhar hát bài thánh Ở bàn tổ này có đặt một “thôn hala”, 1 ca thì bà bóng (Muk pajau) rót rượu cầu khay trầu le, khay rượu, gạo lễ (brah khấn và dâng lễ vật. Bà con dự lễ cũng kran) tô nước lã và chén lửa đốt trầm. Ở cầu khấn cho các vị thần linh vui lòng bên trái bàn tổ bà bóng còn có bàn tổ thầy hưởng lễ vật của tộc họ dâng cúng mà kéo đàn Rabap và bàn tổ của chủ nhà (Po phù hộ độ trì cho tộc họ. Nghi thức hành sang). Ở hai bàn tổ này, mỗi bàn có đặt lễ cúng thần linh và nội dung hát ở lễ Puis này tương tự như nghi lễ cầu cúng ở Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 20
  19. các lễ liên quan đến đền tháp Chăm như những hạt lúa nổ (kaman) rãi khắp bàn tổ lễ mở cửa tháp (pơh băng yang), lễ hội trong nhà lễ rồi rót rượu xuống đất miệng Katê… cầu khấn: Nghi lễ cúng thần đã kết thúc, Tiếp theo lễ đãi thần linh thì bà bóng cầu mong các vị thần trong đền tháp (Muk pajau) còn múa dâng lễ. Múa dâng (yang bimôn kalan), các vị thần trong nhà lễ chỉ được thực hiện ở phần tế lễ đãi (yang di sang) và tổ tiên… phù hộ độ trì thần Siva (Po Ginôr Mưtri), Po Inư cho tộc họ sức khỏe, được mùa, đoàn kết Nưgar, Po Rame. Nghi thức múa cúng lễ sum họp, thương yêu lẫn nhau… Sau lời 3 vị thần vừa nêu trên đều như nhau. khấn thì nghi lễ chấm dứt. Nhà lễ lập tức Thầy Kadhar kéo đàn Rabap hát mời, bà được dỡ bỏ, nghi lễ tế thần linh - Puis kết bóng múa và dâng lễ vật mỗi vị thần một thúc trong ngày. khay trầu và một ché rượu cần. Chỉ có Lễ Payak: múa dâng lễ ở vị thần mẹ xứ sở thì bà bóng còn có tục múa dâng gạo, lúa bằng động tác múa đi xung quanh 3 mũng gạo và múa đạp vào đống lúa đổ sẵn trên chiếu lễ ở bàn tổ. Nghi thức múa lễ này người Chăm còn gọi là “múa đạp lúa”. Lễ múa này người Chăm nhằm tưởng nhớ vị thần mẹ Po Inư Nưgar - Nữ thần hiện thân cho mẹ lúa, hồn lúa và họ cầu mong cho được mùa màng, đời sống ấm no, sung túc. Những điệu múa hát theo lễ như trên được hòa vào tiếng đàn Cả sư dâng lễ vật cúng thầnPôklong Garai Rabap, trống Basanưng, Chiêng, nhạc gõ bằng gỗ (người Chăm gọi là tăm Là lễ của tộc họ chủ yếu là cúng vị gek). Tất cả những lời ca điệu múa ấy thần tổ tiên (yang di sang) và thần Pô mang một âm hưởng trầm hùng cùng với KLong Garai. Lễ payak do các tộc thuộc tiếng vỗ tay nhiệt thành của những người các làng Chăm thờ tháp Pô KLong Garai tham gia lễ tạo nên một nhạc lễ riêng biệt thực hiện như: làng Phước Đồng, Chất đặc sắc của lễ Puis, Payak mà người Thường, Hiếu Lễ, Hoài Trung (Ninh Chăm gọi nhạc lễ này là điệu nhạc Phước - Ninh Thuận)… “Chiêng jăp” Hành lễ Payak cũng tương tự như lễ Sau lễ múa hát kết thúc thì họ tổ chức Puis là do thầy Kadhar và bà bóng thực lễ tiễn đưa các vị thần hưởng lễ về thiên hiện. giới. Lễ này ông thầy kéo đàn Rabap và Lễ này chỉ khác ở chỗ là khi thầy bà bóng cúng tâu trình với các thần linh Kadhar kéo đàn Rabap hát mời vị thần là lễ tế đãi thần của tộc họ đến đây kết Siva thì bà bóng thực hiện nghi lễ “thả ba thúc. Bà bóng ngồi rót rượu, tay cầm Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 21
  20. hạt gạo trôi trong lọ nước”, rồi bà bóng váy ra. Bà bóng cứ làm động tác cầm hai đợi cho đến khi 3 hạt gạo trôi đến gần đầu váy múa nửa kín nửa hở; nhảy múa nhau thì dùng lá trầu vớt 3 hạt gạo lên. trước bàn tổ để dâng cúng thần linh. Nghi Đó là điềm báo tộc họ này sum họp, làm thức múa mặc váy nửa kín, nửa hở như ăn thịnh vượng, may mắn. Sau đó họ làm trên người Chăm gọi là múa thoát y lễ thết đãi cơm, rượu cần như lễ Puis vừa (tamin lang halaup). nêu trên. - Nghi lễ múa mừng hạt lúa nổ: Bắt Trong lễ tế các vị thần linh trong lễ đầu điệu múa “Mừng hạt lúa nổ”. Bà Payak, khi cúng đến thần Pô KLong bóng nằm dài trên chiếc chiếu cổ (ciew Garai - đối tượng cúng chính của lễ này ang) đặt ở chính giữa nhà lễ, đầu hướng thì thầy Kadhar có một nghi lễ riêng. Khi về hướng đông. Bên cạnh bà bóng nằm cúng thần Pô KLong Garai thì thầy có đặt một chén nước lễ, trong đó có 3 Kadhar kéo vạt áo lên trùm đầu và hát hạt lúa nổ và một chén rượu cần. Khi vào những bài thánh ca, bà bóng dâng lễ vật lễ múa thì bà bóng ngậm nước phun vào cơm canh, ché rượu cần cho thần, rồi bà bàn tổ 3 lần rồi múa mừng theo tiếng đàn bóng múa lễ mừng. Rabap, tiếng trống Paranưng và tiếng Múa trong lễ Payak phong phú hơn lễ Chiêng lễ. Puis. Ngoài lễ múa mừng (tamia ôn), - Nghi lễ múa cho con ăn: Lễ múa này dâng đạp lúa (tammia jaup paday) còn có do bà bóng và vũ sư của tộc họ thực hiện. múa ngậm lửa (tamia jauk apaui), múa Chuẩn bị lễ vật múa cho con ăn bao gồm: thoát y (tamia halang halaup), múa mừng mâm cơm, canh, cá, gà luộc, chuối. Sau hạt lúa (tamia ôn kaman), múa cho con khi lễ vật chuẩn bị xong thì bà bóng và ăn (tamia crauk lithey ka anưk), múa ru vũ sư ngồi vào bàn tổ. Trên vai bà vũ sư con (tamia dai anưk)… có đeo một chiếc váy trắng ngang ngực - - Nghi thức múa mừng và múa đạp tượng trưng cho tục “điệu con”. Lúc vào lúa tương tự như lễ Puis. lễ thì bà con dự lễ rót rượu khấn vái tổ tiên thần linh cho tộc họ con đàn cháu - Múa ngậm lửa: là một điệu múa của đống. Thầy Kadhar kéo đàn Rabap hát bà bóng, tay cầm 3 cây nến thắp sáng rồi bài lễ “cho con ăn”. Trong lúc Kadhar hát ngậm lửa vào miệng. Khi bà bóng ngậm lễ thì bà bóng làm động tác cho con ăn. lửa vào miệng mà nhún nhảy thì thầy Đầu tiên bà bóng múa cho con uống Kadhar kéo đàn Rabap và nghệ nhân nước, tiếp đó là xúc miệng cho con bằng khác vỗ trống Paranưng, đánh chiêng dồn nước muối. Sau đó là cho con ăn cơm với dập… Khi bà bóng múa và ngậm tắt 3 cá, đùi gà và cuối cùng là trái chuối. Tất nén lửa thắp sáng thì múa lễ này kết thúc. cả lễ vật đó bà bóng bỏ vào chiếc váy - Múa thoát y: Để thực hiện điệu múa trắng mà vũ sư đang đeo trước ngực. Vì lễ này ngoài bộ y phục màu trắng mà bà chiếc váy đeo tượng trưng cho con. Sau bóng mặc đang hành lễ, thì bà bóng còn lễ cho ăn thì bà bóng múa mừng. mặc chồng lên thêm một cái váy màu - Múa lễ ru con: Múa lễ ru con do vũ đen. Khi tiếng nhạc lễ cất lên thì điệu sư (Muk Rija) thực hiện. Bắt đầu vào lễ múa bắt đầu. Bà bóng tay cầm hai đầu này thì nhà lễ được tháo gỡ để trống ở váy đen vừa mặc, vừa làm động tác mở đầu nhà lễ. Ở phần trống này họ treo một Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 22
nguon tai.lieu . vn